MỞ ĐẦU
GIỚI THIỆU
Trong những năm gần đây, diện tích nuôi trồng thủy sản của vùng đồng bằng
sông Cửu Long nói chung và tỉnh Hậu Giang nói riêng tăng đáng kể. Năm
2010, diện tích nuôi trồng thủy sản của Hậu Giang là 6.500 ha với sản lượng
đạt 56.056 tấn (Tổng Cục Thống kê, 2012). Đến cuối năm 2011, diện tích
nuôi trồng thủy sản tỉnh Hậu Giang là 11.386 ha, sản lượng thu hoạch được
76.127 tấn với đối tượng nuôi chủ yếu là cá tra, cá rô đồng, cá thát lát, cá
bống tượng, cá trê lai… (UBND tỉnh Hậu Giang, 2011). Cá thát lát phân bố
tự nhiên nhiều ở các thủy vực nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Dương
Nhựt Long, 2003). Ở tỉnh Hậu Giang, cá thát lát được khai thác và nuôi nhiều
tại thị xã Vị Thanh, huyện Phụng Hiệp và huyện Long Mỹ. Cá thát lát còm
(Chitala chitala) được nuôi đơn hoặc nuôi ghép trong ao đất và nuôi đơn
trong vèo lưới. Sản phẩm cá thát lát là một trong các đặc sản của Hậu Giang.
Trong tự nhiên, thức ăn ưa thích của cá thát lát còm là cá (chiếm tỷ lệ 20,05 –
40,65% thức ăn trong dạ dày), giáp xác (3,5 – 38,39%) và tỷ lệ này phụ thuộc
vào vùng sinh sống của cá (Sarkar and Deepak, 2009). Vì thế, cá thát lát còm
được nuôi bằng thức ăn cá tạp biển hay cá tạp nước ngọt. Tuy nhiên, khi diện
tích nuôi cá thát lát còm tăng, nguồn cá tạp không thể đáp ứng nhu cầu nuôi
do nguồn cá ngoài tự nhiên ngày càng khan hiếm. Nhiều nghiên cứu sử dụng
thức ăn chế biến để ương nuôi cá lóc (Hashim et al., 2004; Nguyễn Hoàng
Huy, 2011), cá lóc bông (Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004; Trần Thị Thanh Hiền
và ctv., 2010) và cá thát lát còm (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương
Thùy, 2008; Phan Quốc Thứ, 2009) đã cung cấp nhiều dẫn liệu có giá trị làm
cơ sở giải quyết vấn đề thức ăn cho các loài cá có tính ăn động vật. Tuy nhiên,
khi phải sử dụng thức ăn bắt buộc thì tăng trưởng của các loài cá này giảm do
khả năng tiêu hóa thức ăn chứa nhiều thực vật có hàm lượng carbohydrate cao
kém (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Trên cơ sở đó, nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến có hàm lượng protein
khác nhau trong nuôi thương phẩm cá thát lát còm góp phần xây dựng qui
trình nuôi thương phẩm cá thát lát còm bằng thức ăn chế biến, làm cơ sở phát
1
triển mô hình nuôi cá thát lát còm ở tỉnh Hậu Giang nói riêng và vùng Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói chung là rất cần thiết.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Xác định hàm lượng protein thích hợp trong thức ăn công nghiệp phối hợp
với cá tạp thành thức ăn chế biến để nuôi cá thát lát còm thương phẩm.
- Xác định hiệu quả kỹ thuật và kinh tế từ mô hình nuôi thương phẩm cá thát
lát còm trong ao đất bằng thức ăn chế biến.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, 2 nội dung chính sẽ được tập trung
nghiên cứu gồm:
1. Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến từ thức ăn công nghiệp có hàm lượng
protein khác nhau và cá tạp để nuôi cá thát lát còm trong bể.
2. Nghiên cứu so sánh hiệu quả nuôi thương phẩm cá thát lát còm trong ao đất
bằng thức ăn chế biến và bằng cá tạp.
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm sinh học cá thát lát
1.1.1. Phân loại và đặc điểm hình thái cá thát lát còm
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), FishBase (2010) cá
thát lát còm có hệ thống phân loại như sau:
Ngành có dây sống: Chordata
Ngành phụ có xương sống: Vertebrata
Tổng lớp miệng có hàm: Gnathostomata
Bộ: Osteoglossiformes
Họ: Notopteridae
Giống: Chitala
Loài: Chitala chitala Hamilton,1882
Tên khoa học khác: Notopterus chitala, Notopterus maculatus; Chitala ornata
Tên tiếng Việt khác: cá còm, cá nàng hai, cá đao, cá cườm
Tên tiếng Anh: Clown knife fish hay Feather back fish
Cá có màu xám bạc, lưng sẫm hơn. Cá trưởng thành có 4 - 10 đốm đen, viền
trắng nằm dọc phía trên vây hậu môn. Lúc cá còn nhỏ thân có 10 - 15 sọc đen
ngang thân. Khoảng 2 tháng tuổi phần dưới của các sọc này xuất hiện các đốm
nâu tròn. Cá càng lớn, đốm càng rõ nét trong khi các sọc mờ dần rồi mất hẳn
(Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương,1993).
Thân cá dài, dẹp bên, lưng gù độ cong của lưng tăng dần theo kích thước của
cá. Lườn bụng bên có hai hàng gai chạy dọc theo lườn bụng. Vảy nhỏ phủ
khắp thân và đầu, vảy dính rất chắc, khó rụng, vảy ở đầu có cùng kích thước
với vảy ở thân. Đường bên bắt đầu từ mép trên của lỗ mang và chấm dứt ở
điểm giữa gốc vi đuôi (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
Vi lưng của cá thát lát còm nhỏ, nằm lệch về phía sau của thân, gần điểm giữa
gốc vi đuôi hơn gần chóp mõm. Gốc vi hậu môn rất dài, vi hậu môn nối liền
với vi đuôi. Vi bụng rất nhỏ. Vi đuôi tròn, không chẻ hai (Trương Thủ Khoa
và Trần Thị Thu Hương, 1993).
3
Hình 1.1 Hình thái bên ngoài cá thát lát còm
Cá có đầu nhỏ, nhọn, dẹp bên. Miệng trước, rạch miệng xiên kéo dài qua khỏi
mắt, xương hàm trên phát triển. Răng nhọn, bén mọc ở hàm dưới, phần gai
giữa xương hàm trước, xương khẩu cái, xương lá mía và lưỡi, ngoài ra còn có
đám răng nhỏ mịn trên xương bướm phụ. Có một đôi râu mũi ngắn nhỏ. Mắt
nằm lệch về phía lưng của đầu, gần chóp mõm hơn gần điểm cuối của xương
nắp mang. Phần trán gần hai mắt cong và lồi tương đương đường kính mắt.
Miệng rộng, màng da sau xương nắp mang rất phát triển (Trương Thủ Khoa
và Trần Thị Thu Hương, 1993).
1.1.2. Phân bố
Trong tự nhiên cá thát lát còm phân bố ở nhiều nước trên thế giới như
Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Indonesia, Malaysia. Ở Việt Nam, cá
phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng tây nguyên (Gia
Lai, Đắk Lắk, Kom Tum). Mùa nước lũ, cá đi vào các đồng ruộng ngập nước
sinh sống, mùa khô, cá ra sống ở các rạch lớn, sông chính, các vực nước sâu.
Cá thát còm sống được ở vực nước có lượng oxy thấp, nhờ cơ quan hô hấp
phụ. Trong điều kiện tự nhiên, cá sống ở tầng giữa và tầng đáy. Ban ngày cá
thường ẩn nấp trong đám thực vật thuỷ sinh. Ban đêm cá hoạt động nhiều hơn,
cá bơi lội chậm nhẹ nhàng, vây hậu môn hoạt động liên tục như làn sóng, cá
thích sống trong môi trường có nhiều thực vật thuỷ sinh lớn, pH nước 6,5 – 7,
nhiệt độ thích hợp cho cá từ 26 - 28ºC (Dương Nhựt Long, 2003).
4
Theo Lã Thị Ánh Nguyệt (2011) nhiệt độ không sinh học của cá thát lát còm
là 11,6◦C. Cá 1 – 50 ngày tuổi có ngưỡng nhiệt độ dưới dao động trong
khoảng 10,1 – 11◦C, ngưỡng nhiệt độ trên từ 41 – 41,7◦C; ngưỡng độ mặn của
là 11 - 12‰, ngưỡng pH thấp là 3,5 – 4,5 và ngưỡng oxy là 0,53 – 0,77 mg/L.
1.1.3. Đặc điểm dinh dưỡng
Hệ tiêu hoá của thát lát còm gồm miệng, thực quản, dạ dày và ruột. Cá có
miệng trước, rộng, rạch miệng xiên và kéo dài ra khỏi mắt, xương hàm trên
phát triển. Răng nhiều, nhọn mọc ở hàm dưới trên phần giữa xương trước
hàm, trên xương khẩu cái, xương lá mía và lưỡi. Ngoài ra còn có đám răng
nhỏ mịn trên xương bướm phụ, vì vậy chúng có thể bắt giữ, cắn xé con mồi.
Thực quản của cá ngắn, rộng và có vách hơi dày. Dạ dày hình chữ J có vách
hơi dày. Ranh giới giữa ruột non và ruột già không phân biệt rõ ràng. Tỉ lệ
Li/L0 = 0,3 cho nên đây là loài ăn động vật (Dương Nhựt Long, 2003).
Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2007) đã xác định tỉ lệ chiều dài ruột và chiều
dài thân (Li/Ls) của cá thát lát còm từ ngày tuổi thứ 5 đến 30 biến đổi ít, dao
động từ 0,31 - 0,5 và cá giai đoạn 30 ngày tuổi đã thể hiện tính ăn động vật.
Theo Mai Đình Yên (1983) cá thát lát (Noptopterus) thuộc nhóm ăn tạp, trong
ống tiêu hóa của chúng đã bắt gặp côn trùng, giáp xác, phiêu sinh thực vật, rễ
thực vật thủy sinh, cá con, nhuyễn thể và bùn đáy. Trong dạ dày cá thát lát
(Notopterus notopterus Pallat) cỡ cá 99 – 281 mm có 25,09% là giáp xác và
17,41% là cá, 14,95% côn trùng, 14,51 mùn bả hữu cơ, 20,18% mảnh thực
vật, 0,4% tảo, 0,11% nguyên sinh động vật và 0,47% động vật thân mềm
(Hossain et al., 1990). Trong khi đó, thức ăn ưa thích của thát lát còm
(Chitala chitala Hamilton) là giáp xác, côn trùng, nhuyễn thể và cá. Cá và tép
là loại thức ăn ưa thích nhất của chúng. Cá chiếm tỷ lệ từ 20,05 – 40,65%
trong dạ dày cá còm, còn giáp xác chiếm 3,5 – 38,39% và các tỷ lệ này phụ
thuộc vào các vùng sinh sống khác nhau của thát lát còm ở Ấn Độ (Sarkar and
Deepak, 2009). Thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa của thát lát còm gồm
có tảo lục (4%), tảo khuê (4%), tảo lam (3%), giáp xác (10%), nguyên sinh
động vật (5%), mùn bả hữu cơ (3%), nhuyễn thể (13%), luân trùng (4%), côn
trùng (15%), thực vật bậc cao thủy sinh (5%), cát và bùn (4%), cá (28%) và
một số thức ăn không xác định được (2%) (Sarkar and Deepak, 2009).
5
Cá thát lát còm rất dữ. Cá tấn công những con cá khác để làm mồi khi đói.
Khi bị sốc môi trường hoặc thay đổi mồi ăn đột ngột chúng có thể bỏ ăn cho
đến khi kiệt sức và nhiễm bệnh chết. Do đó trong điều kiện nuôi không nên
gây sốc môi trường hay thay đổi mồi đột ngột mà phải tập cho cá quen dần
với thức ăn mới và cho cá ăn đúng giờ (Nguyễn Chung, 2006).
