Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kiến trúc xây dựng Nghiên cứu so sánh thành phần loài cá một số vùng cửa sông ven biển tây nam bộ, ...

Tài liệu Nghiên cứu so sánh thành phần loài cá một số vùng cửa sông ven biển tây nam bộ, việt nam

.PDF
85
68
98

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN --------------------- Trần Thị Ngọc Ánh NGHIÊN CỨU SO SÁNH THÀNH PHẦN LOÀI CÁ MỘT SỐ VÙNG CỬA SÔNG VEN BIỂN TÂY NAM BỘ, VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Hà Nội - 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN --------------------- Trần Thị Ngọc Ánh NGHIÊN CỨU SO SÁNH THÀNH PHẦN LOÀI CÁ MỘT SỐ VÙNG CỬA SÔNG VEN BIỂN TÂY NAM BỘ, VIỆT NAM Chuyên ngành: Động vật học Mã số: 8420101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THÀNH NAM Hà Nội - 2019 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thành Nam, người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời cám ơn tới PGS. TS. Nguyễn Xuân Huấn đã giúp đỡ và truyền cho tôi thêm những kinh nghiệm quý báu về nghiên cứu cá. Đồng thời tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong Bộ môn Động vật học và Bảo tồn, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Sự sống, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự Nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội; lãnh đạo và các cán bộ phòng Nghiên cứu Nguồn lợi Hải sản, Viện Nghiên cứu Hải sản đã tạo điều kiện thuận lợi và đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thiện luận văn này. Qua đây tôi cũng xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Nghiên cứu này được sự hỗ trợ từ nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ độc lập cấp Nhà nước: “Nghiên cứu xây dựng mô hình sinh thái bền vững trên vùng triều ven biển đồng bằng sông Cửu Long”, mã số 10/2017/HĐ.ĐTĐL.CN.CNN. Hải Phòng, ngày 28 tháng 11 năm 2019 Học viên Trần Thị Ngọc Ánh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1 Chương 1 - TỔNG QUAN .......................................................................................... 2 1. Khái quát về vùng cửa sông - ven biển ...............................................................2 1.1. Các khái niệm ...............................................................................................2 1.2. Hệ thống cửa sông - ven biển Việt Nam ......................................................3 1.3. Khái quát đa dạng sinh học và thành phần loài cá vùng cửa sông - ven biển Việt Nam .............................................................................................................5 1.4. Lịch sử nghiên cứu hệ sinh thái cửa sông - ven biển Việt Nam ..................6 2. Lịch sử nghiên cứu cá khu vực nghiên cứu ......................................................10 3. Điều kiện tự nhiên và nghề cá khu vực nghiên cứu ..........................................14 3.1. Điều kiện tự nhiên ......................................................................................14 3.2. Đặc điểm nghề cá .......................................................................................19 Chương 2 - ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, ĐỐI TƯỢNG, TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................................................... 22 1. Địa điểm, thời gian, đối tượng nghiên cứu .......................................................22 2. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................22 2.1. Phương pháp kế thừa, tổng hợp .................................................................22 2.2. Phương pháp thu mẫu ................................................................................23 2.3. Phương pháp định loại ...............................................................................24 2.4. Phân tích số liệu .........................................................................................32 Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................... 33 1. Đa dạng sinh học khu hệ cá khu vực cửa sông ven biển TNB ....................33 2. So sánh thành phần loài cá ở các khu vực cửa sông ven biển TNB .................52 2.1. Số lượng các bậc phân loại. .......................................................................52 2.2. Sự phong phú trong các bậc phân loại .......................................................53 2.3. Sự khác nhau về cấu trúc theo nhóm sinh thái ...........................................56 2.4. Độ tương đồng về thành phần loài giữa các khu vực nghiên cứu..............59 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................................... 61 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 63 PHỤ LỤC ...................................................................................................................... DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1. Số lượng và khoảng cách phân bố của hệ thống cửa sông ............................3 Bảng 2. Cơ cấu nghề khai thác theo nhóm công suất ở vùng biển Tây Nam Bộ......21 Bảng 3. Số lượng và tỷ lệ % các họ, giống, loài có trong các bộ .............................34 Bảng 4. Thành phần loài cá một số khu vực cửa sông ven biển Tây Nam Bộ .........36 Bảng 5. Chỉ số tương đồng Sorensen giữa các khu vực ...........................................59 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1. Sản lượng khai thác cá biển của Cà Mau và Kiên Giang giai đoạn 2000-2018 (đơn vị: nghìn tấn) .....................................................................................................19 Hình 2. Tổng công suất tàu khai thác thuỷ sản biển của Cà Mau và Kiên Giang giai đoạn 2010-2018 (đơn vị: nghìn CV) .........................................................................20 Hình 3. Vị trí các khu vực nghiên cứu ......................................................................22 Hình 4. Các thuật ngữ chuyên môn và chỉ tiêu hình thái chính dùng trong định loại cá Mang tấm (cá Sụn) dạng cá Đuối .........................................................................28 Hình 5. Các thuật ngữ chuyên môn và chỉ tiêu hình thái chính dùng trong định loại cá Vây tia (cá Xương) ...............................................................................................29 Hình 6. Các loại vẩy và cách tính vẩy, các kiểu miệng, vị trí các xương hàm và các kiểu răng dùng trong định loại cá Vây tia (cá Xương) .............................................30 Hình 7. Các đặc điểm cấu tạo, hình dạng của mang, bóng bơi, tia vây, đuôi và vây đuôi dùng trong định loại cá Vây tia (cá Xương) .....................................................31 Hình 8. Số lượng các bậc phân loại ở các khu vực nghiên cứu ................................52 Hình 9. Số lượng loài trong các bộ cá ở các khu vực nghiên cứu ............................54 Hình 10. Các họ có số loài nhiều nhất ở các khu vực nghiên cứu ............................55 Hình 11. Phân bố loài theo môi trường nước ở các khu vực nghiên cứu .................57 Hình 12. Số lượng loài cá phân theo tầng nước ở các khu vực nghiên cứu..............59 Hình 13. Mối quan hệ về thành phần loài giữa các khu vực nghiên cứu ..................60 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Ký hiệu Ý nghĩa viết tắt 1 CV 2 FAO Mã lực Food and Agriculture Organization of the United Nations (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc) International Union for Conservation of Nature and Natural 3 IUCN Resources (Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên) 4 SĐVN Sách Đỏ Việt Nam MỞ ĐẦU Vùng biển Tây Nam Bộ là một phần của Vịnh Thái Lan, có đới bờ rộng kéo dài từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên - Kiên Giang với sáu con sông đổ ra vịnh, tạo ra bốn khu vực cửa sông chính bao gồm khu vực cửa sông Giang Thành, khu vực cửa sông Cái Lớn - Cái Bé, khu vực cửa sông Ông Đốc và khu vực cửa sông Cửa Lớn - Bảy Háp. Vùng cửa sông ven biển Tây Nam Bộ có tính đa dạng sinh học cao, giàu tiềm năng về kinh tế biển và có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển nghề khai thác và nuôi trồng thủy sản ven bờ. Tuy nhiên trong nhiều năm gần đây nguồn lợi hải sản ven bờ nói chung và nguồn lợi cá nói riêng đang bị suy giảm đáng kể bởi áp lực khai thác, đặc biệt là các hình thức khai thác tận diệt. Bên cạnh đó, tác động của ô nhiễm môi trường nước từ các hoạt động công nghiệp, sinh hoạt cũng là nguy cơ đe dọa đến các loài thủy sinh vật. Vấn đề này đặt ra nhiều thách thức cho ngành thủy sản 2 tỉnh Kiên Giang và Cà Mau để có thể vừa khai thác hợp lý, đồng thời phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản. Trước đây đã có một số nghiên cứu về cá được thực hiện ở khu vực Tây Nam Bộ, tuy nhiên những nghiên cứu này tập trung ở vùng biển và có rất ít nghiên cứu tại các khu vực cửa sông. Vì vậy để bổ sung dẫn liệu khoa học cho các nhà quản lý, nghiên cứu “So sánh thành phần loài cá một số vùng cửa sông ven biển Tây Nam Bộ, Việt Nam” được thực hiện với nội dung: - Xác định thành phần loài cá khu vực cửa sông ven biển Tây Nam Bộ. - Đánh giá mức độ đa dạng sinh học ở các khu vực nghiên cứu - So sánh mức độ gần gũi của các vùng cửa sông ven biển trong khu vực. 1 Chương 1 - TỔNG QUAN 1. Khái quát về vùng cửa sông - ven biển 1.1. Các khái niệm Cửa sông (estuary) theo nghĩa La tinh, bao hàm “aestus” là thủy triều, còn “estuary” là từ chỉ một dạng của lục địa, trong đó thủy triều đóng vai trò quan trọng trong đời sống và sự phát triển tiến hóa của vùng. Bởi vậy, trong các từ điển người ta giải thích “cửa sông là cửa các con sông lớn có thủy triều” (từ điển Oxford) hoặc “một vùng gần bờ được khống chế bởi nước biển khi triều cao, một vùng biển được tạo thành bởi cửa một con sông” (Larouse) [26]. Theo quan điểm của các nhà địa mạo thì cửa sông là cửa của con sông mà ở đó đang có quá trình sụt lún kiến tạo không được đền bù hoặc là một thung lũng sông bị chìm ngập do mực nước biển dâng lên, thường có dạng hình phễu. Những định nghĩa dựa trên các quan điểm riêng về địa mạo, địa chất, khí hậu… thường loại bỏ nhiều nguyên tắc và các khuynh hướng thực dụng trong nghiên cứu khoa học ở các nước và các khu vực khác nhau trên thế giới [26]. Theo quan điểm động lực, D.W. Pritchard (1967) cho rằng “Cửa sông là một thủy vực ven bờ nửa khép kín, liên hệ trực tiếp với biển và ở trong đó, nước biển hòa trộn có mức độ với nước ngọt đổ ra từ các dòng lục địa”. Tuy nhiên, theo định nghĩa này, các hệ cửa sông mù (blind estuary) và các cửa sông quá mặn (hyperhaline) bị loại trừ. Do đó, J.H. Day (1981) đã bổ sung và đề xuất một định nghĩa có nội dung rộng hơn: “Cửa sông là thủy vực ven bờ nửa khép kín về mặt không gian, liên hệ trực tiếp với biển một cách thường xuyên hay theo chu kỳ, trong đó độ muối biển đổi do sự hòa trộn có mức độ của nước biển với nước ngọt đổ ra từ các dòng lục địa” . Như vậy, vùng cửa sông là nơi tranh chấp mãnh liệt giữa đất liền và biển, ở đó luôn xảy ra hai quá trình trái ngược nhau là bồi tụ và bào mòn. Hai quá trình này xảy ra phụ thuộc vào các yếu tố động lực của dòng sông và dòng biển (sóng, thủy triều, hải lưu) 2 và các quá trình địa chất. Vùng cửa sông không chỉ là nơi nước ngọt và nước mặn pha trộn với nhau đơn thuần mà tại đây có sự chuyển đổi tính chất của nước, từ ngọt sang mặn. Chính vì vậy vùng cửa sông là vùng chuyển tiếp từ chế độ thủy văn sông sang chế độ thủy văn biển [26]. Hệ sinh thái điển hình của vùng cửa sông ven biển bao gồm các thành phần như vùng châu thổ (delta), vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất ngập nước, các bãi biển và cồn cát, các rạn san hô, các vùng rừng ngập mặn (rừng sác), đầm phá (lagoon), và các đặc trưng ven bờ khác. Chính những khu hệ khác nhau này cùng sự pha trộn giữa môi trường nước biển và nước ngọt đã tạo ra nguồn lợi thủy sản vô cùng đa dạng và phong phú. 1.2. Hệ thống cửa sông - ven biển Việt Nam Việt Nam với 3.260 km đường bờ biển trải dài trên 13 vĩ độ, qua 28 tỉnh và thành phố dọc bờ biển có 114 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển, theo tỷ lệ như sau: Bắc Bộ 28,1%, Bắc Trung Bộ 21,1%, Nam Trung Bộ 27,2% và Nam Bộ 28,6% (Bảng 1). Tính trung bình cho toàn dải ven biển thì cứ 28,6 km đường bờ biển lại có một cửa sông đổ ra biển. Bảng 1. Số lượng và khoảng cách phân bố của hệ thống cửa sông [10] STT 1 2 3 4 Tên vùng Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Nam Trung Bộ Nam Bộ Tổng Số lượng cửa sông đổ ra biển Tỷ lệ (%) số lượng cửa sông của các vùng so với toàn đới bờ Chiều dài đường bờ của các vùng (km) Khoảng cách trung bình của các cửa sông trên đường bờ (km) 32 28,1 515 16,1 24 21,1 642 26,7 31 27,2 1290 41,6 27 23,6 828 30,6 114 100 3260 28,8 (trung bình) 3 Theo độ lớn của các lưu vực sông có thể phân các cửa sông ra làm các loại sau: cửa sông có lưu vực rất lớn (>50.000km2) thuộc hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Cửu Long; cửa sông có lưu vực lớn (từ 10.000 đến 50.000km2) thuộc các hệ thống sông: Thái Bình, Đồng Nai, sông Mã, Thu Bồn, Đà Rằng; cửa sông có lưu vực trung bình (1.000 đến 10.000km2) gồm cửa các sông: Lạch Ghép, Gianh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Thuận An, Cổ Luỹ, Cửa Lở, sông Kôn, Cái (Nha Trang), Cái (Phan Rang), Lũy, Cái (Phan Thiết),…; cửa sông có lưu vực nhỏ (<1000km2) có số lượng lớn. Theo lịch sử hình thành, hình thái cấu tạo và lực tương tác sông biển thì các hệ cửa sông nước ta được chia thành các kiểu hệ: các cửa sông châu thổ như hệ cửa sông Hồng và sông Cửu Long; các cửa sông hình phễu như các cửa sông vùng Hải Phòng - Quảng Yên, Đồng Nai; các đầm phá ven biển và các vùng vịnh nông ven bờ nhận một lượng nước ngọt do các sông đổ ra [20]. Sóng ở vùng cửa sông phụ thuộc chủ yếu vào chế độ gió của hai mùa chính (mùa Đông và mùa Hè) và kết hợp với địa hình tạo ra hướng và độ cao sóng khác nhau: về mùa Đông, hướng thay đổi Đông bắc, Đông, Bắc, độ cao sóng trung bình 0,5 - 1,0m; về mùa Hạ, sóng có hướng Nam, Đông Nam, Tây Nam, Tây với độ cao 0,5 - 1,25m. Phân bố dọc theo bờ biển chiều dài đường bờ biển các cửa sông thuộc đủ các chế độ thuỷ triều như nhật triều, nhật triều không đều, bán nhật triều và bán nhật triều không đều, phân bố xen kẽ, kế tiếp nhau: các cửa sông Bắc Bộ và Thanh Hóa thuộc nhật triều, vùng Thuận An - bán nhật triều; các cửa sông có chế độ nhật triều không đều phân bố từ Nghệ An đến Cửa Gianh, từ Quảng Nam tới Bình Thuận, và từ Cà Mau tới Kiên Giang; chế độ bán nhật triều không đều thuộc các cửa sông vùng từ Cửa Gianh đến Bắc Thuận An, từ Nam Thuận An đến Quảng Nam, và Hàm Tân đến Cà Mau [2]. 4 1.3. Khái quát đa dạng sinh học và thành phần loài cá vùng cửa sông - ven biển Việt Nam Vùng cửa sông - ven biển là hệ sinh thái độc đáo và phức tạp nhưng giàu có về tài nguyên thiên nhiên, là bãi đẻ của nhiều loài động vật, là nơi ở vào giai đoạn sớm của nhiều loài giáp xác và cá biển. Ở vùng ven biển đã xác định được khoảng 94 loài thực vật ngập mặn, 346 loài san hô, 794 loài cá biển, 639 loài rong và cỏ biển, 4971 loài động vật đáy… [11,13]. Vùng cửa sông - ven biển là nơi có điều kiện sống đặc trưng tạo nên nhiều đặc sản như tôm, cua, sò, rong câu… Nhiều loài là mặt hàng có giá trị kinh tế, làm thực phẩm, làm cảnh… được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Trong số đó cá, giáp xác, thân mềm và rong biển là những đối tượng có sản lượng lớn và đang được khai thác. Cá ở vùng biển nông chiếm tới 80 - 90% tổng sản lượng cá khai thác được. Riêng tôm, năm 1995 sản lượng là 19.000 - 24.000 tấn, cua ghẹ chiếm trên 3% tổng sản lượng hải sản khai thác [11]. Theo Vũ Trung Tạng (2009), khu hệ cá của các cửa sông riêng biệt không đa dạng so với những vùng biển kế cận của chúng, dao động từ 70 đến 230 loài. Khu hệ cá toàn cửa sông dọc bờ biển nước ta là 615 loài, 120 họ, thuộc 29 bộ. Trong đó có 5 bộ cá sụn (Chondrichthyes) với 11 họ và 26 loài, còn lại là đại diện của các nhóm cá xương, trong đó có trên 50 loài chưa xác định được tên khoa học, còn để ở dạng sp. Bộ cá lớn nhất trong khu vực là cá Vược (Perciformes), gồm 53 họ và 339 loài chiếm 44,17% số lượng họ và 55,12% số lượng loài. Theo số lượng họ, bộ đứng sau đó lần lượt là Anguilliformes, Scorpaeniformes, Pleuronectiformes, nhưng giàu loài nhất sau bộ cá Vược là Clupeiformes, Pleuronectiformes, Anguilliformes, Tetraodontiformes, Cypriniformes, Siluriformes, Scorpaeniformes. Các bộ chỉ có 1 họ và 1 loài không nhiều, gồm bộ Lamniformes, Albuliformes, Gonorhynchiformes, Osteoglossiformes, Cyprinodontiformes, Beryciformes, Lophiformes, Zeiformes và Gasterosteiformes. Những họ giàu loài nhất, từ 47 đến 19 loài theo thứ tự từ cao tới 5 thấp như sau: Gobiidae (47 loài), Carangidae, Sciaenidae, Serranidae, Cyprinidae, Tetraodontidae, Cynoglossidae, Clupeidae và Engraulidae (19 loài). Những họ có 10 loài trở lên đóng góp 326 loài, chiếm gần 52% tổng số loài. Trong thành phần khu hệ cá có khoảng 42 họ chỉ có 1 loài, chiếm 35% tổng số họ và 6,8% tổng số loài [11]. Vùng cửa sông - ven biển là hệ sinh thái độc đáo và phức tạp nhưng giàu có về tài nguyên thiên nhiên, là bãi đẻ của nhiều loài động vật, là nơi ở vào giai đoạn sớm của nhiều giáp xác và cá biển. Ở vùng ven biển đã xác định được khoảng 94 loài thực vật ngập mặn, 346 loài san hô, 794 loài cá biển, 639 loài rong và cỏ biển, 4.971 loài động vật đáy… [11, 13]. 1.4. Lịch sử nghiên cứu hệ sinh thái cửa sông - ven biển Việt Nam * Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám Những nghiên cứu trong giai đoạn này đều do các tác giả nước ngoài, được tiến hành trong phạm vi rộng trên thềm lục địa Biển Đông và các biển kế cận về các lĩnh vực khoa học cơ bản như địa chất, hải dương, khí tượng - thủy văn, các quá trình động lực biển, nhất là sự trao đổi nước giữa biển Đông với Thái Bình Dương. Các nghiên cứu về thủy sinh vật và nghề cá cũng được coi trọng nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá tài nguyên, phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa [22]. * Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay Sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là sau khi miền Bắc được giải phóng, các hoạt động nghiên cứu khoa học được chuyển dần sang các nhà khoa học trong nước. Nhiều công trình nghiên cứu lớn được ra đời như: chương trình Thuận Hải Minh Hải, các đề tài thuộc chương trình 52.02, các chương trình Biển và các chương trình nghiên cứu Khoa học cơ bản qua các giai đoạn như 48.06, 48B, KT-03, KHCN-06, … Viện Nghiên cứu biển Hải Phòng vào những năm chiến tranh chống Mỹ (1972) đã tiến hành điều tra thành phần các loài thực vật nổi và động vật nổi ở vùng của sông 6 thuộc hệ thống sông Hồng: cửa Ba Lạt, cửa Ninh Cơ và cửa Đáy (Trương Ngọc An và Hàn Ngọc Lương, 1980; Nguyễn Văn Khôi và Dương Thị Thơm, 1980; Nguyễn Văn Chung và nnk., 1973); nghiên cứu về thành phần các loài cá ở ven biển Quảng Ninh (Nguyễn Nhật Thi,1971); cá ở biển Nam Hà (Hồ Sỹ Bình, 1974). Sau năm 1975, các đề tài nghiên cứu độc lập hay đề tài thuộc các chương trình nghiên cứu cấp nhà nước khác do Phân viện Viện Hải dương Hải Phòng hay Viện Tài nguyên và Môi trường biển hiện nay chủ trì cũng được tiến hành trên các địa bàn khác như đầm Cái Tráp (Trương Ngọc An và nnk., 1984), đầm phá Thừa Thiên - Huế (Chương trình KT-03) [22,24]. Các nghiên cứu của Viện Tài nguyên và Môi trường Hải Phòng, Viện Hải dương học Nha Trang và các cơ sở khoa học khác trong nước về đa dạng sinh học và các lĩnh vực liên quan đến các quá trình tương tác sông - biển như đặc điểm địa mạo trầm tích (Nguyễn Đức Cự, 1985), hình thái phân bố trầm tích và đặc điểm bồi tụ bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn (Trần Đình Lân và ct, 1991), đặc điểm cơ bản của các bồn tích tụ hiện đại tiêu biểu ở dải ven bờ Tây vịnh Bắc bộ (Trần Đức Thạnh, 1991), hiện trạng và nguyên nhân bồi xói dải ven bờ Việt Nam (Nguyễn Thanh Ngà Chương trình KT-03) nghiên cứu quy luật và dự đoán xu thế bồi tụ - xói lở vùng ven biển và cửa sông Việt Nam (Lê Phước Trình - Chương trình KHCN-06), các quá trình động lực cửa sông, bờ biển và hệ đầm phá (Nguyễn Văn Điệp, 1986-1990), địa mạo bờ biển Việt Nam (Lê Xuân Hồng & Lê Thị Kim Thoa, 2007) [22]. Những vấn đề liên quan đến hoạt động của con người như khai thác các dạng tài nguyên (quai đê lấn biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản, nạo vét luồng lạch phát triển giao thông, du lịch sinh thái biển), gây ô nhiễm môi trường vùng cửa sông ven biển được nhiều nhà khoa học quan tâm như hoạt động của đề tài thuộc các chương trình Thuận Hải - Minh Hải, KT-03, KHCN-07, 48-6; Ô nhiễm môi trường do sông thải ra (Phạm Văn Ninh, 1991-1995 - Chương trình KT-03); Dynamics of the landscape and pollution of environment of coastal wetland of Hai Phong - Quang Ninh caused by human activities (Vu Trung Tang, 2000) thuộc chương trình KHCN7 06 do Đặng Trung Thuận chủ trì (1997-1998); khảo sát và đánh giá các dạng tài nguyên sinh học nhằm tạo cơ sở khoa học phụ vụ cho khai thác, duy trì và phát triển tài nguyên (Huỳnh Quang Năng, Vũ Tự Lập & Vũ Trung Tạng - Chương trình Thuận Hải - Minh Hải); Huỳnh Quang Năng, Nguyễn Tác An, Đặng Ngọc Thanh, Nguyễn Đức Cự - Chương trình 48-06; Nguyễn Văn Điệp - Chương trình 48B; Đặng Ngọc Thanh, Nguyễn Hữu Phụng, Nguyễn Chu Hồi; Nguyễn Tác An - Chương trình KHCN - 06; Nguyễn Văn Tiến, 1999, 2002; Hồ Ngọc Đại, 1998, 1999)…[22]. Sau khi chuyển vào Nha Trang, Viện Nghiên cứu biển nay là Viện Hải dương học, ngoài việc tham gia vào các chương trình Nhà nước, còn tiến hành nhiều đề tài độc lập khác, tập trung chính vào các thủy vực ven bờ như đầm Ô Loan của Bùi Văn Dương, Nguyễn Hữu Sửu năm 1981; Nguyễn Văn Chung và Huỳnh Quang Năng năm 1980; đầm Nha Phu Khánh Hòa (Nguyễn Ngọc Lâm và nnk.,2006); vịnh Bình Cang-Nha Trang (Nguyễn Văn Chung và nnk,1978); Văn Phong và Cam Ranh Khánh Hòa (Thái Ngọc Chiến và nnk.,2006), các rạn san hô ven bờ Nam Việt Nam (Võ Sỹ Tuấn và nnk., 1996)…[26]. Trạm cá biển Hải Phòng hay Viện Nghiên cứu Hải sản hiện nay, ngoài tham gia vào các chương trình khảo sát lớn cấp nhà nước, những năm sau này còn tiến hành nhiều đề tài cấp Bộ có liên quan chặt chẽ với việc đánh giá nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ nhằm tạo cơ sở cho các quy hoạch khai thác, bảo tồn nguồn lợi và bảo vệ môi trường cũng như cho việc thiết lập các khu bảo tồn biển như nghiên cứu về động vật thân mềm (Nguyễn Quang Hùng, 2005); cá rạn san hô biển Cát Bà-Hải Phòng (Lại Duy Phương, 2005); hiện trạng hệ sinh thái san hô và tiềm năng bảo tồn biển quần đảo Cô Tô, Quảng Ninh (Đỗ Văn Khương và nnk., 2005); rong biển thuộc vùng biển Cát Bà-Cô Tô (Đỗ Văn Khương và nnk., 2005); điều kiện môi trường và nguồn lợi hải sản vùng biển ven bờ tỉnh Thanh Hóa (Chu Tiến Vĩnh và nnk, 2001); nguyên nhân gây tử vong cao cho trứng cá cá con ở một số vùng ven biển Việt Nam (Nguyễn Khắc Bát, 2006); trứng cá cá con, tôm con ở vùng nước ven bờ Đông và Tây bán đảo Cà 8 Mau (Nguyễn Quang Huy, 2004-2006); đánh giá nguồn lợi và sự phát triển của nghề cá nổi ven biển miền Trung và Nam bộ (Nguyễn Long và nnk., 2005) [22]. Các trường Đại học là những đơn vị rất tích cực triển khai nhiều đề tài nghiên cứu về khu hệ động vật, thực vật thủy sinh (thực vật nổi, thực vật đáy, động vật nổi, động vật đáy, cá và các nhóm động vật có xương sống khác...), về nguồn lợi thủy sản cũng như các điều kiện môi trường cửa sông, đầm phá thuộc dải ven biển từ Bắc đến Nam nhằm đề xuất cơ sở khoa học cho việc sử dụng tổng hợp tài nguyên cho phát triển bền vững. Nghiên cứu đầu tiên về các loài cá nước lợ cửa sông (sông Ninh Cơ, Nam Định) có thể tìm thấy trong công trình của Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên (1960), cá sông Bạch Đằng (Mai Đình Yên và Trần Định, 1969). Từ đầu những năm 1972, các đề tài khảo sát nghiên cứu về các loài cá cũng như thủy sinh vật và nguồn lợi hải sản cửa sông ven biển được triển khai bởi nhiều tác giả, song tập trung chủ yếu vào các cán bộ khoa học trường Đại học Tổng hơp Hà Nội (Vũ Trung Tạng, 1974-1976, 1977-1980, 1980-1985, 1996-2000, 2006-2008, cùng các công bố vào các năm 1977, 1999a, 1999b, 2005; Vũ Trung Tạng và nnk., 1978, 1981, 1988, 2007, 2008, 2008, 2009; Nguyễn Xuân Huấn, 1998-1999, 2004-2005, 2006-2008, 19981999) [22, 24]. Nghiên cứu về thảm thực vật ngập mặn và các nhóm động vật sống trong rừng hoặc các bãi triều lân cận có thể tìm thấy trong công trình của các cán bộ khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu Hệ sinh thái Rừng ngập mặn như Phan Nguyên Hồng (1984), Phan Nguyên Hồng và Hoàng Thị Sản (1993), Phan Nguyên Hồng và nnk. (1999), Nguyễn Hoàng Trí (1988, 2004), Đỗ Văn Nhượng và Hoàng Ngọc Khắc... (2004), Do Van Nhuong and Kejti Wada. (2004) ... [22]. Đối với khu vực cửa sông ven biển miền Trung có thể gặp các công trình của Đại học Tổng hợp Huế trước đây hay Đại học Huế hiện nay (Hoàng Đức Đạt và Võ Văn Phú, 1977; Phạm văn Miên và Nguyễn Mộng, 1982; Nguyễn Thị Phương Liên và nnk., 1981; Tôn Thất Pháp, 1993; Võ Văn Phú, 1995, 2001, 2004, 2003 [22, 24]. 9 Trường Đại học Thủy sản Nha Trang hay Đại học Nha Trang hiện nay thường triển khai các nghiên cứu của mình trong các đầm phá Nam Trung Bộ như đầm Thị Nại (Nguyễn Chính, Ngô Anh Tuấn, 1982; Nguyễn Trọng Nho và nnk., 1982), đầm Nha Phu, Phú Khánh (Nguyễn Trọng Nho và nnk., 1982)…[22]. Nghiên cứu về đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản vùng cửa sông ven biển và đồng bằng Nam Bộ có thể tìm thấy trong các công trình của Viện Nuôi trồng Thủy sản II cũng như các trường Đại học TP Hồ Chí Minh, Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí minh, đại học Cần Thơ, trong đó có các nghiên cứu về “Nguồn lợi động vật Hai vỏ (Bivalvia) ở vùng ven biển thị xã Bạc Liêu” (Dương Trí Dũng và Nguyễn Văn Thường, 2001), “Thực vật nổi (Phytoplankton) hạ lưu sông Cửu Long năm 19761979” (Trần Trường Lưu, 1979), về thủy sinh vùng cửa sông ven biển Tây thuộc bán đảo Cà Mau phục vụ yêu cầu phát triển thủy sản (Lương Văn Thanh và Nguyễn Văn Khôi, 2002), “Điều tra nghiên cứu sử dụng hợp lí hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển thuộc hệ thống sông Cửu Long để bảo vệ nguồn lợi và phát triển nuôi trồng thủy sản” (Trần Thanh Xuân và nnk.,1998) [22]. Các nghiên cứu về địa chất địa mạo thuộc các cửa sông và dải bờ biển Việt Nam được nhiều tác giả quan tâm, có thể gặp trong ấn phẩm của Lê Xuân Hồng & Lê Thị Kim Thoa, 2007. 2. Lịch sử nghiên cứu cá ở khu vực nghiên cứu Mặc dù vùng biển Tây Nam Bộ có tính đa dạng sinh học cao, trữ lượng nguồn lợi hải sản phong phú và có tiềm năng lớn cho phát triển kinh tế biển, tuy nhiên việc điều tra, nghiên cứu đa dạng sinh học và nguồn lợi hải sản nói chung và nguồn lợi cá nói riêng chưa thực sự được quan tâm nếu so sánh với các vùng biển khác ở Việt Nam như vịnh Bắc Bộ hay Đông Nam Bộ. Các chương trình điều tra ở vùng biển Tây Nam Bộ được thực hiện muộn hơn và tần suất cũng thấp hơn. 10 Một trong những nghiên cứu đầu tiên về sinh vật biển ở vùng biển Tây Nam Bộ là nghiên cứu về khu hệ cá biển, đã được công bố trong các công trình của Pellegrin (1905) và Chabanaud (1926). Từ năm 1961 đến 1971 dưới sự tài trợ của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) các nghiên cứu ngư nghiệp đã được tiến hành vì mục tiêu phát triển nghề cá Nam Việt Nam. Đó là hoạt động khảo sát của Kyokuyo Co Ltd. với 2 tầu Kyoshin Maru số 52 (1000CV) và tầu Hữu nghị. Kết quả đánh cá thí nghiệm trong những năm 1969-1971 đã chứng minh rằng nguồn lợi cá biển ở phía Đông vịnh Thái Lan, tức vùng thềm lục địa Việt Nam có năng suất đánh bắt thường cao hơn phía thềm lục địa Thái Lan [19]. Cùng với các hoạt động trên, sự hợp tác giữa viện Hải dương Scripps California với chính quyền Sài Gòn đã tiến hành điều tra cơ bản về các điều kiện tự nhiên và đánh giá nguồn lợi thủy sinh vật Biển Đông và vịnh Thái Lan. Kết quả cũng được tổng kết trong ấn phẩm “Scientific result of marine investigation of the South China Sea and the Gult of Thailand 1959-1961” [41]. Sau năm 1975, những nghiên cứu về nguồn lợi sinh vật ở vùng biển Tây Nam Bộ được thực hiện ít hơn. Rất nhiều chương trình biển đã được triển khai, tuy nhiên phạm vi nghiên cứu thường không bao gồm vùng biển Tây Nam Bộ. Đến năm 1996, dưới sự tài trợ của chính phủ Đan Mạch, dự án “Đánh giá nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam, giai đoạn I” (1996-1999) đã được thực hiện. Trong năm 1996-1997, dự án đã thực hiện 2 chuyến điều tra nguồn lợi hải sản bằng lưới kéo đáy (trên tàu HL-408 B) ở vùng biển Việt Nam, tuy nhiên vùng biển Tây Nam Bộ cũng chưa được điều tra, nghiên cứu. Một trong những nội dung quan trọng đã được dự án triển khai ở vùng biển Tây Nam Bộ là thí điểm thu thập số liệu sinh học nghề cá, gồm thành phần sản lượng, thành phần loài, các thông tin sinh học của các đối tượng khai thác chính của các loại nghề khai thác ở vùng biển Tây Nam Bộ. Kết thúc giai đoạn I của dự án, kết quả điều tra, nghiên cứu đã cung cấp những thông tin cơ bản về hoạt động nghề cá ở vùng biển này. Giai đoạn II của dự án được thực hiện từ năm 2000 đến 2005 [1]. Dự 11 án đã kết hợp với đề tài “Nghiên cứu thăm dò nguồn lợi hải sản và lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp phục vụ phát triển nghề cá xa bờ (2000-2002)” [23] và dự án “Điều tra cơ bản nguồn lợi hải sản và điều kiện môi trường các vùng trọng điểm phục vụ mục tiêu phát triển lâu bền ngành hải sản vùng gần bờ biển nước ta (1997-2003)” tiến hành điều tra nguồn lợi hải sản tầng đáy và gần đáy bằng tàu lưới kéo đáy (giã tôm và giã cá) ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Kết quả thu được đã đánh giá được hiện trạng nguồn lợi hải sản sống đáy và gần đáy, nguồn lợi giáp xác ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Có thể nói đây là dự án điều tra đánh giá nguồn lợi và khai thác hải sản có quy mô lớn nhất từ trước đến nay ở nước ta. Danh sách thành phần loài thu được của dự án đã bổ sung một số loài hải sản vào danh mục cá biển Việt Nam, đồng thời kết quả phân tích biến động thành phần sản lượng của loài đã tạo cơ sở khoa học cho việc xác định mức độ nguy cấp của một số loài hải sản ở biển Việt Nam trong đó có vùng biển Tây Nam Bộ. Năm 1997 - 1998, Chương trình hợp tác Việt Nam - Thái Lan đã tiến hành điều tra nguồn lợi sinh vật biển ở vùng chồng lấn vịnh Thái Lan, khu hệ thủy sinh vật ở khu vực này cũng đã được phân tích. Các kết quả này đã đóng góp một phần quan trọng vào việc xây dựng tổng quan nguồn lợi hải sản biển Việt Nam. Ngoài ra, nhiều báo cáo khoa học đã được công bố về đánh giá nguồn lợi, khả năng khai thác, đặc điểm sinh học chủ yếu của một số loài hải sản có giá trị kinh tế. Năm 2003, Viện Nghiên cứu Hải sản thực hiện đề tài “Nghiên cứu đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá nổi nhỏ (chủ yếu là cá nục, cá trích, cá cơm, cá bạc má, ...) ở biển Việt Nam”, phạm vi nghiên cứu bao gồm cả vùng biển Tây Nam Bộ [14]. Năm 2005, Viện Nghiên cứu Hải sản thực hiện đề tài “Đánh giá nguồn lợi cá rạn san hô ở một số vùng dự kiến thiết lập khu bảo tồn biển và một số loài hải sản có giá trị kinh tế cao ở dốc thềm lục địa Việt Nam, đề xuất các giải pháp sử dụng bền vững nguồn lợi” [12]. Ở vùng biển Tây Nam Bộ, đề tài đã tiến hành điều tra, khảo sát 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan