NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG ĂN MÒN, XÂM THỰC CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG DÂN DỤNG VÀ CÔNG NGHIỆP VÙNG VEN BIỂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG ĂN MÒN, XÂM THỰC
CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG DÂN DỤNG VÀ CÔNG NGHIỆP
VÙNG VEN BIỂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VÀ
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG
Chủ nhiệm đề tài: ThS. TRƯƠNG HOÀI CHÍNH
Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng
I. MỞ ĐẦU:
Vấn đề ăn mòn phá hủy vật liệu trong môi trường nước biển là một vấn
đề hết sức phức tạp. Do vậy, việc nghiên cứu đưa ra biện pháp bảo vệ chống
ăn mòn xâm thực một cách có hiệu quả cho các công trình phải được dựa
trên cơ sở của các kết quả nghiên cứu cụ thể về mức độ xâm thực của môi
trường, như tác động của khí hậu, môi trường nước biển và môi trường
không khí.
Đối với các quốc gia, thành phố có nhiều biển thì các công trình xây
dựng ven biển như cầu, cảng,… đóng một vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển kinh tế. Do vậy việc nghiên cứu phương pháp bảo vệ chống ăn
mòn nhằm nâng cao tuổi thọ cho các công trình là một vấn đề hết sức quan
trọng. Hiện nay, trên thế giới, hầu hết các công trình ven biển, trên biển của
các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều được ứng dụng các công nghệ
chống ăn mòn phù hợp.
Thành phố Đà Nẵng với vị trí địa lý có bờ biển dài do vậy có rất nhiều
công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp (DD&CN) nằm trên biển hoặc
ven biển đặc biệt là các công trình cầu cảng. Hiện nay, ở Đà Nẵng có 3 cầu
cảng chính làm nhiệm vụ khác nhau gồm cảng cá Thuận Phước, cảng Liên
Chiểu, cảng Tiên Sa. Các cảng này đóng một vai trò rất quan trọng, góp
phần vào sự phát triển kinh tế của thành phố, đặc biệt là cảng Tiên Sa, làm
nhiệm vụ xuất và nhập hàng hóa lớn của khu vực miền Trung và cả nước.
Tuy nhiên, cho đến hiện nay chưa có một công trình nào được ứng dụng
những biện pháp chống ăn mòn xâm thực một cách hiệu quả.
Chính vì thế, việc nghiên cứu khảo sát tình trạng và tìm ra nguyên nhân
gây ăn mòn phá hủy các công trình là vấn đề rất cần thiết và cấp bách nhằm
góp phần vào việc đánh giá được tình trạng, mức độ hư hỏng, tìm ra được
nguyên nhân, trên cơ sở đó đưa ra các phương pháp sửa chữa phục hồi các
công trình, dự báo khả năng ăn mòn phá hủy cho các công trình, dự báo khả
năng ăn mòn xâm thực, phương pháp ứng dụng chống ăn mòn phá hủy cho
các công trình đang hoạt động nói riêng và những công trình đang và sẽ đầu
tư xây dựng tại vùng ven biển Đà Nẵng nói chung, nhằm nâng cao tuổi thọ
của các công trình, góp phần vào sự phát triển kinh tế ổn định cho thành
phố.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu khảo sát thực trạng về mức độ xâm thực của môi trường
không khí, nước biển của vùng ven biển Đà Nẵng và dựa trên việc khảo sát
thực trạng của các công trình tiêu biểu vùng ven biển thành phố Đà Nẵng để
đưa ra các dự báo về tình trạng ăn mòn của các công trình. Trên cơ sở khảo
sát, đo đạc nghiên cứu và kết quả thử nghiệm đề tài sẽ đưa ra những biện
pháp sửa chữa phục hồi các công trình và biện pháp chống ăn mòn phù hợp
đặc biệt với công trình bê tông cốt thép vùng ven biển thành phố Đà Nẵng.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. Đặc trưng chung của biển và quá trình ăn mòn trong môi trường biển;
2. Khảo sát, phân tích đánh giá môi trường xâm thực vùng ven biển
thành phố Đà Nẵng;
3. Nghiên cứu khảo sát và đánh giá tình trạng ăn mòn xâm thực của các
công trình xây dựng vùng ven biển thành phố Đà Nẵng;
4. Phân tích nguyên nhân, dự báo mức độ ăn mòn phá hủy của các công
trình xây dựng vùng ven biển thành phố Đà Nẵng;
5. Đề xuất các giải pháp bảo vệ phòng và chống ăn mòn xâm thực cho
các công trình xây dựng vùng ven biển Đà Nẵng - Công nghệ chống ăn mòn
- Thử nghiệm thiết bị bảo vệ chống ăn mòn.
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Chương 1: Đặc trưng chung của biển và quá trình ăn mòn trong môi
trường biển:
1. Những đặc trưng của môi trường biển:
- Với diện tích của nước biển chiếm hơn 70% diện tích trái đất, sự khác
nhau của các vùng khí hậu, đặc điểm địa lý,… do vậy thành phần và những
tính chất hóa lý của nước biển cũng thay đổi rất nhiều.
- Nước biển chứa khoảng 30-40g muối tan và khoảng vài chục mg các
chất ở dạng huyền phù. Khối lượng muối trong nước biển thay đổi theo vị trí
địa lý của các vùng này, vùng khác, theo mùa.
- Độ muối lớn của nước biển đóng vai trò quan trọng cho tính chất dẫn
điện của nước biển, điện trở của nước biển khoảng 20Ω.cm, giá trị này nhỏ
hơn một nghìn lần so với nước ngọt.
