Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của đảng ta trong đánh bại ch...

Tài liệu Nghiên cứu nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của đảng ta trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân pháp năm 1946 1947

.PDF
56
33
82

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH VŨ HOÀI NAM NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH CỦA THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1947) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên nghành: Giáo dục quốc phòng và an ninh HÀ NỘI – 2018 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH VŨ HOÀI NAM NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH CỦA THỰC DÂN PHÁP (1946 - 1947) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên nghành: Giáo dục quốc phòng và an ninh Nguời hướng dẫn khoa học Đại tá.TS: Phan Xuân Dũng HÀ NỘI – 2018 LỜI CẢM ƠN Em xin cảm ơn Đa ̣i tá. TS. Phan Xuân Dũng đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận. Em xin được chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các cán bộ, giảng viên Trung tâm GDQPAN Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại Trung tâm và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Em xin được cảm ơn sự giúp đỡ, động viên, khích lệ của gia đình, bạn bè, người thân trong quá trình học tập, rèn luyện và thực hiện khóa luận. Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, nên khóa luận không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2018 Tác giả đề tài Vũ Hoài Nam LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đề tài khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng em, dưới sự hướng dẫn của Đa ̣i tá. TS. Phan Xuân Dũng. Nếu sai, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2018 Tác giả đề tài Vũ Hoài Nam MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 3 3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3 4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 3 5. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn .................................................................... 4 8. Bố cục của khóa luận.................................................................................. 4 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ NGHỆ THUẬT 5 TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN ....................................................................... 5 1.1. QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN ......... 5 1.1.1. Khái niệm toàn dân kháng chiến ........................................................... 5 1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chi Minh về toàn dân kháng chiến ............................ 6 1.2. BỐI CẢNH CỦA VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ..................................................................................................... 9 1.2.1 Thuận lợi ............................................................................................... 9 1.2.2. Những khó khăn ................................................................................. 10 1.2.2.1. Giặc ngoại xâm và nội phản ............................................................ 10 1.2.2.2. Tình hình chính trị, kinh tế............................................................... 10 1.2.2.3. Tình hình văn hoá, xã hội ................................................................ 10 1.3. ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN TA ................................. 11 1.3.1 Âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp ................................................. 11 1.3.2. Công tác chuẩn bị kháng chiến của quân và dân ta ............................. 12 1.3.2.1. Xác định đường lối lãnh đạo kháng chiến của Đảng ta.................... 12 1.3.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ......................................... 15 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 16 Chương 2: TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH CỦA THỰC DÂN PHÁP NĂM 1946 – 1947 ............................................................................................................. 17 2.1. CUỘC CHIẾN ĐẤU CỦA QUÂN VÀ DÂN TA TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN .......................................... 17 2.1.1. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta tại Thủ đô Hà Nội và các thành phố lớn ................................................................................................................ 17 2.1.2. Quân và dân ta phá cuộc tiến công lớn của thực dân Pháp đầu năm 1947 ..................................................................................................................... 18 2.2. TỔ CHỨC HẬU PHƯƠNG KHÁNG CHIẾN; PHÁ TAN CUỘC TIẾN CÔNG CỦA THỰC DÂN PHÁP LÊN VIỆT BẮC THU ĐÔNG NĂM 1947 ..................................................................................................................... 