Do cá thát lát còm có đặc tính ăn động vật nên khi sử dụng thức ăn hỗn hợp
các hàm lượng carbohydrate cao để nuôi cá thì chúng phải được tập cho ăn từ
nhỏ Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng
Từ cá bột mới nở đến cá con 3 - 4 cm mất khoảng 30 - 40 ngày. Cá chậm lớn
và phải mất thêm 30 - 40 ngày nữa cá mới đạt chiều dài 12 - 15 cm. Trong
nuôi thương phẩm, từ tháng thứ 3 cá tăng trọng nhanh, sau 6 tháng nuôi cá có
thể đạt khối lượng 400 - 500 g và sau 1 năm nuôi cá có thể đạt 1 kg. Mỗi năm
cá có thể tăng trọng thêm 1-1,2 kg (Nguyễn Chung, 2006).
So với cá cùng họ thì cá thát lát còm (Chitala chitala) có tốc độ sinh trưởng
nhanh hơn cá thát lát thường (Notopterus notopterus). Cá tăng trọng nhanh,
thông thường cá sau 1 năm tuổi có chiều dài trung bình khoảng 30 - 40 cm và
nặng từ 800 – 1.200 g/con. Trong ao nuôi, cá thát lát còm có thể đạt kích cỡ
500 – 600 g/con sau 6 tháng nuôi (Dương Nhựt Long, 2003).
Theo Sarkar et al. (2008) cá thát lát còm thu được từ lưu vực sông Bhagirati,
Koshi, Saryu và Ganga lớn nhất 6 năm tuổi tương ứng với chiều dài cá từ
103,3 – 107,4 cm. Cá thát lát còm bắt được ở lưu vực sông Banga, Ấn Độ có
chiều dài từ 31 – 120 cm và khối lượng từ 0,55 – 12,0 kg (Sarkar et al., 2009).
1.1.5. Đặc điểm sinh sản và tình hình sản xuất giống cá thát lát còm
Cá thát lát còm cái thành thục khoảng 3 năm tuổi, còn cá đực thành thục
sớm hơn, khoảng 2 năm tuổi (Sarkar et al., 2007). Cá bố mẹ thát lát còm
được nuôi vỗ bằng thức ăn tươi sống gồm cá nhỏ, cá rô phi và tép và hệ
số thành thục của cá thát lát còm cái đạt cao nhất vào tháng 6 với giá trị
là 4,63 ± 0,50% (Kohinoor et al., 2012). Theo Phạm Phú Hùng (2007),
cá thát lát còm được nuôi vỗ sau 4 tháng sẽ thành thục. Cá đẻ trứng vào
giá thể là vật liệu cứng. Ống nhựa có đường kính 25 cm được cá ưa thích
hơn tấm Fibrociment có kích thước 30 x 200 cm. Phạm Minh Thành và
6
ctv. (2008) khẳng định sinh sản cá thát lát còm nhân tạo hay bán nhân tạo đều
đạt hiệu quả cao. Cá được nuôi vỗ tham gia sinh sản 3 lần trong năm với thời
gian tái thành thục khoảng 37 ngày. Sức sinh sản tương đối của cá là 432 –
535 trứng/kg cá cái (720 – 783 trứng/con cá cái). Theo Kohinoor et al. (2012),
sức sinh sản của cá thát lát còm từ 5,65 – 14,33 trứng/g cá cái hay 8.238 –
18.569 trứng/con cá cái.
Thức ăn cần thiết cho cá bột trong quá trình ương ở tuần đầu là động vật
phiêu sinh. Từ tuần thứ hai thức ăn là trùn chỉ và Moina (Phạm Phú
Hùng, 2007). Sarkar et al. (2008) cho rằng ương cá thát lát còm trong giai
lưới sử dụng thức ăn là trứng cá trôi Ấn Độ đã đẻ ra (< 8 mm), trùn chỉ sống,
và trứng cá (thu trứng này bằng cách giải phẫu cá Puntius ticto). Sau 28 ngày,
tỷ lệ sống của cá dao động từ 65 – 85%. Cá thát lát còm được ương 30 ngày
trong bể với 4 loại thức ăn là trùn chỉ, ấu trùng muỗi đỏ, phiêu sinh động vật
và lăng quăng cho tỷ lệ sống của cá từ 80 – 100%; đối với thức ăn là phiêu
sinh động vật và lăng quăng cho tỷ lệ sống của cá thát lát còm là 100%.
Hiện nay, có nhiều cơ sở sản xuất giống và ương thát lát còm ở một số tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long đã cung cấp giống cá thát lát còm phục vụ cho nhu
cầu nuôi thương phẩm đối tượng có giá trị kinh tế cao này. Theo Chi cục
Thủy sản Hậu Giang, năm 2006 lượng giống cá thát lát còm trong tỉnh sản
xuất được là 3,5 triệu con.
1.2. Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến (TĂCB) để ương nuôi một số
loài cá có tính ăn động vật
Một số loài cá ưa thích thức ăn chế biến dạng ẩm, ướt hơn là thức ăn khô như
cá chình Châu Âu (Anguilla anguilla), cá hồi Đại Tây Dương. Thức ăn chế
biến ướt thường có ẩm độ từ 50 – 70%, còn thức ăn chế biến dạng ẩm khoảng
20 – 40%. Trong khi đó, thức ăn chế biến dạng khô có ẩm độ nhỏ hơn 10%
(Goddard, 1996). Cũng theo Goddard (1996), thức ăn chế biến dạng ẩm, ướt
có thể bảo quản lạnh từ 2 – 3 ngày nhưng tốt hơn là nên sử dụng chúng trong
24 giờ sau khi chế biến.
Một vài nghiên cứu cho thấy khi sử dụng TĂCB kết hợp thức ăn tự nhiên thì
hiệu quả sẽ tốt hơn là thay thế hoàn toàn bằng thức ăn chế biến. Sinh trưởng
và tỉ lệ sống của cá được cải thiện hơn khi kết hợp hai loại thức ăn này so với
chỉ sử dụng thức ăn chế biến. Theo Nguyễn Ngọc Lan (2004), khi nghiên cứu
7
hiệu quả sử dụng các loại thức ăn khác nhau để ương cá lóc bông giai đoạn
0,2 – 3 g cho kết quả ở các nghiệm thức cá đã được cho ăn hoàn toàn trùn chỉ,
hoàn toàn TĂCB và kết hợp TĂCB với trùn chỉ có tỉ lệ sống đạt 97 – 97,5%
và khác biệt có ý nghĩa (P < 0,05) so với nghiệm thức cho cá ăn hoàn toàn cá
xay và nghiệm thức kết hợp TĂCB với cá xay. Cá lóc bông sử dụng TĂCB
hiệu quả nhất ở ngày thứ 7 sau khi nở.
Lê Quốc Toán (2010) phối hợp thức ăn cá tạp 100%, 75%, 50%, 25%, 0% và
thức ăn chế biến 0%, 25%, 50%, 25% và 100% để nuôi cá lóc bông. Kết quả
có thể thay thế 50% cá tạp bằng thức ăn chế biến.
Nghiên cứu xác định thời điểm và phương thức thay thế hiệu quả thức ăn chế
biến của cá lóc đen (Channa striata) cho kết quả là thức ăn chế biến có thể sử
dụng ương cá lóc đen từ ngày tuổi thứ 17 và tỷ lệ thứ ăn chế biến tăng dần
10% /ngày cho hiệu quả cao hơn so với cho cá ăn ở ngày tuổi sớm hơn và tỷ
lệ tăng 20%/ngày (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2011).
Lam Mỹ Lan và Trần Bảo Trang (2011) nghiên cứu khả năng sử dụng thức ăn
chế biến của cá leo (Wallago attu) giai đoạn hương lên giống đã khẳng định
rằng sử dụng thức ăn chế biến có hàm lượng protein 50% cho cá leo từ 27
ngày tuổi thì tỷ lệ sống của cá không khác biệt so với nghiệm thức sử dụng cá
tạp. Tuy nhiên, khối lượng của cá leo ăn thức ăn chế biến (26 ± 2,8 g/con) nhỏ
hơn cá được cho ăn cá tạp (đạt khối lượng 64 ± 2,3 g/con). Đối với cá leo nuôi
bè bằng thức ăn chế biến, cá đạt khối lượng trung bình sau sáu tháng nuôi và
năng suất thấp hơn nghiệm thức đối chứng cho ăn cá tạp (Lam Mỹ Lan và
ctv., 2011).
Khi ương cá thát lát (Notopterus notopterus) với mật độ 100 con/m2 và sử
dụng thức ăn cá xay cho tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao lần lượt là 0,026
g/ngày và 93,32% (Lê Ngọc Diện và ctv., 2006).
Việc sử dụng thức ăn chế biến ở giai đoạn cá bột đã được nghiên cứu trên một
số loài cá và đem lại kết quả khả quan. Theo Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn
Hương Thùy (2008), nghiên cứu xác định thời điểm cá còm (Chitala chitala)
sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến cho cá 5, 10, 15, 20, 25 ngày tuổi (tính từ
lúc cá nở) cho kết quả tỉ lệ sống của cá còm ở các nghiện thức bắt đầu cho ăn
TĂCB từ ngày tuổi thứ 20 khá cao (78 – 88,4%) và cá còm sử dụng hoàn toàn
8
thức ăn chế biến (tính từ lúc nở) sẽ chết hoàn toàn sau 12 ngày ương. Kết quả
nghiên cứu của Phạm Hữu Bon (2011) đã xác định thời điểm thích hợp để cá
bột sử dụng hiệu quả TĂCB là 25 ngày tuổi với phương thức tập ăn thay thế
10% TĂCB/ngày, cá tăng trưởng và đạt tỷ lệ sống tương đương với sử dụng
thức ăn trùn chỉ. Nguyên liệu để chế biến thức ăn gồm: bột cá, bánh dầu đậu
nành, bột mì tinh, dầu cá, dầu đậu nành, vitamin, premix khoáng và gelatin, có
bổ sung dịch cá kích thích cá bắt mồi.
Theo Lã Ánh Nguyệt (2011), khi ương cá thát lát còm từ 21 ngày thì cá có
khả năng sử dụng được thức ăn công nghiệp nhưng cá tăng trưởng chậm và tỷ
lệ sống thấp hơn cho ăn thức ăn tươi sống.
Cá thát lát còm có khả năng sử dụng thức ăn công nghiệp trong nuôi thương
phẩm nhưng chưa thể thay thế hoàn toàn bằng thức ăn cá tạp do tập tính ăn
động vật của cá chưa được thuần hóa tốt. Một trong các nguyên nhân đó là cá
bố mẹ được nuôi vỗ bằng cá tạp (Kohinoor et al., 2012). Tốc độ tăng trưởng,
khối lượng trung bình của cá ở nghiệm thức thức ăn cá tạp và thức ăn 50% cá
tạp xay + 50% thức ăn công nghiệp cao hơn cá ăn 100% thức ăn công nghiệp
TĂCN và thức ăn kết hợp 25 % cá tạp xay + 75% thức ăn công nghiệp. Tuy
nhiên, tỷ lệ sống của hai nghiệm thức thức ăn này là tương đương nhau. Tỷ lệ
thay thế thức ăn cá biển xay bằng thức ăn công nghiệp càng tăng thì cá tăng
trưởng càng chậm (Phan Quốc Thứ, 2009). Vì vậy, mức độ và thời gian thay
thế cá biển xay bằng thức ăn công nghiệp cần được tiếp tục nghiên cứu để
đánh giá hiệu quả kỹ thuật và kinh tế khi nuôi thương phẩm cá thát lát còm
trong ao đất.
Theo Lê Ngọc Diện (2004) ương cá thát lát với mật độ 200 con/m2 sử dụng
thức ăn có hàm lượng đạm khác nhau cho thấy thức ăn cá tươi thì cho tốc độ
tăng trưởng cao nhất 0,03 g/ngày và 0,02 g/ngày khi sử dụng thức ăn có hàm
lượng đạm 25%. Nuôi thương phẩm cá thát lát với mật độ 10 con/m2 sử dụng
thức ăn cá tươi cho tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao nhất (0,33%/ngày và
90,03%) và khi sử dụng thức ăn kết hợp 50% thức ăn viên (20% protein) +
50% thức ăn cá tươi thì tỷ lệ sống đạt 67% và tăng trọng 0,23 g/ngày.
9
1.3. Nhu cầu dinh dưỡng của cá thát lát còm và một số loài cá có tính ăn
động vật
Nhu cầu protein là lượng đạm tối thiểu có trong thức ăn nhằm thỏa mãn yêu
cầu các acid amin để đạt tăng trưởng tối đa hoặc tối ưu. Tăng trưởng tối ưu
thường được áp dụng trong chế biến thức ăn thương mại để cho sinh vật nuôi
ăn nhằm đảm bảo tăng trưởng nhưng chi phí thức ăn đạt hiệu quả kinh tế cao
nhất (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Nhu cầu protein của
cá dao động trong khoảng từ 25% đến 55%, trung bình 30%. Nhu cầu protein
tối ưu của một loài nào đó phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu làm thức ăn, giai
đoạn phát triển của cơ thể và các yếu tố bên ngoài khác. Khi thức ăn thiếu
hoặc quá dư protein đều làm cho sinh trưởng của cơ thể giảm. Nếu thức ăn
không cung cấp đủ nhu cầu protein cho cá sẽ dẫn đến cá chậm lớn hoặc ngừng
tăng trưởng, thậm chí có thể giảm khối lượng, nhưng nếu lượng protein trong
thức ăn vượt quá nhu cầu thì chỉ một phần được sử dụng để tạo protein mới,
phần còn lại sẽ được chuyển sang dạng năng lượng, điều này sẽ làm tăng giá
thành thức ăn không cần thiết (Trần Thị Thanh Hiền, 2004).
Goddard (1996) đã khẳng định rằng loài cá ăn động vật có nhu cầu protein
cao, khoảng 40 – 50% khối lượng khô của thức ăn và nhu cầu protein thay đổi
theo giai đoạn phát triển của cá. Cá nhỏ có nhu cầu protein cho tăng trưởng
cao hơn cá lớn. Vì thế, hàm lượng protein trong thức ăn ở giai đoạn có bột, cá
giống thường cao hơn thức ăn cho cá giai đoạn nuôi thương phẩm từ 5 – 10%.
Cá ăn các loại thức ăn có cùng hàm lượng protein nhưng tăng trưởng của cá
không hoàn toàn giống nhau do hàm lượng acid amin trong các nguyên liệu
chế biến thức ăn khác nhau, đặc biệt là các acid amin thiết yếu. Theo Goddard
(1996) khi chế biến thức ăn cho các loài cá có tính ăn động vật, nguyên liệu là
bột cá có chất lượng cao thường được sử dụng mới cung cấp đủ các acid amin
thiết yếu. Thức ăn có hàm lượng protein cao được chế biến từ nguyên liệu có
nguồn gốc thực vật hay các động vật khác không phải là cá thì cần bổ sung
thêm acid amin thiết yếu, đặc biệt là Methionine và Lysine mới đáp ứng nhu
cầu acid amin của cá ăn động vật. Stickney (1979) đã chỉ rõ rằng bột cá là
nguồn cung cấp acid amin thiết yếu tốt nhất.
Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ
lệ sống của cá lóc (Channa striata) giống đã được nghiên cứu với 3 mức
10
protein 30, 40 và 50% (Trieu et al., 2001). Nghiên cứu gồm 2 thí nghiệm tiến
hành ở 2 thời điểm khác nhau. Thí nghiệm 1 cá có khối lượng ban đầu 1,14 g
đến 1,26 g, thí nghiệm 2 có khối lượng ban đầu của cá là 3,90 g đến 5,23 g.
Kết quả của cả hai thí nghiệm thì nghiệm thức chứa 50% protein thô cho kết
quả về tăng trưởng cũng như tỷ lệ sống cao nhất. Như vậy, giai đoạn giống cá
lóc tăng trưởng nhanh khi sử dụng thức ăn có hàm lượng proetin cao (50%).
Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2005) nghiên cứu nhu cầu protein của cá lóc
bông (Channa micropeltes) cỡ 3 g và 6 g cho kết quả hàm lượng protein tối
ưu cho cá ở giai đoạn này lần lượt là 50,8% và 46,5%.
Lipid có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của động vật thuỷ sản, đặc biệt là
ở giai đoạn ấu trùng và giống. Sự chia sẻ năng lượng từ protein của lipid được
chứng minh trên nhiều loài động vật thuỷ sản. Việc bổ sung lượng lipid thích
hợp sẽ giảm nhu cầu protein. Hàm lượng lipid thay đổi tuỳ loài cá. Đối với cá
nước ngọt, hàm lượng lipid thay đổi tùy theo loài, tuy nhiên mức đề nghị từ 6
– 10% (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
Phạm Hữu Bon (2012) nghiên cứu xác định nhu cầu protein tối ưu ở các mức
lipid khác nhau của cá thát lát còm (Chitala chitala) giai đoạn cá giống (2,42
g/con) được thực hiện trong 8 tuần với 12 nghiệm thức thức ăn gồm 4 mức
protein (35%, 40%, 45% và 50%) và 3 mức lipid (6%, 9% và 12%). Thức ăn
chế biến được ép viên (độ ẩm thấp hơn 11%). Mỗi nghiệm thức được lập lại
ba lần. Bể thí nghiệm có thể tích 100 L và thả 30 con cá/bể. Cá được cho 2
lần/ngày và cho ăn thỏa mãn nhu cầu. Thức ăn thừa được vớt ra. Kết quả thí
nghiệm cho thấy hàm lượng protein và lipid khác nhau trong thức ăn không
ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá. Tốc độ tăng trưởng của cá gia tăng theo hàm
lượng protein trong thức ăn, tuy nhiên khi hàm lượng thức ăn là 50% protein
thì sinh trưởng của cá giảm. Hàm lượng lipid không ảnh hưởng đến sự tăng
trưởng của cá. Tốc độ tăng trưởng đạt cao nhất ở nghiệm thức 45% protein và
6% lipid và hệ số thức ăn FCR thấp khác biệt không có ý nghĩa so với nghiệm
thức 40% protein và 9% lipid, nhưng khác biệt có ý nghĩa với các nghiệm
thức còn lại. Nhu cầu protein và lipid thích hợp cho các thát lát giai đoạn
giống là từ 40 - 45% tương ứng với hàm lượng lipid trong thức ăn 9 - 6 %.
Theo Huỳnh Tấn Đạt (2012) thì hàm lượng lipid trong thức ăn thích hợp cho
tăng trưởng của cá cỡ 50 – 100 g/con ở mức 9% và nhu cầu protein thích hợp
11
cho cá thát lát còm giai đoạn này là 35 - 40% và hàm lượng protein cho cá
tăng trưởng tối ưu là 38,6%. Nhu cầu protein thích hợp cho cá thát lát còm
giai đoạn 200 - 300 g/con là 30 - 35% và hàm lượng protein cho cá tăng
trưởng tối ưu là 33,6%.
Carbohydrate là nguồn nguyên liệu cung cấp năng lượng rẻ tiền nhất cho động
vật thủy sản. Nhóm cá ăn thực vật có enzyme tiêu hóa carbohydrate mạnh hơn
so với cá ăn động vật (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
Do động vật thủy sản có khả năng sử dụng năng lượng biến dưỡng từ nguồn
đạm trong thức ăn nên nhu cầu chất đạm của chúng có khả năng giảm khi mức
năng lượng trong thức ăn tăng lên. Nhưng nếu thức ăn quá giàu năng lượng
thì sẽ hạn chế sự tiêu thụ thức ăn của động vật thủy sản vì chúng sẽ ngưng bắt
mồi khi thỏa mãn nhu cầu năng lượng. Do đó hàm lượng đạm tối ưu cho động
vật thủy sản chịu ảnh hưởng bởi tỷ lệ tối ưu giữa đạm và năng lượng (Trần
Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
1.4. Nghiên cứu nuôi cá thát lát còm
Theo Nguyễn Chung (2006), từ năm 2003 cá còm đã được nuôi thương phẩm
ở Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Hiện nay, thực tế các mô hình
nuôi thương phẩm cá thát lát còm được người dân thả nuôi với nhiều mật độ
khác nhau. Mặc dù cá thát lát còm có khả năng chịu đựng trong điều kiện môi
trường oxy thấp, giàu hữu cơ. Tuy nhiên không nên nuôi ở mật độ quá cao do
những sản phẩm trao đổi chất của cá hòa tan trong nước sẽ ức chế sự sinh
trưởng của cá (Nguyễn Tường Anh, 2005).
Theo Nguyễn Chung (2006) cá thát lát còm là loài ăn động vật sống và bắt
mồi ở tầng giữa và tầng đáy nên các đối tượng được chọn nuôi ghép thường là
cá rô phi, cá chép, cá mè vinh, cá trắm cỏ, cá sặc rằn, cá rô đồng… và mật độ
thả nuôi ghép như sau: cá thát lát còm 10 - 15 con/m2 + cá mè trắng hoặc cá
sặc rằn 3-5 con/m2 + cá rô phi 2-3 con/m2. Thức ăn sử dụng trong nuôi cá thát
lát còm chủ yếu là tôm, tép, cá tạp cắt nhỏ hoặc xay nhuyễn hoặc có thể cho
ăn tấm, cám và bột cá nhạt. Việc tập cho cá ăn thức ăn chế biến là việc làm
quan trọng để nâng cao hiệu quả nuôi. Cá giống khoảng 10 cm thả nuôi được
cho ăn giảm dần lượng cá xay và thêm vào đó thức ăn chế biến hoặc thức ăn
viên công nghiệp chìm độ đạm 20-25% và cũng tập cho cá ăn vào buổi chiều.
12
Thí nghiệm nuôi cá thát lát còm trong lồng nhỏ (1 m3) bằng thức ăn cá tạp
trộn với cám (62% protein), xương gà trộn với cám (39% protein) và thức ăn
chế biến (32% protein) được nghiên cứu bởi Rodrarang and Plungdi (2000).
Sau 90 ngày, cá có khối lượng ban đầu là 30 g/con đạt khối lượng lần lượt
theo thứ tự ba loại thức ăn là 178 ± 3,0 g, 130 ± 6,6 g và 98,5 ± 2,3 g. Hệ số
chuyển hóa thức ăn thấp nhất ở nghiệm thức cho cá ăn cá tạp trộn cám (3,09 ±
0,08), kế tiếp là ở nghiệm thức xương gà trộn cám (3,86 ± 0,24). Ở thức ăn
chế biến, hệ số chuyển hóa thức ăn cao nhất (4,12 ± 0,34) (p<0,05). Tỷ lệ
sống của cá khác bị không có ý nghĩa thống kê giữa ba nghiệm thức thức ăn
trên. Chi phí thức ăn cho 1 kg cá tăng trọng khi cá thát lát còm cho ăn bằng
thức ăn chế biến (122,47 Baht) cao hơn thức ăn là cá tạp (26,98 Baht) và
xương gà trộn cám (42,45 Baht).
Tại Hậu Giang và một số tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long như Cần Thơ,
An Giang, Đồng tháp, Vĩnh Long, Bạc Liêu, cá thát lát còm được nuôi đơn
hoặc nuôi ghép trong ao đất, nuôi đơn trong vèo lưới. Diện tích nuôi cá thát
lát còm ở Hậu Giang (Hình 1.2) lớn nhất vào năm 2007 là 85 ha. Diện tích
nuôi năm 2008 – 2011 không biến động nhiều. Trong năm 2012, diện tích
nuôi thát lát ở Hậu Giang là 18,6 ha. Theo Chi Cục Thủy sản Hậu Giang, diện
tích nuôi giảm so với những năm trước một phần do các hộ nuôi bằng thức ăn
công nghiệp, thức ăn chế biến chưa đạt hiệu quả và giá cá tạp thì tăng cao
trong khi giá cá thương phẩm biến động.
Hình 1.2. Diện tích nuôi cá thát lát ở tỉnh Hậu Giang qua các năm
(Nguồn: Số liệu từ Chi cục Thủy sản Hậu Giang, 2013)
13
Hiệu quả nuôi cá thát lát còm phụ thuộc nhiều vào giá thức ăn và con giống
cũng như giá cá thương phẩm. Theo báo Sài gòn tiếp thị (ngày 11/06/2012),
vào thời điểm tháng 6 năm 2012, cá thát lát cườm được các đại lý tại đồng
bằng sông Cửu Long mua với giá khoảng 40.000 đồng/kg, chỉ bằng phân nửa
so cùng kỳ năm trước, nhưng tiêu thụ vẫn khá chậm.
14
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Phương tiện nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm nghiên cứu khả năng sử dụng thức ăn chế biến (TĂCB) của cá
thát lát còm và so sánh hiệu quả sử dụng thức ăn chế biến với thức ăn công
nghiệp được bố trí tại Bộ Môn Kỹ Thuật Nuôi Thủy sản nước ngọt – Khoa
Thủy Sản, Đại Học Cần Thơ.
Thí nghiệm nuôi thương phẩm cá thát lát còm bằng thức ăn chế biến trong ao
đất 2.000 m2 được ngăn làm 4, gọi là ao 1, 2, 3 và 4 tại Trung Tâm Giống
Nông Nghiệp Hậu Giang, một ao thuộc nông hộ tại xã Vị Thanh, huyện Vị
Thủy (ao 5) và một ao thuộc nông hộ tại xã Đại Thành, thị xã Ngã Bảy (ao 6).
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu
Cá thát lát còm 14 ngày tuổi được mua từ trại giống ở Hậu Giang được ương
và tập cho cá ăn thức ăn chế biến trong 2 tháng. Khi cá quen với thức ăn chế
biến (chiều dài từ 11 - 12 cm/con và khối lượng 8 - 10 g/con) được bố trí thí
nghiệm nuôi trong bể chứa lượng nước là 300 L.
Cá thí nghiệm nuôi trong ao đất có khối lượng 5,11 ± 0,32 g/con (4,7 – 5,9
g/con)
2.1.3. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
Cá biển (cá bạc má và cá nục), thức ăn công nghiệp (TĂCN) dạng viên có
hàm lượng protein 25%, 30%; 35% và 40%.
Dụng cụ:
+ Bể composite thể tích thiết kế là 500 L
+ Hệ thống xử lí bằng cực tím và tách ammonia
+ Máy đo nhiệt độ, oxy, pH
+ Cân điện tử, cân đồng hồ.
+ Hộp chứa thức ăn và một số dụng cụ khác.
15
Hình 2.1 Cá thát lát còm nuôi trong bể composite
Hình 2.3 TĂCN đã được làm ẩm
Hình 2.2 Cá tạp xay nhuyễn
Ao 4
Ao 3
Ao 2
Hình 2.4 Ao 2.000 m2 được ngăn lưới thành 4 ô 500 m2
16
Ao 1
Ao 5
Ao 6
Hình 2.5 Ao nuôi ở xã Vị Thanh, huyện
Vị Thủy
Hình 2.6 Ao nuôi ở xã Đại Thành, Thị
xã Ngã Bảy
2.2 Bố trí thí nghiệm
2.2.1. Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến từ cá tạp và thức ăn công
nghiệp có hàm lượng protein khác nhau nuôi thương phẩm cá thát lát
còm trong bể
Thí nghiệm được bố trí trong hệ thống bể composite. Nước duy trì trong bể
khoảng 300L và được cấp liên tục với tỉ lệ thay nước khoảng 500%/ngày (1
L/phút). Nước được sục khí. Nước cấp được xử lí qua hệ thống xử lí bằng tia
cực tím và tách Ammonia.
Cá biển được rửa sạch, xay nhuyễn và trộn với chất kết dính đem cho cá ăn ở
nghiệm thức đối chứng. Ở nghiệm thức II, III và IV, thức ăn công nghiệp
dạng viên (kích cỡ 1 – 2 mm) được làm ẩm bằng cách thêm 15% nước vào
cho ướt và sau đó trộn đều với cá biển xay. Tỉ lệ cá biển là 50% và thức ăn
công nghiệp trước khi làm ẩm là 50%. Thức ăn sau khi chế biến sẽ được bảo
quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ khoảng 4◦C để cho cá ăn trong 3 – 5 ngày.
Cá thát lát còm bột trong 2 tuần đầu cho ăn trùn chỉ. Giảm lượng trùn chỉ và
tăng dần lượng cá tạp lên từ tuần 3 và 4). Khi cá đã ăn được thức ăn là cá tạp,
tập cho cá ăn thức ăn chế biến (từ tuần thứ tư trở đi), trong khẩu phần ăn của
cá sẽ giảm lượng cá tạp và thay thế dần thức ăn chế biến, lượng thức ăn chế
biến ngày càng tăng cho đến khi cá hoàn toàn ăn được thức ăn chế biến. Thời
gian ương và tập ăn cho cá được thức ăn chế biến là 2 tháng.
17
Tiến hành thí nghiệm khi cá đã sử dụng tốt thức ăn chế biến. Số lượng cá thả
là 20 cá giống/bể. Thời gian thí nghiệm sử dụng thức ăn chế biến nuôi thương
phẩm cá thát lát còm trong bể là 16 tuần.
Bảng 2.1: Tỷ lệ phối chế thức ăn, hàm lượng protein trong TĂCN để phối chế thức
ăn chế biến ở các nghiệm thức
Nghiệm thức
Cá biển
(%)
TĂCN (%)
I
II
III
IV
V
100
50
50
50
0
0
50
50
50
100
Hàm lượng protein trong
TĂCN (%)
8 tuần đầu
8 tuần sau
30
35
40
40
25
30
35
35
Thức ăn chế biến có bổ sung thêm chất kết dính là bột gòn (1%) giúp thức ăn
lâu tan trong nước. Cá được cho ăn 2 lần/ngày (vào 8 giờ và 16 giờ) và cho ăn
thỏa mãn nhu cầu. Lượng thức ăn cho cá ăn được ghi nhận hằng ngày để tính
hệ số chuyển hóa thức ăn. Hằng ngày siphone phân và thức ăn thừa trong bể
để giữ môi trường nước được sạch. Khi cho cá ăn quan sát khả năng bắt mồi
của cá để tăng giảm lượng thức ăn cũng như tình trạng sức khỏe của cá. Theo
dõi hoạt động của cá mỗi ngày. Khi có cá nuôi trong bể chết, khối lượng của
cá chết được ghi nhận lại.
Hình 2.7 Thức ăn chế biến dạng ẩm
18
2.2.2 Nuôi thương phẩm cá thát lát còm bằng thức ăn chế biến trong ao
đất
Thí nghiệm được bố trí với 2 nghiệm thức thức ăn là cá tạp và nghiệm thức
thức ăn chế biến (50% cá tạp + 50% TĂCN 35 - 30% protein) – nghiệm thức
đạt hiệu quả cao về tăng trưởng (khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) so với hai
nghiệm thức sử dụng thức ăn chế biến và tỷ lệ sống ở thí nghiệm này khác
biệt không có ý nghĩa (p > 0,05) so với nghiệm thức đối chứng và hai nghiệm
thức sử dụng thức ăn chế biến). Mỗi nghiệm thức được lập lại 3 lần trong 6 ao
đất 500 m2/ao.
Chuẩn bị ao
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10/2011 đến tháng 8/2012. Ao thí nghiệm
tại Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh Hậu Giang: sử dụng ao có diện tích
2.000 m2 được ngăn bằng lưới làm 4 ngăn nhỏ mỗi ngăn 500 m2 chân lưới
được âm sâu dưới đất 40 cm, độ cao của lưới cao hơn mặt nước là 1 m. Hai ao
ở thị xã Ngã Bảy và huyện Vị Thủy có diện tích khoảng 500 m2/ao. Ao nuôi
đã được cải tạo (tát cạn ao, sên vét bùn đáy ao, bón vôi). Khi cho nước vào ao
nước được lọc qua lưới, mực nước trong ao duy trì ở mức từ 1,2 – 1,5 m.
Mật độ
Cá thát lát giống có chiều dài 8,8 ± 0,6 cm/con và khối lượng 5,11 ± 0,32
g/con được thả với mật độ là 8 con/m2. Thả nuôi ghép cá sặc rằn với mật độ là
3 con/m2. Cá thát lát còm giống khi vận chuyển về ao được ương dưỡng trong
giai có diện tích 20 m2. Trong thời gian dưỡng trong giai, cá được tập cho ăn
thức ăn chế biến. Sau 6 tuần, cá được thả ra ao và cho ăn theo thức ăn của hai
nghiệm thức.
Chuẩn bị thức ăn
Cá tạp mua về và bảo quản bằng nước đá trong thùng giữ lạnh. Cá tạp được
xay ra cho cá thát lát còm ăn mỗi ngày ở nghiệm thức thức ăn cá tạp (nghiệm
thức I). Ở nghiệm thức thức ăn chế biến (nghiệm thức II) thức ăn công nghiệp
và cá tạp được phối trộn với tỷ lệ 1:1. Thức ăn công nghiệp có hàm lượng
protein là 35% được sử dụng cho cá ăn trong 4 tháng đầu, từ tháng thứ 5 đến
tháng thứ 9, thức ăn công nghiệp sử dụng có hàm lượng protein là 30%. Thức
ăn công nghiệp được làm ẩm với lượng nước là 15% (1,5 L nước/10 kg thức
19
ăn). Sau đó xay cá tạp rồi trộn đều cá tạp và thức ăn công nghiệp có bổ sung
1% dầu đậu nành và 1% bột gòn làm chất kết dính.
Khẩu phần ăn
Cho cá thát lát còm ăn ngày cho ăn 2 lần: sáng từ 8 – 9 giờ và chiều cho ăn từ
16 – 17 giờ. Khối lượng thức ăn được điều chỉnh theo sự gia tăng về khối
lượng cá nuôi và chất lượng nước trong ao nuôi. Trong 3 tháng đầu thì cho ăn
khoảng 7 - 12% khối lượng thân, những tháng còn lại cho ăn 4 - 6% khối
lượng thân.
Cá sặc rằn ăn thức ăn dư thừa của cá thát lát còm và chất hữu cơ có trong ao
nuôi.
Phương pháp cho ăn
Cho cá ăn ở chỗ cố định. Theo dõi mỗi ngày để tăng giảm lượng thức ăn cho
phù hợp theo sức bắt mồi của cá.
Quản lý chất lượng nước
Trong quá trình nuôi, 3 tháng đầu thay nước mỗi tháng 1 lần, mỗi lần thay
khoảng 20 - 30% lượng nước trong ao. Từ tháng thứ 4 trở đi, nước được thay
thường xuyên hơn (7 – 15 ngày/lần) với tỷ lệ thay nước từ 25 – 35% lượng
nước trong ao.
Bảng 2.2: Khẩu phần cho cá thát lát ăn khi nuôi thương phẩm trong ao đất
Tháng nuôi
Khẩu phần (% khối lượng cá)
1
10 - 12
2
8 – 10
3
7–8
4
6–7
5-6
5-6
7-9
3-5
Thu hoạch
Cá được thu hoạch sau 9 tháng nuôi.
20
- Xem thêm -