- Nhiệt độ của nước biển liên quan đến sự trao đổi với môi trường
không khí. Sự thay đổi nhiệt độ là một tham số ảnh hưởng hầu như toàn bộ
các tham số như độ hòa tan của các khí, hoạt động của các vi sinh vật hoặc
sự cân bằng hóa học. Như vậy thông thường rất khó khăn đánh giá được
hiệu ứng của nó đến quá trình phá hủy vật liệu.
- Áp suất thủy tĩnh là một trong những tham số quan trọng đối với công
trình nằm sâu trong nước biển. Sự thay đổi áp suất theo độ sâu là 1atm/10m.
Sự thay đổi này ảnh hưởng rất nhiều đến nhiệt độ và sự hòa tan của oxy.
- Hoạt động của các vi sinh vật ảnh hưởng đến pH, nồng độ CO 2, O2
hòa tan thông qua quá trình quang hợp, hô hấp (oxy hóa sinh học). Quá trình
hô hấp tiêu thụ các vật liệu hữu cơ, oxy và sinh ra CO 2, điều này có khuynh
hướng làm giảm pH. Sự thay đổi pH, nồng độ oxy hòa tan theo chiều sâu
thông thường được liên quan với nhau. Sự nhúng chìm một vật liệu không
toxit vào nước biển, đứng trên phương diện sinh vật học, trong một thời gian
sẽ tạo thành một lớp mỏng sinh vật chứa những vi khuẩn, tảo. Lớp vi sinh
vật, “rác bẩn của biển” bao bọc công trình và gây ra quá trình ăn mòn của
vật liệu.
- Dòng chảy của biển, sự tạo cặn trên bề mặt và những tham số khác
làm tăng cường cho quá trình ăn mòn, nhất là những vùng nước bị khuấy
động.
2. Cơ chế ăn mòn kim loại trong môi trường biển:
Trong môi trường biển, những kiểu ăn mòn chính, chủ yếu xảy ra như
sau:
- Ăn mòn pin galvanique: Do sự dẫn điện tốt của môi trường biển.
- Ăn mòn vết và ăn mòn lỗ: Do hàm lượng Cl- trong nước biển.
- Ăn mòn sinh học: Do hoạt động của các vi sinh vật.
Cuối cùng là sự ăn mòn xảy ra theo các kiểu khác nhau tùy thuộc vào
kim loại nhúng chìm trong nước biển, do hiện tượng thủy triều mà chúng
thường xuyên hay không thường xuyên với những kỳ sấy khô khi tiếp xúc
với không khí.
Những vùng ăn mòn của công trình trong môi trường biển: Sự ăn mòn
vật liệu có thể thay đổi tùy theo vị trí và điều kiện tiếp xúc của vật liệu,
người ta phân biệt các vùng khác nhau:
- Vùng tiếp xúc với không khí: Vùng này có thể xảy ra quá trình ăn
mòn do phản ứng kim loại với oxy của không khí. Khi độ ẩm và nồng độ của
một vài chất ô nhiễm trong không khí cho phép tạo thành một chất điện phân
trên bề mặt, cơ chế giống với cơ chế của sự ăn mòn trong môi trường nước.
- Vùng nước bắn: Vùng này nằm ngay trên vùng tiếp giáp với mực
nước biển. Đối với những kim loại không thụ động, như thép carbon, thép
hợp kim yếu, thì sự ăn mòn trong vùng này rất mạnh.
- Vùng nước thủy triều: Là vùng nằm giữa mức cao và mức thấp thủy
triều. Kim loại nằm trong vùng tiếp xúc khi thủy triều lên và không tiếp xúc
khi thủy triều xuống.
- Vùng chìm trong nước biển: Đây là vùng tiếp xúc thường xuyên với
nước biển, sự ăn mòn mạnh xảy ra ngay tại vùng ranh giới tạo mức nước
thấp nhất vì một pin ăn mòn tạo thành với phần trên của công trình. Pin này
được mang tên là pin thông gió, phần trên nằm trong vùng thủy triều tiếp
xúc với môi trường nhiều không khí, tạo nên cathode nơi xảy ra quá trình
khử của O2. Phần nằm ngay phía dưới (vùng ngập trong nước biển) tạo thành
anode, nơi xảy ra quá trình oxy hóa kim loại.
- Vùng trầm tích (cặn): Vùng này rất phức tạp, tương ứng với phần
công trình bị chôn vùi trong biển. Vùng này không đơn giản là quá trình tích
tụ những vật liệu rắn từ trong nước, mà trong vùng này còn xảy ra rất nhiều
quá trình chuyển hóa liên quan đến hoạt động của các vi sinh vật và những
dòng trao đổi vật liệu giữa vùng trầm tích và nước biển.
3. Các dạng ăn mòn trong môi trường nước biển:
- Ăn mòn galvanique và ăn mòn chọn lựa: Sự ăn mòn kim loại pin
galvanique là sự ăn mòn do tạo thành pin giữa các kim loại mà những đặc
tính điện hóa khác nhau trong một môi trường.
- Ăn mòn vết, ăn mòn lỗ: Hai kiểu ăn mòn này xảy ra rất phổ biến trong
môi trường biển do hàm lượng Cl- trong biển rất lớn. Kiểu ăn mòn vết xảy ra
thông thường đối với kim loại thụ động bởi màng oxyt mỏng trên bề mặt, sự
ăn mòn này gây ra bởi những ion đặc trưng, đặc biệt là ion Cl - và tạo thành
những vết rất nhỏ vài chục micromet. Ăn mòn lỗ là những trường hợp sự tấn
công chọn lựa vào những vị trí khe, vết nứt của kim loại, dung dịch không
thể trao đổi với môi trường, oxy trong vùng này nhanh chóng bị tiêu thụ, sự
hòa tan anode của kim loại sẽ dẫn đến sự tích tụ các ion kim loại và chúng sẽ
phải được cân bằng điện với sự dịch chuyển của ion đến từ bên ngoài lỗ.
- Phá hủy sinh vật: Là sự thay đổi toàn bộ tính chất lý hóa, cơ học của
kim loại dưới tác dụng của các vi sinh vật như các vi khuẩn, nấm, mốc, tảo.
- Ăn mòn - Xói mòn: Ăn mòn xói mòn được phân biệt thành hai loại, ăn
mòn mài mòn là sự phá hủy cơ học do sự có mặt của những hạt dạng huyền
phù. Ăn mòn xâm thực là kết quả của sự xâm thực những bọt khí trên bề
mặt.
4. Kết luận: Quá trình ăn mòn phá hủy vật liệu, công trình trong môi trường
nước biển là quá trình phức tạp. Việc nghiên cứu khảo sát nguyên nhân, tình
trạng ăn mòn phá hủy của các công trình trong biển, ven biển để tìm ra được
biện pháp phòng chống là vấn đề cần thiết nhằm nâng cao tuổi thọ cho các
công trình.
Chương 2: Khảo sát, phân tích đánh giá môi trường xâm thực vùng ven
biển thành phố Đà Nẵng:
1.Kết quả khảo sát và đo đạc môi trường xâm thực vùng ven biển thành phố
Đà Nẵng:
- Vị trí khảo sát:
+ Cầu Nguyễn Văn Trỗi.
+ Cảng cá Thuận Phước.
+ Cảng Tiên Sa.
+ Cảng Liên Chiểu.
- Thời gian khảo sát và đo đạc:
+ Mùa khô: Vào tháng 6, 7.
+ Mùa mưa: Vào tháng 11, 12.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Sử dụng thiết bị đo đạc trực tiếp tại hiện trường.
+ Sử dụng thiết bị lấy mẫu và tiến hành đo đạc, phân tích phòng thí
nghiệm.
- Các kết quả khảo sát và đo đạc: (Xem báo cáo tổng kết)
2. Phân tích mức độ xâm thực của môi trường:
- Theo kết quả đo đạc, ở Đà Nẵng, nhiệt độ dao động từ 21,3 - 29,1 0C,
độ ẩm trung bình quanh năm lớn khoảng 85%, lượng mưa trung bình hằng
năm 2041,5mm, số ngày sương mù 3,3 ngày. Dưới điều kiện khí hậu như
vậy tốc độ ăn mòn thép CT3 (g/m2.năm) bằng 382,1.
- Sông Hàn và sông Cu Đê tạo thành hai cửa biển, tại những vị trí này
độ mặn của nước biển giảm nhưng ngược lại, tại hai vị trí này chứa rất nhiều
bùn và phù sa là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của quá trình ăn mòn
phá hủy các công trình do các vi sinh vật.
- Với đặc điểm độ ẩm không khí cao đặc biệt mùa mưa, kết hợp với
những cơn mưa thường xuyên dẫn đến bề mặt công trình luôn luôn bị ẩm
ướt. Sự ẩm ướt bề mặt của công trình làm tăng khả năng khuếch tán các ion
xâm thực qua các lớp bê tông bảo vệ. Sự chênh lệch lớn của nhiệt độ giữa
mùa đông và mùa hè, kèm theo sự thay đổi mạnh của độ ẩm giữa mùa mưa
(~40%) và mùa khô (~85%) gây nên sự giản nở của lớp BT bảo vệ, sinh ra
các vết nứt trên bề mặt cũng tăng cường quá trình thâm nhập các tác nhân
gây ăn mòn phá hủy.
- Nước biển là một trong những môi trường có độ xâm thực mạnh do
chứa nhiều tác nhân gây ăn mòn và phá hủy như Cl -, SO42-, O2 hòa tan, ngoài
ra còn có các khoáng chất khác. Sự ăn mòn phá hủy các công trình xảy ra
mạnh nhất tại vùng mực nước lên xuống, nơi tiếp xúc ba vùng không khí,
nước biển và bề mặt công trình. Chính vì vậy việc khảo sát thành phần nước
biển ở tầng bề mặt rất quan trọng trong việc đánh giá mức độ xâm thực gây
ăn mòn phá hủy của các công trình.
3. Kết luận: Mức độ xâm thực của môi trường (không khí, nước biển) là một
yếu tố quyết định đến khả năng gây ăn mòn phá hủy của các công trình. Kết
quả khảo sát cho thấy, đặc điểm thành phần nước biển, môi trường không
khí của các vùng ven biển Đà Nẵng có độ xâm thực từ trung bình đến nặng.
Bên cạnh đó, các công trình luôn chịu ảnh hưởng lớn của khí hậu như tác
động thường xuyên của nhiệt độ, độ ẩm, hàm lượng Cl - khuếch tán lớn, tác
động theo chu kỳ khô - ẩm và nhiều gió bão gây ảnh hưởng rất lớn đến tuổi
thọ của các công trình. Mùa đông, thường có những cơn mưa phùn, thời tiết
hanh khô, ngược lại mùa hè, trời nóng làm nước bốc hơi nhanh nhưng đôi
lúc cũng có những cơn mưa đột ngột. Chính những tác nhân này gây nên
những quá trình khô ẩm trên bề mặt kết cấu công trình, tăng cường quá trình
xâm thực của các tác nhân gây ăn mòn phá hủy đến công trình.
Chương 3: Nghiên cứu khảo sát và đánh giá tình trạng ăn mòn xâm
thực của các công trình xây dựng vùng ven biển thành phố Đà Nẵng:
1. Đặt vấn đề:
Ở Đà Nẵng, do đặc điểm vị trí địa lý, khí hậu nhiệt độ, độ ẩm cao, kết
hợp với môi trường vùng biển thì quá trình ăn mòn xâm thực đối với các
công trình xây dựng bằng BTCT là điều không thể tránh khỏi và ở mức độ
rất mạnh. Do vậy việc đánh giá hiện trạng ăn mòn xâm thực các công trình
là vấn đề cần thiết, làm cơ sở cho việc triển khai ứng dụng các công nghệ
chống ăn mòn, mang lại hiệu quả đầu tư cao, góp phần vào sự phát triển kinh
tế ổn định cho thành phố.
2. Vị trí và phương pháp nghiên cứu khảo sát mức độ ăn mòn xâm thực của
các công trình:
- Các vị trí được chọn lựa nghiên cứu khảo sát bao gồm:
+ Công trình cầu Nguyễn Văn Trỗi (Thép).
+ Công trình cảng cá Thuận Phước (BTCT).
+ Công trình cảng Tiên Sa (BTCT).
+ Công trình cảng Liên Chiểu (BTCT).
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện được dựa trên
phương pháp đo đạc tại hiện trường hoặc lấy mẫu đo đạc các chỉ tiêu tại
phòng thí nghiệm. Các dụng cụ nghiên cứu bao gồm:
+ Máy đo điện thế ăn mòn Ag/AgCl
+ Máy đo chiều dày màng sơn
+ Máy đo đường kính cốt thép PROFOMETER 5-S
+ Máy đo cường độ Bê tông (súng bật nảy Thụy Sĩ)
3. Kết quả khảo sát và đo đạc: Xem báo cáo tổng kết.
4. Phân tích đánh giá thực trạng ăn mòn xâm thực của các công trình xây
dựng bằng thép và BTCT vùng ven biển thành phố Đà Nẵng:
Việc đánh giá các tác nhân gây ăn mòn, xâm thực đến các công trình
BTCT và thép ở Đà Nẵng dựa trên hai yếu tố chủ quan và khách quan. Về
yếu tố chủ quan là do ảnh hưởng của môi trường xâm thực như: Vị trí địa lý,
đặc điểm khí hậu Đà Nẵng, các tác nhân trong môi trường không khí, các tác
nhân trong môi trường nước biển. Về yếu tố khách quan bao gồm việc thiết
kế, thi công, công tác bảo trì, ứng dụng công nghệ ăn mòn cho các công
trình. Do đặc điểm của từng vị trí, cấu trúc của các công trình khác nhau nên
việc đánh giá dựa trên tình trạng của từng công trình cụ thể.
a. Công trình xây dựng bằng thép - Cầu Nguyễn Văn Trỗi: Theo kết quả
khảo sát và đo đạc, nhiều mảng sơn bị bong ra, thép bị lộ hẳn ra ngoài và bị
ăn mòn đánh thủng đặc biệt ở sàn cầu. Tình trạng ăn mòn xảy ra không đồng
đều, ăn mòn theo kiểu cục bộ. Phần chìm trong nước, hiện nay đang bảo vệ
bằng phương pháp anode hy sinh, hệ thống anode hy sinh này do CPRC-
Hanoi University of Technology, Việt Nam thiết kế, sản xuất và lắp đặt. Hệ
thống này áp dụng cho phần công trình bị nhúng chìm trong nước, thời gian
bảo vệ trong vòng 10 năm. Hiện nay, công tác bảo trì do Sở Giao thông
Công chính Đà Nẵng trực tiếp chỉ đạo, phần vị trí công trình tại mực nước
lên xuống thường xuyên sơn phủ, nhưng phần nằm trên mặt nước khô ráo thì
không được bảo trì do vậy tình trạng ăn mòn phá hủy mạnh, khoảng 15-25%
diện tích bị ăn mòn. Các dầm của kết cấu sàn nhiều chỗ bị ăn mòn mạnh, lớp
sơn phủ bị bong ra từng mảng, khuyết tật màng sơn lớn, nhiều vị trí bị ăn
mòn, phá hủy hoàn toàn không thể khôi phục được.
b. Cảng cá Thuận Phước: Kết quả đo đạc BTCT cho thấy chiều dài lớp
BT bảo vệ thay đổi từ 30-50mm, đường kính cốt thép từ 18-22, điện thế cốt
thép BT đều nhỏ hơn -300mV cho thấy khả năng ăn mòn cốt thép lớn hơn
90%. Phần vị trí công trình ngập nước bị ăn mòn tương đối mạnh, khả năng
cốt thép bị ăn mòn mạnh, nhiều chỗ tiết diện trụ cầu giảm 10-15%. Phần
công trình nằm ở vị trí nước lên xuống bị ăn mòn mạnh, cường độ chịu nén
của BT nằm trong khoảng RnTB=302-503 (daN/cm2), nhiều chỗ có vết nứt
chạy theo chiều dài của cốt thép, BT bị thấm nước. Điện thế đo đạc nhỏ hơn
-300mV cho thấy khả năng ăn mòn cốt thép lớn hơn 90%. Lớp BT bảo vệ bị
nhiễm Cl- nặng, hàm lượng Cl- đo đạc được 1,1% vượt rất xa ngưỡng ăn
mòn do ion Cl- tiêu chuẩn (0,06%). Các vị trí của công trình nằm trong vùng
không khí trên mặt biển cũng không nằm ngoài tình trạng ăn mòn, bê tông bị
vỡ ra từng mảng, do sự ăn mòn của cốt thép nên bị rỉ nặng.
c. Cảng cá Liên Chiểu: Qua kết quả khảo sát cho thấy, công trình cũng
đang ở tình trạng xuống cấp do bị ăn mòn phá hủy. Kết quả đo đạc BTCT
cho thấy tại vị trí nước lên xuống, sóng đánh, chiều dày lớp BT bảo vệ từ
25-48mm, đường kính cốt thép nằm trong khoảng 18-25mm, cường độ bê
tông thay đổi theo từng vị trí, dao động trong khoảng 378-530 (daN/cm 2), hà
bám nhiều, một số vị trí trụ cảng bị gãy. Hàm lượng Cl - trong bê tông đo
được 1,1% vượt rất xa ngưỡng ăn mòn do thấm Cl - và thấm đều theo chiều
sâu của lớp bê tông bảo vệ. Điện thế cốt thép đo đạc được đều nhỏ hơn
-300mV, cho thấy khả năng ăn mòn của cốt thép lớn hơn 90%, dự đoán cốt
thép bị rỉ nặng. Tại vùng nằm ở dưới mức nước biển, tiết diện của trụ cầu
giảm 15-25%, hà bám nhiều. Phần nằm trên mặt nước biển, khô ráo nhiều
chỗ bê tông bong từng mảng do cốt thép bị mòn hoặc do va đập cơ học cốt
thép lộ ra ngoài và rỉ mạnh.
d. Cảng Tiên Sa: Tại vị trí hai cầu cảng cũ, phần ngập nước bị hà bám
rất nhiều, đường kính trụ cầu bị giảm 20-50%, nhiều chỗ bê tông bị bong ra
từng mảng, vài trụ bị gãy. Các thanh giằng làm bằng thép bị hư hỏng hoàn
toàn. Phần nằm trên vùng không khí biển cũng nằm trong tình trạng bị ăn
mòn mạnh, bê tông nhiều chỗ bị nứt bong ra từng mảng do cốt thép bị ăn
mòn.
5. Kết luận:
Nhìn chung, dựa trên cơ sở khảo sát và đo đạc thực tế chúng ta thấy
toàn cảnh ăn mòn xâm thực đối với công trình xây dựng bị ảnh hưởng của
môi trường biển.
Đối với công trình xây dựng bằng thép (cầu Nguyễn Văn Trỗi) thì cả ba
vùng của công trình đều bị ăn mòn xâm thực mạnh. Vùng tiếp xúc với môi
trường không khí, phần diện tích bị ăn mòn chiếm khoảng 15-25%, ở vùng
này ăn mòn không đồng đều, chủ yếu tập trung vào những khu vực ẩm ướt
hoặc nơi có khuyết tật màng sơn. Nhiều vị trí dầm cầu bị ăn mòn phá hủy
không thể khôi phục được. Vùng nằm ở mực nước lên xuống, cũng nằm
trong khả năng ăn mòn lớn hơn 90%. Đối với vùng ngập chìm trong nước
cũng đang ở trạng thái bị ăn mòn, hệ thống bảo vệ anode hy sinh đã hết thời
gian hoạt động, tiết diện trụ cầu giảm so với phần nằm trong không khí.
Đối với các công trình xây dựng bằng BTCT, thì hầu hết các công trình
tùy vào thời gian xây dựng mà tình trạng bị ăn mòn từ mức trung bình đến
nặng, đặc biệt cảng Tiên Sa đang ở tình trạng ăn mòn phá hủy ở mức báo
động. Tình trạng ăn mòn phá hủy các công trình phụ thuộc vào điều kiện
môi trường hoặc nằm chìm trong nước biển, mức lên xuống của nước biển,
sóng đánh hoặc trên môi trường không khí biển.
Chương 4: Phân tích nguyên nhân, dự báo mức độ ăn mòn phá hủy của
các công trình xây dựng vùng ven biển thành phố Đà Nẵng:
1. Đặt vấn đề: Việc nghiên cứu tìm ra nguyên nhân gây ăn mòn phá hủy các
công trình là vấn đề cần thiết, kết quả nghiên cứu là cơ sở phục vụ cho việc
nghiên cứu đưa ra phương pháp chống ăn mòn hiệu quả cho các công trình.
Đối với những công trình xây dựng vùng ven biển Đà Nẵng, việc tìm ra
nguyên nhân và dự báo mức độ ăn mòn, ngoài việc xây dựng cơ sở để lựa
chọn phương pháp chống ăn mòn có hiệu quả, kết quả nghiên cứu cũng giúp
cho các nhà đầu tư nhận thấy rõ hơn về việc ứng dụng công nghệ chống ăn
mòn cho các công trình, định hướng cho thành phố Đà Nẵng nâng cao hơn
nữa việc phát triển kinh tế từ việc nâng cao tuổi thọ cho các công trình. Đặc
biệt là các công trình cầu cảng.
2. Phân tích nguyên nhân gây ăn mòn của các công trình ven biển Đà Nẵng:
- Vị trí địa lý và khí hậu của thành phố Đà Nẵng: Đà Nẵng với điều kiện
khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, nhiều nắng và mưa, trên bề mặt các công
trình luôn luôn bị ẩm ướt đó là môi trường điện phân tốt cho quá trình ăn
mòn phá hủy theo cơ chế điện hóa xảy ra. Ngoài ra, Đà Nẵng tập trung các
cửa sông chảy ra biển cụ thể có hai con sông là sông Hàn và sông Cu Đê, tại
những vị trí này độ mặn của nước biển giảm nhưng ngược lại tại hai vị trí
này chứa rất nhiều bùn và phù sa là môi trường thuận lợi cho sự phát triển
của các vi sinh vật. Chính vì những yếu tố địa lý và điều kiện khí hậu trên
mà vùng ven biển thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là các công trình xây dựng
rất dễ dàng bị xâm thực mạnh.
- Môi trường không khí, nước biển: Kết quả khảo sát đo đạc về môi
trường không khí, thành phần nước biển cho thấy môi trường ven biển là
môi trường xâm thực trung bình đến nặng. Bên cạnh đó với đặc điểm khí
hậu nóng ẩm cao, biên độ dao động của nhiệt độ giữa hai mùa trong năm
tương đối lớn. Như vậy chúng ta thấy, điều kiện không khí biển Đà Nẵng là
một môi trường thuận lợi cho quá trình ăn mòn, phá hủy vật liệu rất mạnh so
với môi trường khí hậu của các vùng biển trên thế giới. Ngoài ra, hàng năm
có nhiều cơn bão cũng là một trong những tác nhân gây ăn mòn, phá hủy các
công trình xây dựng ven biển Đà Nẵng.
- Chất lượng công trình, công tác bảo trì, tình hình ứng dụng công nghệ
chống ăn mòn của các công trình:
+ Chất lượng công trình: Hầu hết các công trình BTCT được khảo sát
tại cảng Liên Chiểu, cảng Tiên Sa, cảng Thuận Phước đều xuống cấp trước
thời hạn rất nhiều, thì nguyên nhân đầu tiên có thể là do chất lượng của công
trình không đảm bảo. Các nguyên nhân này có thể như sau: Trong quá trình
thiết kế, có thể chưa tuân thủ theo yêu cầu của tiêu chuẩn áp dụng đối với
các công trình mà có ba vùng khác nhau nằm trong biển; Trong quá trình thi
công, có thể chưa tuân thủ theo qui tắc thi công đối với các công trình biển
như việc sử dụng ván khuôn, xử lý cốt thép trước khi đổ bê tông.
+ Công tác bảo trì: Đến thời điểm hiện nay, trừ cầu Nguyễn Văn Trỗi,
các công trình đã khảo sát thì công tác bảo trì rất kém hoặc hầu như không
có sự bảo trì như công trình cảng Tiên Sa, cảng cá Thuận Phước, chỉ khi nào
sự cố hư hỏng nặng thì mới xử lý.
+ Ứng dụng công nghệ chống ăn mòn: Các công trình BTCT đã khảo
sát không có một thiết bị công nghệ chống ăn mòn nào được ứng dụng. Cảng
Tiên Sa, trước 1975 có ứng dụng công nghệ chống ăn mòn bằng phương
pháp anode hy sinh (theo báo cáo của ban quản lý cảng), nhưng sau đó gở bỏ
không hiểu nguyên nhân. Đối với cầu Nguyễn Văn Trỗi, có ứng dụng công
nghệ bảo vệ ăn mòn bằng phương pháp sơn phủ và phương pháp anode hy
sinh theo đánh giá thì có hiệu quả, nhưng nhìn chung do công tác bảo dưỡng
không thường xuyên nên tình trạng ăn mòn mạnh theo dạng ăn mòn cục bộ.
3. Dự báo hiện trạng ăn mòn xâm thực đối với các công trình:
- Tình trạng ăn mòn phá hủy của các công trình xây dựng DD&CN hiện
có tại vùng ven biển Đà Nẵng từ mức trung bình đến nặng, một số công trình
có mức độ ăn mòn ở tình trạng báo động. Môi trường, khí hậu vùng ven biển
Đà Nẵng mang tính chất xâm thực mạnh.
- Các công trình đều xuống cấp sau 5-10 năm sử dụng (theo quy định là
50 năm).
- Đối với các công trình đang xây dựng hoặc sẽ đầu tư trong tương lai
của vùng ven biển Đà Nẵng nếu không tuân thủ theo các tiêu chuẩn thiết kế
đối với các công trình ven biển và không sử dụng các công nghệ chống ăn
mòn chắc chắn sẽ ở trong tình trạng giống như các công trình đang khảo sát,
tình trạng xuống cấp nhanh sau 10-15 năm sử dụng và điều này sẽ dẫn đến
chi phí đầu tư cho việc sửa chữa nâng cấp các công trình 30-70% giá trị của
công trình.
4. Kết luận: Nhìn chung qua kết quả đo đạc và phân tích đánh giá cho thấy
nguyên nhân chủ yếu gây nên hiện tượng ăn mòn xâm thực đến các công
trình ven biển Đà Nẵng là do đặc điểm địa lý, khí hậu, môi trường không
khí, môi trường nước biển và đặc biệt là chất lượng công trình, công tác bảo
trì.
Chương 5: Đề xuất các giải pháp bảo vệ phòng và chống ăn mòn xâm
thực cho các công trình xây dựng vùng ven biển Đà Nẵng - Công nghệ
chống ăn mòn - Thử nghiệm thiết bị bảo vệ chống ăn mòn:
1. Các giải pháp và định hướng phòng chống ăn mòn cho các công trình xây
dựng BTCT vùng ven biển thành phố Đà Nẵng: Các giải pháp chống ăn mòn
cho các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp được xây dựng trên
cơ sở của các kết quả nghiên cứu và tài liệu tham khảo liên quan tại Việt
Nam. Phạm vi ứng dụng các giải pháp này bao gồm từ việc thiết kế, lựa
chọn vật liệu, qui trình thiết kế áp dụng đối với các công trình BTCT vùng
ven biển Đà Nẵng.
- Phân vùng chống ăn mòn và bảo vệ kết cấu: Việc phân vùng chống ăn
mòn và bảo vệ kết cấu phải căn cứ vào tính chất và mức độ xâm thực của
từng vùng trong môi trường biển lên kết cấu BTCT. Mục tiêu bảo vệ và
phương án dùng bê tông chống thấm, chống ăn mòn được xác định phụ
thuộc vào vị trí làm việc của kết cấu như: Trong vùng ngập nước, trong vùng
nước lên xuống và trong vùng khí quyển.
- Nội dung chỉ dẫn kỹ thuật:
+ Thiết kế chống ăn mòn và bảo vệ kết cấu.
+ Lựa chọn vật liệu làm bê tông, bê tông cốt thép đạt tính năng chống
ăn mòn.
+ Thi công bê tông, bê tông cốt thép xây dựng trong môi trường biển.
+ Vận hành công trình.
- Các tiêu chuẩn và phương pháp thử cần áp dụng:
+ Tiêu chuẩn thiết kế.
+ Tiêu chuẩn yêu cầu kỹ thuật đối với vật liệu.
+ Tiêu chuẩn phương pháp thử.
+ Tiêu chuẩn thi công.
+ Quy phạm, chỉ dẫn kỹ thuật sửa chữa.
2. Công nghệ chống ăn mòn:
- Phương pháp sử dụng các phụ gia bê tông: Tùy theo kết cấu đối với
từng công trình mà người sử dụng các phụ gia khác nhau:
+ Kết cấu trong vùng ngập nước: Dùng xi măng pooclăng bền sunfat
kết hợp với phụ gia dẻo hóa, siêu dẻo hoặc dùng xi măng pooclăng thường,
xi măng hỗn hợp kết hợp với phụ gia khoáng hoạt tính: silicafume, cao lanh,
tro xỉ lò cao, puzơlan và phụ gia dẻo hóa, siêu dẻo.
+ Kết cấu trong vùng thay đổi (mức nước lên xuống và sóng đánh):
Dùng xi măng poolăng bền sunfat kết hợp với phụ gia dẻo hóa, siêu dẻo
hoặc dùng xi măng pooclăng thường, xi măng hỗn hợp kết hợp với phụ gia
khoáng hoạt tính: silicafume, cao lanh, tro xỉ lò cao, puzơlan và phụ gia dẻo
hóa, siêu dẻo, chất ức chế ăn mòn hệ Ca(NO3)2, nhũ tương polime,…
+ Kết cấu nằm trong vùng khí quyển: Dùng xi măng poolăng thường, xi
măng hỗn hợp kết hợp với phụ gia dẻo hóa, siêu dẻo, chất ức chế ăn mòn hệ
Ca(NO3)2, nhũ tương polime,…
Ngoài ra còn có các phương pháp chống ăn mòn khác như phủ kẽm,
polymer,…
- Các công nghệ chống ăn mòn bằng phương pháp điện hóa:
+ Phương pháp bảo vệ cathode bằng dòng cưỡng bức (ICCP).
+ Phương pháp bảo vệ cathode bằng anode hy sinh (sacrificial anode).
3. Cơ sở chọn lựa giải pháp công nghệ chống ăn mòn cho các công trình
xây dựng bằng BTCT vùng ven biển thành phố Đà Nẵng:
- Sự cần thiết lắp đặt thiết bị chống ăn mòn cho các công trình xây dựng
dân dụng bằng BTCT vùng ven biển Đà Nẵng: Để đảm bảo cho cầu cảng có
tuổi thọ lâu dài, ngoài việc tuân thủ theo những tiêu chuẩn về thiết kế, thi
công, bảo trì, công trình cần thiết phải áp dụng các phương pháp chống ăn
mòn. Đối với từng công trình cần phải có sự nghiên cứu cụ thể
- Cơ sở lựa chọn giải pháp công nghệ chống ăn mòn phù hợp cho các
công trình xây dựng bằng BTCT vùng ven biển Đà Nẵng:
+ Cơ sở lựa chọn phương pháp bảo vệ phù hợp.
+ Phương pháp bảo vệ cathode bằng anode hy sinh.
+ Lựa chọn phương pháp sử dụng anode hy sinh.
- Phương pháp tính toán thiết kế thiết bị:
Phương pháp tính toán trong quy trình thiết kế hệ thống bảo vệ.
+ Xác định cấu trúc của công trình và môi trường chung quanh công
trình.
+ Đo đạc cường độ dòng điện.
+ Chọn lựa anode.
+ Tính toán số lượng anode.
4. Thiết bị thử nghiệm chống ăn mòn:
- Thông số kỹ thuật của các thiết bị.
- Nghiên cứu chọn lựa vị trí lắp đặt thử nghiệm.
- Lựa chọn vị trí lắp đặt thiết bị thử nghiệm.
- Kết quả tính toán thiết bị thử nghiệm.
- Phương pháp lắp đặt.
- Phương pháp kiểm tra hoạt động của thiết bị thử nghiệm sau khi lắp
đặt.
- Kết quả đo đạc điện thế ăn mòn sau khi lắp đặt thiết bị thử nghiệm.
5. Kết luận:
Nhìn chung các công trình xây dựng DD&CN vùng ven biển Đà Nẵng
đang ở tình trạng ăn mòn xâm thực mạnh, nhiều công trình xuống cấp sau
10-15 năm sử dụng, việc ứng dụng các công nghệ chống ăn mòn nhằm nâng
cao tuổi thọ cho các công trình là một điều cần thiết.
Nghiên cứu lý thuyết ăn mòn, các công nghệ ứng dụng chống ăn mòn
cho các công trình cầu cảng ven biển, trên biển cho thấy phương pháp bảo
vệ bằng anode hy sinh là phương pháp hiệu quả nhất cho việc chống ăn mòn
cốt thép trong BTCT. Phương pháp này có nhiều ưu điểm, hiệu quả bảo vệ
cao, chi phí đầu tư và bảo trì thấp so với các phương pháp khác.
Sử dụng anode hy sinh chôn vùi trong BTCT là một trong những
phương pháp mới ít phổ biến. Đây là dạng anode mới được nghiên cứu sản
xuất rất phù hợp với việc bảo vệ chống ăn mòn cốt thép trong BTCT đối với
các công trình ven biển, đặc biệt đối với công trình cầu cảng, hạn chế được
sự mất mác cũng như sự va đập cơ học do sóng biển hoặc trong quá trình
hoạt động của cầu cảng. Phương pháp này rất dễ dàng thực hiện trong quá
trình thi công các công trình xây mới.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trên cơ sở nghiên cứu khảo sát đặc điểm, vị trí địa lý, khí hậu, thành
phần nước biển và môi trường không khí (tại các vị trí khảo sát) cho thấy
vùng ven biển Đà Nẵng là một vùng xâm thực gây ăn mòn phá hủy mạnh.
Kết quả khảo sát là cơ sở dữ liệu để minh chứng cho khả năng xâm thực
mạnh của môi trường ven biển Đà Nẵng, là cơ sở cho việc đánh giá, đề xuất
những biện pháp, công nghệ phù hợp, nhằm bảo vệ chống ăn mòn xâm thực,
nâng cao tuổi thọ cho các công trình vùng ven biển Đà Nẵng, góp phần vào
sự phát triển kinh tế của thành phố.
Với kết quả đánh giá khảo sát về môi trường, kết quả khảo sát tình
trạng của các công trình xây dựng vùng ven biển thành phố Đà Nẵng cho
thấy hầu hết các công trình xây dựng bằng thép, bằng bê tông cốt thép vùng
ven biển thành phố Đà Nẵng đều nằm trong tình trạng ăn mòn phá hủy từ
mức độ trung bình đến nặng, nhiều công trình xuống cấp sau 5-10 năm sử
dụng. Đặc biệt là cảng Tiên Sa đang ở tình trạng ăn mòn phá hủy ở mức báo
động. Tình trạng ăn mòn phá hủy các công trình phụ thuộc vào điều kiện
môi trường hoặc nằm chìm trong nước biển, mức lên xuống của nước biển,
sóng đánh hoặc trên môi trường không khí biển.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, khảo sát đo đạc, đánh giá mức độ ăn
mòn xâm thực của môi trường, dựa vào những kết quả nghiên cứu khác của
các đồng nghiệp và kết quả thử nghiệm của đề tài, ban chủ nhiệm đề tài đã
xây dựng nên quy trình từ việc thiết kế, thi công, vận hành công trình và cơ
sở lựa chọn công nghệ chống ăn mòn bằng phương pháp điện hóa. Quy trình
này sẽ giúp cho các nhà chuyên môn xây dựng có thêm phương pháp cơ sở
trong việc nghiên cứu ứng dụng các biện pháp chống ăn mòn nhằm nâng cao
tuổi thọ cho các công trình xây dựng vùng ven biển thành phố Đà Nẵng.
Góp phần vào sự phát triển kinh tế, sự ổn định cho thành phố thông qua các
hoạt động từ các công trình cầu cảng.
2. Kiến nghị:
Dựa trên những kết quả nghiên cứu của đề tài về vấn đề ăn mòn phá
hủy của các công trình xây dựng cầu cảng đang hoạt động ở vùng ven biển
thành phố Đà Nẵng, với mục tiêu nâng cao tuổi thọ đối với các công trình
góp phần vào sự phát triển ổn định cho thành phố, ban chủ nhiệm đề tài có
những kiến nghị sau:
- Cần nghiên cứu triển khai xây dựng quy phạm, tiêu chuẩn riêng cho
việc xây dựng các công trình cầu cảng vùng ven biển thành phố Đà Nẵng
trên cơ sở các tiêu chuẩn, quy phạm của Việt Nam.
- Đưa việc chống ăn mòn vào thành tiêu chuẩn hàng đầu trong việc thiết
kế, thi công… cho các công trình xây dựng vùng ven biển thành phố Đà
Nẵng.
- Thành phố cần áp dụng các biện pháp, quy định tích cực nhằm thúc
đẩy việc bảo quản, tu dưỡng các công trình cầu cảng đang hoạt động ở vùng
ven biển thành phố Đà Nẵng, nhằm khắc phục kịp thời sự xuống cấp của các
công trình, nâng cao tuổi thọ cho các công trình.
- Xem thêm -