22 2.2.1. Tổ chức hậu phương kháng chiến ....................................................... 22 2.2.2. Phá tan cuộc tiến công của thực dân Pháp lên Việt Bắc Thu Đông năm 1947 ............................................................................................................. 26 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 32 Chương 3: VẬN DỤNG NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY ......... 33 3.1. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC ĐÁNH NHANH THẮNG NHANH CỦA THỰC DÂN PHÁP NĂM 1946 - 1947 ............................................... 33 3.1.1. Nắm chắc tình hình, chỉ đạo sát sao công tác chuẩn bị, sẵn sàng đối phó thắng lợi với các cuộc tiến công lớn của địch ............................................... 33 3.1.2. Kịp thời chỉ đạo chuyển hóa thế trận tác chiến linh hoạt, sáng tạo để bẻ gãy từng gọng kìm quân địch, giành thắng lợi .............................................. 34 3.1.3. Vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo, đánh bại hoàn toàn cuộc hành binh quy mô lớn của địch ............................................................................. 36 3.2. YÊU CẦU, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI ........................................................................................ 38 3.2.1.Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ..................................... 38 3.2.2. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp ................................ 38 3.2.3. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước ........................................... 41 3.3. PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY .......................................................................... 42 3.3.1. Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc.......................................................... 43 3.3.2. Giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội ................................... 44 3.3.3. Tăng cường mối quan hệ bền chặt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, trong đó “Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân” ........................................... 44 3.3.4. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần làm tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội ........................................................................ 45 3.3.5. Tăng cường công tác phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ....................... 45 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 46 KẾT LUẬN .................................................................................................. 48 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 49 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân tộc ta vốn có truyền thống đoàn kết chiến đấu chống ngoại xâm và đã sáng tạo ra một nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc rất phong phú và độc đáo. Ngày nay, Ðảng ta đề ra đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Xuất phát từ đường lối đó, nghệ thuật quân sự của ta trước hết là nghệ thuật quân sự của toàn dân kháng chiến. Ðó cũng là sự kế thừa và phát huy lên một trình độ mới nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc. Nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc của ta là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang, đồng thời chỉ đạo hoạt động quân sự của nhân dân cầm vũ khí đứng lên đánh địch, kết hợp chặt chẽ quân sự với chính trị, tác chiến với binh vận, kết hợp tiêu diệt địch và phát động quần chúng giành quyền làm chủ. Đối tượng của nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng của ta là toàn dân. Ta tổ chức lực lượng theo cấu trúc toàn dân đánh giặc; bao gồm lực lượng vũ trang ba thứ quân gắn liền với lực lượng kháng chiến của từng huyện, tỉnh, thành phố; kết hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực. Đó là nghệ thuật tổ chức có tính khoa học, tính thống nhất và chặt chẽ, làm cho toàn dân ta triệu người như một, tạo sức mạnh tổng hợp lớn nhất để đánh địch, thắng địch. Đi đôi với nghệ thuật tổ chức lực lượng, ta xác định hai hình thức đấu tranh chủ yếu: Đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị; hai phương thức tác chiến cơ bản: Tác chiến tập trung và tác chiến du kích. Với nghệ thuật tổ chức và vận dụng các hình thức, phương thức tác chiến như thế, ta đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân “thiên la địa võng”, rộng khắp, vững chắc, nhưng mạnh ở trọng điểm. Điều đó lý giải vì sao ta có thể "Mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay ở cả sau lưng địch, trong trung tâm 1 phòng ngự của địch" và "Kéo địch ra khỏi hang ổ mà đánh, căng địch ra mà đánh, luồn sâu vào hậu phương địch mà đánh..." Ngày nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bài học về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng đánh thắng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch còn nguyên giá trị và cần được vận dụng cho phù hợp trong điều kiện mới. Đặc biệt, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), kẻ địch xâm lược rất có thể dùng chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” bằng vũ khí công nghệ cao hòng tránh bị sa lầy, tổn thất và phản đối của dư luận trong nước cũng như quốc tế. Do đó, việc vận dụng nghệ thuật này đòi hỏi chúng ta phải nhất quán quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc ngay từ thời bình; đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và các khu vực phòng thủ địa phương ngày càng vững chắc; xây dựng và nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, bảo đảm không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch không chỉ bằng hành động quân sự mà còn bằng các biện pháp phi vũ trang, nhất là chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thực hiện chiến thắng mà không cần chiến tranh, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chúng ta theo mưu đồ của chúng. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo, cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn đó; xác định đúng đối tượng, đối tác và sự chuyển hóa phức tạp của nó để có đối sách hợp tác và đấu tranh phù hợp. Trong đấu tranh, cần khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, nhưng kiên quyết về nguyên tắc chiến lược; kiên trì, thận trọng bằng biện pháp hòa bình, tranh thủ sự đồng thuận và ủng hộ của bạn bè quốc tế, tránh chủ quan, manh động dẫn đến bị cô lập, lệ thuộc, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mớí. 2 Để tìm hiểu về nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến, đoàn kết toàn dân đánh giặc cứu nước, kế thừa phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm cực kỳ oanh liệt của dân tộc và những bài học kinh nghiệm quý báu về kháng chiến toàn dân từ đó vận dụng nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong giai đoạn mới, tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của Đảng ta trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp năm 1946 1947” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Phân tích, làm sâu sắc thêm nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của Đảng ta trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp (1946 - 1947). Rút ra bài học kinh nghiệm, phát huy sức mạnh toàn dân chung sức thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong giai đoạn mới. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về nghệ thuật toàn dân kháng chiến. Phân tích làm rõ nghệ thuật toàn dân kháng chiến trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp năm 1946 - 1947. Vận dụng nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến trong xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc hiện nay. 4. Đối tượng nghiên cứu Nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của Đảng ta trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp năm 1946 - 1947. 5. Phạm vi nghiên cứu Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thực dân Pháp (1946 - 1947). 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp 3 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 7.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả của nghiên cứu góp phần làm rõ thêm nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến của Đảng ta trong đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp 1946 - 1947. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn Vận dụng nghệ thuật chỉ đảo toàn dân kháng chiến vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong giai đoạn mới. 8. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu về danh mục tài liệu tham khỏa , nội dung khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về nghệ thuật toàn dân kháng chiến. Chương 2: Toàn dân kháng chiến đánh bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp 1946 - 1947. Chương 3 : Vận dụng nghệ thuật chỉ đạo toàn dân kháng chiến trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. 4 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ NGHỆ THUẬT TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN 1.1. QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN 1.1.1. Khái niệm toàn dân kháng chiến Đường lối toàn dân kháng chiến là sự kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước, truyền thống quân sự cả nước chung sức đánh giặc của dân tộc Việt Nam lên một trình độ mới, một chất lượng mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực tế của cách mạng Việt Nam. Toàn dân kháng chiến: là nội dung chính của chiến tranh nhân dân Việt Nam, chi phối mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chi phối kế hoạch tác chiến nghệ thuật quân sự và phương hướng xây dựng lực lượng. Toàn dân kháng chiến là tất cả mọi người dân Việt Nam đều tham gia đánh giặc, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt. Cách đánh giặc trong chiến tranh nhân dân là thế “thiên la địa võng” đối với quân thù; đánh địch ở phía trước, ở phía sau, ngay trong lòng địch, chiến trường không phân chiến tuyến. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài, tạo ra thế cài răng lược, chiến tranh lộn ẩu, chiến tranh bao vây, chiến tranh không mặt trận, chiến tranh tiêu thổ. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (tháng 12-1946): “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”, đây chính là một định hướng chiến lược, một cẩm nang hoạt động đối với toàn dân ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 5 1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chi Minh về toàn dân kháng chiến Trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng tổ chức cuộc họp mở rộng khẩn cấp tại Vạn Phúc, Hà Đông do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì; quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước; đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến chống Pháp xâm lược là kháng chiến lâu dài. Ngay đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Lời kêu gọi chỉ có 19 dòng, 199 từ ngắn gọn và súc tích, nhưng đã thể hiện những quan điểm cốt lõi của Người về kháng chiến toàn dân cũng như mệnh lệnh của non sông, thôi thúc cả dân tộc chung sức, đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng quân Pháp xâm lược. Kế thừa những lý luận trong học thuyết quân sự Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ đâu là chiến tranh chính nghĩa, cách mạng và đâu là chiến tranh phi nghĩa, phản cách mạng. Người cho rằng, quần chúng nhân dân lao động, nếu được giác ngộ và có nhận thức đúng đắn, sẽ ủng hộ và hăng hái tham gia cuộc chiến tranh chính nghĩa. Vì thế, chỉ có chiến tranh chính nghĩa mới có thể huy động, tập hợp được đông đảo quần chúng, được toàn dân tham gia chiến đấu. Có thể thấy, chiến tranh nhân dân do toàn dân ta tiến hành nhằm giành lại và giữ vững nền độc lập, tự do cho Tổ quốc mình là chiến tranh chính nghĩa. Khẳng định tính chính nghĩa là một trong những nhân tố hàng đầu để đưa cuộc chiến tranh của nhân dân ta đi đến thắng lợi, cho dù phải trải qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, thậm chí kéo dài, “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi độc lập dân tộc và tự do hòa bình là mục tiêu phấn đấu suốt đời mình. Thế nhưng trong điều kiện phải đương đầu với kẻ thù 6 xâm lược có sức mạnh quân sự và kinh tế lớn hơn ta nhiều lần, có quân số đông và vũ khí hiện đại, cần phải huy động sức mạnh của toàn dân để chiến dấu. Muốn đánh bại kẻ thù hung bạo, mạnh hơn ta gấp bội thì mỗi người dân Việt Nam đều phải trở thành chiến sĩ đứng lên bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước. Khi nhấn mạnh vai trò của nhân dân, về tính chất chính nghĩa, động lực của cuộc kháng chiến là bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, Người khẳng định: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Bằng sự khẳng định đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định mục đích chính nghĩa của cuộc kháng chiến và lòng tin tưởng của Người vào sức mạnh ý chí bảo vệ độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta. Từ quan điểm về vai trò của con người trong lĩnh vực quân sự và lòng tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Người nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân. Nhân dân trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân Việt Nam. Người giải thích, toàn dân kháng chiến là ai cũng phải đánh giặc, bất cứ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, ai cũng tham gia kháng chiến. Tổ quốc là Tổ quốc chung, Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do, nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ. Người đã tìm thấy điểm tương đồng, chất keo kết dính các tầng lớp, giai cấp, dân tộc chính là lợi ích tối cao của dân tộc. Đây là nguyên tắc sống còn được Người khái quát ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc: dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc…”. Điều đó thể hiện ý chí toàn thể dân tộc Việt Nam quyết 7 “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” để bảo vệ nền tự do, độc lập mà Người đã tuyên bố trong Tuyên ngôn Độc lập trước toàn thế giới. Quyết tâm đó dựa trên cơ sở lòng tin vào sức mạnh của nhân dân, vào thắng lợi cuối cùng của cả một dân tộc đồng lòng. Người nhấn mạnh: “Bọn thực dân phải biết rằng dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh của dân tộc, thực hiện toàn dân kháng chiến nhưng phải lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Cùng với kêu gọi toàn dân kháng chiến, Người kêu gọi anh em binh sĩ, tự vệ dân quân phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn non sông đất nước. Do đó, khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên. Tư tưởng này đã được Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Đảng đã tập trung xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Đây chính là phương thức tổ chức lực lượng thích hợp nhất để động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc, kết hợp lực lượng nòng cốt với lực lượng rộng khắp của toàn dân, lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ trên cả nước và từng khu vực để tạo nên sức mạnh lớn nhất tiêu diệt quân thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh toàn dân kháng chiến lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt, song Người cũng yêu cầu: “Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân 8 tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi. Muốn thế phải bảo vệ, giúp đỡ, giáo dục nhân dân… phải vận động nhân dân tự nguyện, tự giác, nếu bắt buộc thì chỉ có thể có kết quả tạm thời ngay lúc đó thôi, còn sau đó thì không thấm…” . Theo Người, kháng chiến toàn dân phải đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí. Tức là mỗi ngành, mỗi giới, mỗi lĩnh vực công tác, chiến đấu sản xuất, công tác đều nỗ lực tạo ra hiệu quả to lớn để phục vụ cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt một cách dễ hiểu về tính toàn diện của cuộc kháng chiến: Nó lấy vũ lực ta không sợ, nó lấy chính trị ta không mắc mưu, nó lấy kinh tế phong tỏa thì ta lấy kinh tế đánh nó. Ở tiền tuyến, chiến sĩ hy sinh xương máu để bảo vệ non sông. Ở hậu phương, toàn dân gia sức tăng gia sản xuất… thế là đồng bào hậu phương cùng ra sức tham gia kháng chiến. Người kêu gọi: “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. 1.2. BỐI CẢNH CỦA VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 1.2.1 Thuận lợi Trên thế giới, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống lớn mạnh do Liên Xô đứng đầu, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, phong trào dân chủ và hòa bình cũng vươn lên mạnh mẽ. Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Đảng và nhân dân Việt Nam có bộ máy chính quyền nhà nước làm cộng cụ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng, được hưởng những thành quả của cách mạng, nên có quyết tâm bảo vệ chế độ mới. Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo, đã trở thành đảng cầm quyền, là trung tâm đoàn kết toàn dân trong công cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ chế độ cộng hoà dân chủ. 9 1.2.2. Những khó khăn 1.2.2.1. Giặc ngoại xâm và nội phản Quân đội các nước đế quốc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật Bản, lũ lượt kéo vào Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc. Theo sau Trung Hoa Dân quốc là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) với âm mưu xúc tiến thành lập một chính phủ bù nhìn. Dã tâm của chúng là tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của nhân dân Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, tạo điều kiện cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Ngoài ra còn quân Nhật đang chờ để giải giáp. Một bộ phận theo lệnh đế quốc Anh đánh lại lực lượng vũ trang cách mạng, tạo điều kiện cho quân Pháp mở rộng chiếm đóng Nam Bộ. Chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam lại có nhiều loại kẻ thù đế quốc cùng xuất hiện một lúc như vậy. 1.2.2.2. Tình hình chính trị, kinh tế Về chính trị: Chính quyền cách mạng còn non trẻ, chưa được củng cố. Đảng và nhân dân Việt Nam chưa có kinh nghiệm giữ chính quyền. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cách mạng Việt Nam ở trong tình thế bị bao vây, cô lập. Về kinh tế: Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo đó là hạn hán kéo dài làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất không thể cày cấy được. Ngân sách Nhà nước hầu như trống rỗng, Chính quyền cách mạng chưa quản lí được ngân hàng Đông Dương. Trong khi đó quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, càng làm cho nền tài chính thêm rối loạn. 1.2.2.3. Tình hình văn hoá, xã hội 10 Tàn dư văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số bị mù chữ. Các tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút ngày đêm hoành hành. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng trước tình thế hiểm nghèo. Vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong hoàn cảnh đó, ngày 25 - 11 - 1945, Trung ương Đảng ra bản chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”, xác định: Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam “vẫn là giải phóng dân tộc”, khẩu hiệu của nhân dân là “dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”; Kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược; Bốn nhiệm vụ cấp bách trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân; Phương hướng đối ngoại là kiên trì nguyên tắc bình đẳng, hợp tác”, “thêm bạn, bớt thù”, đối với quân Trung Hoa dân quốc thực hiện khẩu hiệu “Hoa, Việt thân thiện”, đối với Pháp thực hiện “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. 1.3. ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN TA 1.3.1 Âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ Bộ ngày 6 - 3 và Tạm Ước ngày 14 - 9 1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công. Ở Bắc Bộ, hạ tuần tháng 11 - 1946, quân Pháp tiến công ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Sau khi nổ súng ở Hải Phòng và Lạng Sơn, thực dân Pháp càng ráo riết chuẩn bị lực lượng hòng nhanh chóng đánh chiếm cả nước bằng chiến lược “chớp nhoáng”. Kế hoạch của chúng nhằm đánh úp các cơ quan đầu não của ta tại Thủ đô Hà Nội, tiêu diệt bộ đội Vệ quốc quân và Tự vệ tại các thành phố lớn, đồng thời đánh chiếm những địa bàn chiến lược ở Trung bộ và Bắc Bộ. Tháng 12 - 1946, Pháp gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (Khu phố Yên Ninh)… Ngày 18 - 12 - 1946, quân Pháp 11 gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không chúng sẽ giành toàn quyền hành động vào sáng ngày 20 - 12 - 1946. Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Bộ đội ta công kích đồng loạt vào các vị trí quân Pháp, sau đó nhanh chóng chuyển sang bao vây, ghìm giữ quân địch ở Hà Nội và các thành phố, thị xã trên địa bàn cả nước. Bị sa lầy tại các thành phố, thị xã, thực dân Pháp xúc tiến việc chuẩn bị một cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc thực hiện âm mưu phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn lực lượng bộ đội chủ lực của ta; dùng thắng lợi quân sự để thúc đẩy việc thành lập chính quyền bù nhìn toàn quốc do Bảo Đại đứng đầu và kết thúc chiến tranh; “Bịt kín biên giới, loại trừ mọi sự chi viện từ ngoài vào. Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ”, thực dân Pháp đã huy động hơn 12.000 quân, cùng nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại tiến công lên Việt Bắc với chiến lược “đánh nhanh giải quyết nhanh”. Hành động của kẻ xâm lược đã đặt cuộc kháng chiến của nhân dân ta đứng trước thử thách nghiêm trọng. Chúng ta phải đối đầu với cuộc tiến công mà tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía địch. Trong khi chưa có kinh nghiệm về tổ chức chiến dịch, ta phải huy động về sức người, sức của cho cuộc chiến đấu có quy mô lớn, diễn ra trong thời gian dài. 1.3.2. Công tác chuẩn bị kháng chiến của quân và dân ta 1.3.2.1. Xác định đường lối lãnh đạo kháng chiến của Đảng ta Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta mà đứng đầu là chủ tich Hồ Chí Mimh đã vạch ra đường lối kháng chiến để chỉ đạo mọi mặt kháng chiến của quân và dân ta. Ngày 17 và 18 - 12 - 1946, hội nghị bất thường Ban chấp hành Trung ương mở rộng họp tại Vạn Phúc - Hà Đông dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn 12 quốc. Đêm ngày 19 - 12 - 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sáng ngày 20 - 12 - 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Ngày 22 - 12 – 1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị toàn dân kháng chiến. Đường lối kháng chiến của ta là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, và tự lực cánh sinh. Đường lối này đã thể hiện tính chất của cuộc kháng chiến của nhân ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa, chống lại một cuộc chến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm mục đích giành độc lập và thống nhất Tổ Quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân. Trong cuộc kháng chiến này, dân tộc Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu mình, vừa đấu tranh cho hòa bình thế giới. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam do đó còn là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, vì dân chủ hòa bình. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến: Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc không phân biệt già trẻ, trai gái, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài. Sở dĩ như vậy là vì: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì lợi ích toàn dân nên phải do toàn dân tiến hành. Kháng chiến toàn diện: Là kháng chiến trên tất cả các mặt: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao….Vì thực tiển giặc Pháp không những đánh ta về quân sự mà con phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa…Cho nên ta không những kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải kháng chiến toàn diện trên tất cả các mặt. Đồng thời kháng chiến toàn diện còn để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Kháng chiến trường kỳ (nghĩa là đánh lâu dài): Đây là một chủ trương vô cùng sáng suốt của Đảng ta, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất