Khóa luận tốt nghiệp
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
1
GVHD:ThS. Phan Văn An
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
2
GVHD:ThS. Phan Văn An
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Ngày nay xã hội ngày càng phát triển về mọi mặt, yêu cầu của xã hội về con
người ngày càng cao, dẫn đến điều tất yếu là nội dung và phương pháp đào tạo của
ngành giáo dục cũng phải thay đổi. Đổi mới PPDH đáp ứng với nhu cầu người học,
yêu cầu của xu hướng phát triển của lý luận dạy học hiện đại. Vì lẽ trong xã hội hiện
nay khối lượng kiến thức của con người không ngừng tăng lên như vũ bão, các lĩnh
vực hoạt động của con người theo đó cũng thay đổi không ngừng với tốc độ rất cao
nên việc học tập phải trở thành một nhu cầu thường xuyên của mọi cá nhân và có thể
được đáp ứng một cách thường xuyên. Vì vậy PPDH có khuynh hướng tăng cường dần
vai trò chủ động của người học, giảm dần thói quen học tập thụ động trong việc chiếm
lĩnh tri thức và kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của mỗi cá nhân. Để đáp ứng nhu cầu
đó đòi hỏi trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo xem đổi mới phương pháp giáo dục, dạy
học là khâu then chốt và có tính chất quyết định.
Mặt khác, việc đổi mới PPDH tại các trường phổ thông nhìn chung còn chậm làm
hạn chế phát triển tư duy, sáng tạo và bản năng tìm tòi sang chế của học sinh. Rõ ràng
việc đi tìm những PPDH có hiệu quả hơn đã trở thành một trong những nhiệm vụ cấp
bách của nhà trường.
Luật Giáo dục nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quy định:
“Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng
tạo của người học; bồi d ư ỡ n g tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”
(Luật Giáo dục 2005).
Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt
Nam (khoá VIII, 1997) khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào
quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh,
nhất là sinh viên đại học”.
Hiện nay công cuộc đổi mới, cải tiến PPDH đã và đang thực hiện ở tất cả các
trường học trên đất nước Việt Nam với xu hướng chuyển từ mô hình dạy học truyền
thống một chiều sang mô hình dạy học hợp tác hai chiều. Chuyển từ quan điểm PPDH “lấy thầy
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
3
GVHD:ThS. Phan Văn An
làm trung tâm” sang quan điểm PPDH “lấy trò làm trung tâm”.
Cùng với sự đổi mới của ngành giáo dục, trường THPT Kỳ Anh thuộc Huyện
Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh đang từng bước nâng cao chất lượng dạy để tạo ra những
học sinh có nhân cách, đầy đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho sự phát triển
đất nước hiện nay.
Là một cựu học sinh của trường, tôi muốn có cái nhìn khách quan về vấn đề
trên, đánh giá đúng thực trạng mô hình dạy học hợp tác hai chiều của trường
THPT Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh và từ đó đề xuất những giải pháp có thể góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của trường. Xuất phát từ những lý do khách
quan và chủ quan trên, tôi chọn đề tài “ Nghiên cứu mô hình dạy học hợp tác hai
chiều ở trường THPT Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh” để làm khóa luận tốt nghiệp của
mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này tôi muốn nghiên cứu về mô hình dạy học hợp tác hai
chiều ở trường THPT Kỳ Anh – Hà Tĩnh. Mô hình đó thực chất là gì? Và đang được
thực hiện ở trường THPT như thế nào? Kết quả ra sao? Đồng thời phân tích mối liên
hệ chặt chẽ giữa thầy và trò. Bên cạnh đó nghiên cứu đề tài này giúp tôi củng cố và mở
rộng thêm một số kiến thức về phương pháp dạy học phục vụ cho công tác giảng dạy
sau này.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn những vấn đề trong dạy học truyền thống
một chiều, hợp tác hai chiều.
- Tìm hiểu các đặc điểm của mô hình dạy học hợp tác hai chiều và việc vận
dụng mô hình dạy học hợp tác hai chiều để nâng cao tính tích cực trong hoạt động
nhận thức của học sinh.
- Nghiên cứu thực trạng và giải pháp dạy học hợp tác hai chiều ở trường THPT
Kỳ Anh – Hà Tĩnh để nâng cao hiệu quả của bài lên lớp.
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Về lý luận là sự vận dụng mô hình dạy học hợp tác hai
chiều. Về thực tiễn là thực trạng và giải pháp dạy học hợp tác hai chiều ở trường
THPT Kỳ Anh – Hà Tĩnh.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
4
GVHD:ThS. Phan Văn An
- Phạm vi nghiên cứu: Thầy cô, học sinh trường THPT Kỳ Anh – Hà Tĩnh.
V. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này tôi đã vận dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp tìm đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp tìm hiểu lý thuyết, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, thu thập xử lý
thông tin của trường THPT Kỳ Anh về vấn đề dạy học hợp tác hai chiều.
- Phương pháp sơ đồ hóa.
- Phương pháp quan sát, trò chuyện, lấy ý kiến.
- Phương pháp điều tra bằng Anket: Điều tra HS một số lớp để tìm hiểu vấn đề tự
học của học sinh trường THPT Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh. Đối tượng điều tra là 150 học
sinh của ba lớp là 10A5, lớp 11A1 và lớp 12C3 của trường THPT Kỳ Anh.
VI. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng phương pháp dạy học hợp tác hai chiều: Dạy – tự học, là PPDH tích
cực lấy HS làm trung tâm trong giảng dạy của chương trình THPT thì sẽ phát huy
được vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của HS, hoạt động hóa, tích cực hoá hoạt
động nhận thức của người học và phát triển tư duy hệ thống, đồng thời đề cao hơn
vai trò của người thầy. Nếu giải quyết tốt vấn đề dạy học lấy HS làm trung tâm
sẽ nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục, thúc đẩy quá trình học tập của HS
dẫn tới giải quyết tốt vấn đề đầu ra, đáp ứng được nhu cầu cần thiết của xã hội.
VII. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được triển khai 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Sử dụng mô hình dạy học hợp tác hai chiều để nâng cao tính tích cực
trong hoạt động nhận thức của học sinh.
Chương 3: Một số thực trạng và giải pháp dạy học hợp tác hai chiều ở trường
THPT Kỳ Anh – tỉnh Hà Tĩnh để nâng cao hiệu quả bài lên lớp.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
5
GVHD:ThS. Phan Văn An
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những vấn đề trong giảng dạy và học tập truyền thống
1.1.1. Khái niệm hoạt động dạy học truyền thống
Truyền thống là một khái niệm đa nghĩa, rộng và được sử dụng trong nhiều lĩnh
vực, trường hợp khác nhau. Theo nghĩa tổng quát nhất, truyền thống đó là những yếu
tố của di tồn văn hoá, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục tập
quán, thói quen lối sống và cách ứng xử của cộng đồng người được hình thành trong
lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ
lâu dài.
Lịch sử cho thấy rằng truyền thống mang trong bản thân nó tính hai mặt rõ rệt:
Một là: Truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn những gì là quý giá, là cốt cách,
là nền tảng cho sự phát triển, cho sự vận động đi lên của cộng đồng dân tộc. Xét từ
mặt này thì truyền thống mang ý nghĩa giá trị tích cực, là cái góp phần tạo nên sức
mạnh, là chổ dựa không thể thiếu của dân tộc trên đường đi tới tương lai.
Hai là: Truyền thống đồng thời cũng còn là mảnh đất hết sức thuận lợi cho sự
dung dưỡng, duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời khi mà điều kiện và
hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi. Mặt thứ hai này có ảnh hưởng không nhỏ trong việc kìm
hãm, níu kéo, làm chậm sự phát triển của một quốc gia, dân tộc nào đó.
Tóm lại, chúng ta chỉ chấp nhận những gì chúng ta nâng niu. Từ đây, cái được
coi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận thiết yếu của cuộc sống
chúng ta; chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó có khả năng
phát triển cuộc sống của chúng ta.
Theo Từ điển Tiếng Việt truyền thống nghĩa là những cái gì đã có từ lâu đời,
được truyền từ đời này sang đời khác. Về mặt phương pháp dạy học truyền thống cũng
phải là những phương pháp, phương tiện, cách thức giảng dạy đã có từ lâu đời mà các
thế hệ đi trước sử dụng trong ngành giáo dục đào tạo và được lưu truyền cho đến nay.
Dạy học không chỉ là hoạt động của người thầy giúp HS tiếp thu kiến thức mà
trên cơ sở kiến thức được trang bị giúp người học giải quyết được các bài toán thực tế
đặt ra trong cuộc sống. Có nhiều cách “định nghĩa” khác nhau về dạy học, song có thể
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
6
GVHD:ThS. Phan Văn An
hiểu:“Dạy học là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và có định hướng
giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích
chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các giá trị văn hóa mà
nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các bài toán thực
tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học”.
Trong quá trình dạy học, người GV thường tập trung sự cố gắng của mình vào
việc biên soạn nội dung và PPDH.
Trong lý luận dạy học người ta phân làm hai nhóm phương pháp: PPDH đại
cương và PPDH bộ môn.
Phương pháp dạy học truyền thống: PPDH này lấy hoạt động của người thầy là
trung tâm. Theo Frire - nhà xã hội học, nhà giáo dục học nổi tiếng người Braxin đã gọi
PPDH này là "Hệ thống ban phát kiến thức", là quá trình chuyển tải thông tin từ đầu
thầy sang đầu trò. Đó cũng là “dạy học thụ động, lấy việc dạy (thầy) làm trung tâm”.
Giáo án dạy theo phương pháp này được thiết kế kiểu đường thẳng theo hướng từ trên
xuống. Nên nội dung bài dạy theo phương pháp truyền thống có tính hệ thống, tính
logic cao.
* Đặc điểm của PPDH truyền thống
Đây là phương pháp dạy học lấy giáo viên làm trung tâm. Đó là mô hình dạy
học truyền thụ một chiều: Dạy – ghi nhớ, chủ yếu nghiêng về lý thuyết.
Với quan niệm này PPDH truyền thống có một số đặc điểm sau:
Về nội dung:
- Nội dung được quy định bởi một chương trình giảng dạy và tất cả HS học
cùng nội dung ở cùng một thời điểm.
- HS sẽ được quyền sử dụng thông tin trong giới hạn, do GV lựa chọn hoặc thư
viện trường.
- Các chủ đề được học thường không liên quan đến nhau, đến các lĩnh vực chủ
đề và đến thế giới thực.
- HS học thuộc lòng các sự kiện và đôi khi phân tích thông tin một cách độc lập.
- HS làm việc để tìm ra một câu trả lời đúng.
- GV chọn các hoạt động và cung cấp tài liệu ở cấp độ thích hợp.
Về cách dạy học:
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
7
GVHD:ThS. Phan Văn An
- GV là người cung cấp thông tin - là vị thánh trên bục giảng - giúp HS đạt
được kĩ năng và kiến thức.
- HS hoàn thành những hoạt động và bài học ngắn, tách rời nhau dựa trên
những mảng nội dung và kỹ năng cụ thể.
- GV là chuyên gia, chỉ ra những điểm yếu của HS.
- Dạy học là một quá trình truyền đạt thông tin.
Về môi trường học tập:
- HS học một cách thụ động trong một lớp học thường là yên lặng.
- HS thường làm việc riêng lẻ, một cách độc lập, không có sự trao đổi hay hoạt
động theo nhóm nhiều để phát huy hết vai trò trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn
nhau...
Cách đánh giá:
- HS thi bài thi dùng bút và giấy, một cách yên lặng và riêng lẻ. Câu hỏi được
giữ bí mật cho đến giờ thi, để HS sẽ phải học tất cả tài liệu mặc dù chỉ kiểm tra một
phần trong đó.
- GV chịu trách nhiệm chủ yếu cho việc học của HS.
- HS bị kích thích một cách không thực chất bởi mong muốn đạt được điểm tốt,
làm hài lòng GV và giành được phần thưởng.
Công nghệ:
- GV sử dụng nhiều loại công nghệ khác nhau để giải thích, chứng minh và
minh hoạ các chủ đề khác nhau.
Qua bao nhiêu lần cải tiến từ thế kỷ này đến thế kỷ khác trong lịch sử giáo dục
thế giới, mô hình đó bao hàm một số lợi thế hiển nhiên như: Hình như đó là mô hình
PP tiết kiệm nhất, nhanh nhất, có năng suất lí thuyết cao nhất vì truyền đạt được một
khối lượng kiến thức tối đa trong một thời gian tối thiểu. Đó cũng là phương pháp an
toàn nhất và dễ dàng nhất (trong một chừng mực nào đó) đối với nhà giáo, vì có thể
chuẩn bị sẵn sàng trước bài giảng và chủ động thực hiện theo kế hoạch. Song mô hình
dạy học truyền thống một chiều cũng bao hàm nhiều nhược điểm, nhiều nguy cơ: Về
cơ bản, nếu thầy là trung gian cần thiết giữa trò và tri thức, thì thầy có thể xuất hiện
như màn ảnh mà cũng có thể là màn che hay là vật cản giữa tri thức và trò. Vì mô hình
dạy học này lấy năng lực, bản lĩnh của thầy làm cơ sở, những gì thầy làm tương ứng
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
8
GVHD:ThS. Phan Văn An
mật thiết với những gì trò làm, bài giảng của thầy trở thành tri thức tổng thể HS.
“Người ta quan tâm đến thầy dạy gì, thầy dạy như thế nào? Mà ít khi tự hỏi: trò học
như thế nào? Trò có học không? Người ta xác định đầy đủ các điều kiện dạy mà ít chú
ý đến điều kiện học”.7
Mặc dù mô hình dạy học truyền thống này đã bị phê phán hoặc lên án vì trái với
quy luật phát triển xã hội, đi ngược với mục tiêu giáo dục và đào tạo. Song nó vẫn tồn
tại và chiếm ưu thế trong nhà trường Việt Nam ngày nay, trong thói quen thầy truyền
cho trò nối từ thế hệ này đến thế hệ khác lâu đời nhất thế gian này.
1.1.2. Các phương pháp dạy học truyền thống
Phương pháp dạy học truyền thống lấy hoạt động dạy của thầy làm trung tâm,
chủ yếu nghiêng về lí thuyết, quan tâm tới nguồn thông tin mà GV cung cấp cho HS và
được chia thành các nhóm các phương pháp:
- Nhóm PP dùng lời (Trình bày tài liệu bằng lời) có 3 hình thức thường dùng:
Thuyết trình, đàm thoại, kể chuyện.
- Nhóm PP trực quan (Sử dụng các phương tiện trực quan): Bảng đen; tranh ảnh
và các bản vẽ; phim ảnh, đèn chiếu và máy tính điện tử…
- Nhóm PP thực hành (Sử dụng thí nghiệm): Trong PPDH truyền thống các PP
thực hành ít được chú trọng.
1.1.2.1. Nhóm PP dùng lời
Trong dạy học, GV dùng lời nói là “nguồn” cung cấp, chuyển tải, diễn đạt
những nội dung, kiến thức, thông tin cho HS. Lời nói có tác dụng đến việc hình thành
các khái niệm, tác động đến tư duy của HS.
a. Phương pháp thuyết trình
Phương pháp thuyết trình có lẽ là PP giảng dạy phổ biến nhất và quen thuộc
nhất đối với hầu hết các giáo viên, giảng viên. Nhưng đến nay, PP này còn phát huy
tác dụng hay không? Thuyết trình là một PP giảng dạy truyền thống được ví bằng
hình ảnh “rót nước vào bình”: giáo viên là người “rót” những kiến thức cần thiết vào
“chiếc bình” chính là các học sinh, sinh viên. PP truyền đạt này tồn tại từ rất lâu và đã
có nhiều người đặt ra câu hỏi có nên áp dụng phương pháp thuyết trình ở các trường
THPT, cao đẳng, đại học nữa hay không?
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
9
GVHD:ThS. Phan Văn An
Phương pháp thuyết trình là một PPDH trong đó GV dùng lời nói, chữ viết để trình
bày, giảng giải nội dung bài học, còn HS chủ yếu thụ động nghe, nhìn, ghi chép, tái
hiện và ghi nhớ nội dung bài học.
Đặc điểm cơ bản nổi bật của phương pháp thuyết trình là: Thầy thông báo, trò
tái hiện sau khi đã lĩnh hội. Gồm các dạng: trần thuật, diễn giảng, giảng giải.
Có những đánh giá tích cực về phương pháp thuyết trình đã làm cho PP này
được áp dụng rộng rãi trong một thời gian khá dài và cho đến tận ngày nay. Chẳng hạn
như đây là PP tối ưu giúp giáo viên có thể truyền đạt một khối lượng kiến thức lớn
trong một khoảng thời gian ngắn; cho phép GV truyền đạt những nội dung khó, phức
tạp mà HS không thể tự tìm hiểu lấy được hoặc có thể bổ sung một số tư liệu không có
trong SGK nhưng quan trọng…
Ví dụ: Khi dạy những môn mang tính khoa học xã hội nhân văn như văn học,
lịch sử, giáo dục công dân…GV thường sử dụng PP thuyết trình là chủ yếu.
b. Phương pháp đàm thoại
PP này còn được gọi là PP vấn đáp. Phương pháp đàm thoại là phương pháp
trong đó GV đặt ra một hệ thống câu hỏi, HS sẽ trả lời hay trao đổi với GV hoặc tranh
luận giữa các thành viên trong lớp với nhau, qua đó HS sẽ củng cố, ôn tập kiến thức cũ
và tiếp thu được kiến thức mới. Trong hệ thống câu hỏi, ngoài các câu hỏi chính còn
có những câu hỏi phụ để gợi ý khi HS gặp khó khăn.
Người ta thường chia ra hai dạng đàm thoại chính là:
+ Đàm thoại tái hiện (vấn đáp tái hiện): Các câu hỏi, vấn đề do GV đặt ra đòi
hỏi HS nhớ, tái hiện lại kiến thức, kinh nghiệm đã có thì có thể giải quyết được. Loại
này chủ yếu dùng để ôn tập, củng cố kiến thức.
Ví dụ: GV hỏi HS: Hãy so sánh đặc điểm cấu tạo của anken, ankađien. Khi dạy
bài: Luyện tập anken và ankađien (Hóa học lớp 11 cơ bản).
+ Đàm thoại gợi mở hay vấn đáp tìm tòi: Trong vấn đáp tìm tòi GV luôn đóng
vai trò chỉ đạo, điều khiển hoạt động của HS. Hệ thống câu hỏi của GV giữ vai trò chỉ
đạo, định hướng hoạt động nhận thức của HS.
Trong PPDH truyền thống GV thường sử dụng PP vấn đáp tái hiện: GV đặt ra
những câu hỏi chỉ đòi hỏi trò nhớ lại và trả lời trực tiếp, không cần suy luận mà chỉ cần
trí nhớ đơn giản.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
10
GVHD:ThS. Phan Văn An
Ví dụ: Hãy tóm tắt ngắn gọn (15 dòng) tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
c. Phương pháp kể chuyện
Giáo viên có thể thông qua những sự kiện kinh tế - xã hội, những câu chuyện
hoặc tác phẩm văn học, phim ảnh… làm tư liệu để phân tích, minh họa, khái quát và
rút ra nhận xét, kết luận nhằm xây dựng biểu tượng, khắc sâu nội dung kiến thức của
bài học.
Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Nhật kí trong tù” (Hồ Chí Minh – văn học 12). GV
nên kể những câu chuyện về Bác Hồ thời gian ở trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, nếu
có điều kiện thì chiếu các phim ảnh tư liệu về chặng đường hoạt động cách mạng của
Bác Hồ ở Quảng Châu - Trung Quốc.
1.1.2.2. Nhóm phương pháp trực quan
Đối với bài giảng của chương trình THPT phương pháp trực quan được coi là
PP truyền thống. Nhóm PPDH trực quan bao gồm: PP trình bày trực quan; PP làm
mẫu; PP quan sát.
a. Phương pháp trình bày trực quan
Là phương pháp sử dụng các phương tiện dạy học trực quan, các số liệu, tài liệu
khoa học hay thực tế…
Phương tiện dạy học trực quan gồm: Các vật thật, mẫu các chất; Các vật tạo
hình (mô hình, bàn cát, tranh vẽ, dụng cụ...). Các vật tượng trưng (Bản đồ, sơ đồ, đồ
thị,...), Các phương tiện nghe nhìn (máy vi tính, máy chiếu, thiết bị tạo giả âm
thanh...).
Ví dụ: Khi dạy những bài khái quát về vị trí địa lí, đặc điểm địa hình, khí hậu,
sông ngòi…GV sử dụng quả địa cầu, bản đồ…để chuyển tải kiến thức cho HS.
b. Phương pháp làm mẫu
Phương pháp làm mẫu hay là PP minh họa, dùng động tác mẫu, biểu diễn để tạo
ra hình ảnh trực quan và biểu tượng cụ thể về đối tượng học tập. GV là người vừa biểu
diễn vừa dùng lời nói hướng dẫn HS quan sát.
Ví dụ: Khi dạy các bài thực hành như dạy HS tháo lắp súng AK, ngắm
bắn…hay điều chế khí Oxi trong phòng thí nghiệm…, GV thường làm mẫu trước và
hướng dẫn HS quan sát rồi HS thực hiện theo cách thức đó và lĩnh hội kiến thức.
c. Phương pháp quan sát
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
11
GVHD:ThS. Phan Văn An
Phương pháp quan sát là cách thức tổ chức cho HS dùng các giác quan hay các
phương tiện để tri giác các sự vật hiện tượng, các tài liệu học tập trong những điều
kiện tự nhiên của chúng. (ví dụ: quan sát hiện tượng phản ứng hóa học thông qua thí
nghiệm...)
Nhận xét:
- Ưu điểm của nhóm PP trực quan: Huy động được nhiều giác quan cùng tri
giác thông qua vật thật và tranh vẽ; kích thích và duy trì được sự chú ý của HS, dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ liên hệ thực tiễn. Nên kết hợp PPDH trực quan với các PP khác và
trình bày các phương tiện trực quan đúng lúc, đúng chỗ, đúng nội dung sẽ tạo ấn tượng
và tập trung chú ý của HS. Đồ dùng trực quan phải đảm bảo tính giáo dục, thẩm mỹ,
vệ sinh, an toàn.
- Nhược điểm của nhóm PP trực quan: Dễ phân tán chú ý, dễ sa vào những chi
tiết không quan trọng. Khó phát triển tư duy trừu tượng, khó thấy được mối liên hệ bản
chất của sự vật hiện tượng.
1.1.3. Vai trò tích cực hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình học tập
theo phương pháp truyền thống
Theo PPDH truyền thống thì việc dạy được xem có ý nghĩa quyết định, thầy là
người quyết định sự phát triển của trò. Thầy giáo là chủ thể, trung tâm, người thầy độc
tôn tri thức, học trò chỉ được quyền nghe chứ không dám thắc mắc, thảo luận, hỏi lại,
“Thầy truyền thụ, trò tiếp thu”, không có giao lưu, đối thoại, quan hệ thầy trò mất dân
chủ, thiếu khả năng đào tạo một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo.
Với cách dạy học lấy thầy làm trung tâm có thể rất hiệu quả, đặc biệt với:
- Việc chia sẻ thông tin không dễ dàng tìm thấy ở PP khác.
- Việc trình bày thông tin một cách nhanh chóng.
- Việc tạo ra sự quan tâm vào thông tin.
- Việc dạy những HS học tốt nhất bằng cách nghe.
Tuy vậy phương pháp dạy học này cũng có một số hạn chế như:
- Không phải HS nào cũng học tốt bằng cách nghe.
- Thường khó duy trì lâu sự chú ý của HS.
- PP này có khuynh hướng ít hoặc không đòi hỏi tư duy phê phán.
- PP này dựa trên giả định là tất cả HS đều có một phong cách học giống nhau.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
12
GVHD:ThS. Phan Văn An
- Hạn hẹp trong sự tiếp thu thông tin, chưa phát huy hết năng lực vốn có của
HS.
Theo mô hình dạy học lấy việc dạy (thầy) làm trung tâm, người thầy tạo ra nội
dung sản phẩm dưới hình thức bài giảng được chuẩn bị trước theo đúng chương trình,
SGK, trình độ HS, và một trình tự nhất định như năm bước lên lớp. Đông thời thầy là
người tổ chức, quản lý, vận hành, điều chỉnh hoạt động của HS trong lớp. Còn HS phải
có khả năng nghe, nhìn, ghi chép, lặp lại lời thầy... Việc lạm dụng cách dạy một chiều,
chỉ có đọc - chép đúng là một tiêu cực nhất định phải loại trừ. Song bản thân việc đọc chép vẫn chưa được một cái nhìn sòng phẳng. Đọc - chép là một thao tác dạy học tất
yếu trong quá trình tác nghiệp sự phạm. Bản thân PP này không có gì tiêu cực nếu biết
dùng nó đúng lúc. Chúng ta chỉ bài trừ tình trạng lạm dụng thái quá chứ không thể đối
lập nó với nguyên lý giáo dục mới, không nên xem nó là cách dạy truyền thống sai lầm
mà cực đoan không dùng đến nữa.
1.2. Những vấn đề trong giảng dạy và học tập hợp tác hai chiều
1.2.1. Khái niệm hoạt động dạy học hợp tác hai chiều
Giảng dạy là một nghệ thuật hợp tác thì tiến trình học sẽ chắc chắn hơn, bớt
nhọc nhằn hơn nếu được người thầy giúp đỡ. Sự hướng dẫn có PP của thầy cô giúp
cho việc học của ta - nhấn mạnh là của ta và do ta, dễ dàng và có hiệu quả hơn.
Như vậy mô hình dạy học hợp tác hai chiều: Dạy – tự học là một hệ thống toàn
vẹn gồm ba thành tố cơ bản: Thầy (dạy), trò (tự học), tri thức. Ba thành tố này luôn
luôn tương tác với nhau thâm nhập vào nhau, quy định lẫn nhau theo những quy luật
riêng và nhằm kết hợp chu trình dạy với chu trình tự học làm cho dạy và tự học cộng
hưởng với nhau tạo ra chất lượng, hiệu quả cao. Thực chất là thầy – trò cùng nhau làm
việc, cùng nhau tìm kiếm tri thức trong mối quan hệ thống nhất, hỗ trợ, bổ sung nhau
để cùng phát triển và cùng đạt mục đích dạy học. Một nhiệm vụ mang tính cộng tác là
nhiệm vụ mà người học không thể giải quyết một mình mà cần thiết phải có sự cộng
tác thực sự giữa thầy cô và các thành viên trong nhóm tuy nhiên vẫn phải đảm bảo
tính độc lập giữa các thành viên. Hơn nữa, người dạy cần phải có yêu cầu rõ ràng và
tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác giữa người học. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ
“hợp tác” nhằm nhấn mạnh đến công việc mà người học tiến hành trong suốt quá trình
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
13
GVHD:ThS. Phan Văn An
thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình hợp tác, công việc thường được phân công ngay từ
đầu cho mỗi thành viên.
Trò - chủ thể
Thầy - tác nhân
Tri thức
(1) Hướng dẫn
Tự nghiên cứu
Tri thức cá nhân
(2) Tổ chức
Tự thể hiện
Tri thức xã hội
(3) Trọng tài, cố vấn
Tự kiểm tra
Tri thức khoa học
Tự điều chỉnh
Tri thức khoa học
Kết luận, kiểm tra
Trong các giờ học nghiên cứu bài mới, luyện tập, ôn tập củng cố kiến thức GV là
người nêu yêu cầu của tiết học, vạch rõ nội dung của bài học cần đạt được, GV hướng
dẫn HS tự nghiên cứu, suy nghĩ và trả lời, tổ chức cho HS trong lớp cùng trao đổi kiến
thức, đánh giá lẫn nhau; sau đó GV là người trọng tài, cố vấn cho quá trình trao đổi đó,
GV kiểm tra và kết luận kết quả cuối cùng cho HS lĩnh hội kiến thức. (Ví dụ: GV hỏi
HS: Có hiện tượng gì xảy ra khi cho Ca vào dung dịch NaOH. Từng HS sẽ tự động tìm
câu trả lời, sau đó tự thể hiện kết quả trước GV và cả lớp. HS trong lớp nhận xét kết
quả đó, nếu thiếu sót thì HS khác bổ sung. Sau đó GV chốt lại kết quả cuối cùng, HS
tự kiểm tra, tự điều chỉnh và lĩnh hội kiến thức bài học.)
1.2.2. Quan điểm phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”
Trong lí luận dạy học có hai quan điểm về vai trò của GV và HS. Quan điểm
thứ nhất tập trung vào vai trò của GV (dạy học lấy GV làm trung tâm) và quan điểm
thứ hai tập trung vào vai trò của HS (dạy học lấy HS làm trung tâm). Ngày nay, quan
điểm hướng đến biện pháp giải phóng người học, cải thiện mối quan hệ thầy trò được
nhiều người quan tâm, đó là vấn đề dạy học “lấy học sinh làm trung tâm”. Nội dung
của tư tưởng này gồm các vấn đề sau:
- Chú ý đến người học về các mặt trình độ kiến thức, đặc điểm và khả năng
nhận thức.
- Kích thích hứng thú học tập của HS.
- Phát huy tối đa năng lực độc lập suy nghĩ, tìm tòi, khả năng nhận thức độc lập
của HS.
- Tăng cường các biện pháp cá nhân hóa hoạt động học tập của người học.
- Tìm mọi biện pháp nhằm phát huy sức mạnh ý chí của HS trong học tập.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
14
GVHD:ThS. Phan Văn An
- Chú trọng công tác kiểm tra đánh giá, thường xuyên kiểm tra đánh giá đối với
từng cá nhân người học.
Ta có thể so sánh hai quan điểm đã trình bày ở trên theo bảng sau:
Bảng 1.1
DH lấy GV làm trung tâm
DH lấy HS làm trung tâm
Truyền đạt hết kiến thức qui Chú trọng chuẩn bị cho HS sớm
Mục tiêu
định trong chương trình – thích ứng với xã hội, góp phần phát
SGK. Ít chú ý đến nhu cầu và triển cộng đồng, chú ý đến nhu cầu
khả năng HS.
và khả năng HS.
Thiết kế chủ yếu theo logic Chú trọng năng lực phát hiện và giải
Nội dung
môn học, chú trọng hệ thống quyết vấn đề, kĩ năng thực hành và
kiến thức, phát triển lí thuyết vận dụng kiến thức lí thuyết.
tuần tự.
Phương pháp
Thuyết trình, giảng giải.
GV là người chỉ đạo hướng dẫn HS
Thầy nói, trò ghi chép.
xây dựng bài học.
HS tiếp thu thụ động.
Chú trọng PP tự học của HS.
Làm việc theo lớp.
Phát huy tính tìm tòi độc lập.
Giáo án được thiết kế theo Học tập theo nhóm, thảo luận nhóm,
đường thẳng.
thực hành, thí nghiệm, thâm nhập
Ít sử dụng phương pháp nêu thực tế.
vấn đề.
Giáo án được thiết kế phân nhánh.
Chú trọng phương pháp nêu vấn đề.
PPDH tích cực lấy người học làm trung tâm còn gọi là hệ PP dạy - tự học, được
xem như là một hệ thống PPDH có thể đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của mục tiêu
giáo dục trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Như vậy quan niệm về dạy học phát triển dần từ chỗ “lấy người dạy” làm trung
tâm của các hoạt động dạy và học sang “lấy người học làm trung tâm”. Trong ý nghĩa
mới nhất của quan niệm dạy học đó thì:
“Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể
hiện và tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị con người mình bằng cách thu nhận
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
15
GVHD:ThS. Phan Văn An
và xử lí thông tin lấy từ môi trường sống chung quanh mình ”.Và dạy chính là: “Dạy
cách học”.5
1/ Về mục tiêu dạy học
Xem việc học, năng lực tự học là nhân tố quyết định sự phát triển bản thân
người học. Trò là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lí, bằng hành
động của chính mình, tự phát triển từ bên trong. Thầy là tác nhân, hướng dẫn, tổ chức,
đạo diễn cho trò tự học. Đó chính là “mô hình dạy học tích cực lấy người học làm
trung tâm”, gọi tắt theo đúng thực chất của nó là: Mô hình dạy – tự học. Thực hiện mô
hình dạy học này với các mục tiêu dạy học giáo dục cho HS như sau:
- Mục tiêu nhận thức: Giúp người học nắm vững kiến thức hơn (vì được tự
khám phá và trao đổi với nhiều người).
- Mục tiêu kỹ năng: Giúp người học rèn luyện các kỹ năng tư duy (phân tích,
suy luận, tổng hợp, đánh giá, giải quyết vấn đề…) và kỹ năng xã hội (giao tiếp, trình
bày, tranh luận, lắng nghe, hợp tác, lãnh đạo…)
- Mục tiêu thái độ: Giúp người học yêu thích môn học hơn, gắn bó với bạn bè
hơn, có ý thức với tập thể hơn, biết dân chủ hơn.
2/ Về nội dung dạy học
- HS học các chủ đề dựa trên chương trình giảng dạy và chuẩn hoá kiến thức,
kỹ năng nhưng được phép có nhiều lựa chọn trong một chủ đề học.
- HS được quyền sử dụng không hạn chế thông tin có các cấp độ chất lượng đa
dạng.
- HS học nội dung có liên quan đến tất cả các chủ đề và đến thế giới thật.
- HS thường xuyên tham gia vào việc phân tích, đánh giá và tổng hợp ở mức độ
cao đủ loại tài liệu khác nhau.
- HS làm việc để xây dựng bất cứ câu trả lời nào trong số những câu trả lời có
thể.
- HS lựa chọn từ các hoạt động khác nhau do giáo viên cung cấp và thường
quyết định cấp độ thử thách cho riêng họ làm việc.
3/ Về phương pháp dạy học
Người ta coi trọng việc tổ chức cho HS hoạt động độc lập hoặc theo nhóm (thảo
luận, làm thí nghiệm, quan sát vật mẫu, phân tích bảng số liệu…), thông qua đó HS
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
16
GVHD:ThS. Phan Văn An
vừa tự lực nắm các tri thức, kĩ năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương pháp tự
học, được tập dượt phương pháp nghiên cứu. GV quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và
kinh nghiệm của từng cá nhân và của tập thể HS để xây dựng bài học, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự bộc lộ và phát triển tiềm năng của mỗi em.
- GV là người hướng dẫn bên cạnh cung cấp cơ hội cho HS áp dụng các kỹ
năng và xây dựng kiến thức cho riêng mình.
- HS là chủ thể và GV dựa vào những điểm mạnh của HS.
- Dạy học là một quá trình tự kiến tạo.
- HS thực hiện các hoạt động và các dự án liên quan đến những mục tiêu lâu dài
nhằm xây dựng sự hiểu biết khái niệm sâu sắc và việc sử dụng phương pháp thành
thạo.
4/ Về hình thức tổ chức dạy học
Thường dùng bàn ghế cá nhân, có thể bố trí thay đổi linh hoạt cho phù hợp với
hoạt động học tập trong tiết học, thậm chí theo yêu cầu sư phạm của từng phần trong
tiết học. Nhiều bài học được tiến hành trong phòng thí nghiệm, ngoài trời, tại Viện bảo
tàng hay cơ sở sản xuất…
Môi trường lớp học:
- Môi trường lớp học giống một nơi làm việc năng động với nhiều loại hoạt
động và mức độ ồn ào khác nhau.
- HS thường cộng tác với bạn học, chuyên gia, các thành viên cộng đồng và
GV.
Công nghệ:
- HS sử dụng các loại công nghệ khác nhau để làm nghiên cứu, trao đổi thông
tin và tạo ra kiến thức.
5/ Về kiểm tra – đánh giá
Khâu kiểm tra - đánh giá chất lượng, hiệu quả dạy học có tác dụng quan trọng
đến việc điều chỉnh cách dạy, cách học, đảm bảo thực hiện nội dung và mục tiêu đã
quy định. HS tự giác chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình, được tham gia tự
đánh giá và tự đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt các mục tiêu của từng phần trong
chương trình học tập, chú trọng bổ khuyết những mặt chưa đạt được so với mục tiêu
trước khi bước vào một phần mới của chương trình. GV phải hướng dẫn cho HS phát
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
17
GVHD:ThS. Phan Văn An
triển kĩ năng tự đánh giá, không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp lại kĩ
năng đã học mà phải khuyến khích óc sáng tạo, phát hiện sự chuyển biến thái độ và xu
hướng hành vi của HS trước những vấn đề của đời sống gia đình và cộng đồng, rèn
luyện khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong tình huống thực
tế. Việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật sẽ tạo điều kiện tăng nhịp độ kiểm tra, giúp
HS có thể thường xuyên tự kiểm tra, làm giảm nhẹ lao động chấm bài của GV.
- HS biết rõ họ sẽ được đánh giá như thế nào, hiểu được các tiêu chí theo đó họ
sẽ được đánh giá, nhận ý kiến phản hồi từ GV và bạn học của họ trong suốt bài học và
có nhiều cơ hội để đánh giá cách học của riêng mình. Khuyến khích HS tự đánh giá,
đánh giá lẫn nhau.
- GV và HS chia sẻ trách nhiệm đối với thành tích học tập đạt được.
- Sự quan tâm và đam mê của HS thúc đẩy sự kích thích và nỗ lực có giá trị bản
chất.
Ví dụ: Trong các giờ học, giờ sinh hoạt lớp, giờ ngoại khóa cho HS kiểm tra,
nhận xét, đánh giá lẫn nhau về cách thức trình bày, lập luận, lí lẽ giải thích, kết quả của
các bài tập nhóm hay bài tập cá nhân…mà GV đã giao nhiệm vụ. Sau đó GV chốt lại
kết quả, đánh giá đúng thực chất.
1.2.3. Các phương pháp dạy học hợp tác hai chiều
1.2.3.1. Dạy cách học
“Trong nhà trường điều chủ yếu không phải là nhồi nhét cho học trò một mớ kiến
thức hỗn độn… mà là giáo dục cho học trò phương pháp suy nghĩ, phương pháp
nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề” (Phạm Văn Đồng,
1969); “Giáo dục của dân, vì dân và do dân”, “Biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục”, “Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học”3. Vì vậy thầy
giáo phải là thầy dạy việc học, là chuyên gia của việc học, dạy cho HS cách học.
Ngày nay (Thế kỷ 21) dạy cách học đã trở thành một trong những mục tiêu đào
tạo chứ không còn là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả đào
tạo. Việc đổi mới PPDH là dạy HS cách tự học, tự nghiên cứu, cụ thể là:
- Dạy cách lập kế hoạch học tập
+ Dạy cách lập kế hoạch phấn đấu: kế hoạch phải thể hiện được mục tiêu phấn
đấu; phân biệt được việc chính với việc phụ, việc làm ngay với việc sẽ phải làm.
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
18
GVHD:ThS. Phan Văn An
+ Dạy cách lập kế hoạch sử dụng thời gian: Có kế hoạch phân bổ thời gian cụ
thể từng tuần, ngày dựa trên kế hoạch học tập của kỳ, năm học để làm chủ được quỹ
thời gian và không quên các việc sẽ phải làm…
- Dạy cách nghe giảng và ghi bài trên lớp
+ Dạy nguyên tắc chính của nghe – ghi: Nghe ghi đầy đủ, tỷ mĩ; kết hợp đồng
thời thính giác, thị giác và tri giác, nhờ đó hiểu và tái hiện thông tin – tri thức một cách
dễ dàng và sâu sắc nhất.
+ Dạy thủ thuật nghe – ghi: Tùy theo đặc điểm của từng môn học, dạy cách viết
tắt, viết ghạch chân, viết công thức… để nhấn mạnh và dễ nhớ.
- Dạy cách học bài
+ Dạy cách tự học: Học theo các bậc nhận thức cao của Blom (học: vận dụng,
phân tích, tổng hợp, bình luận đánh giá); học tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy
sáng tạo trong mối quan hệ hệ thống của các kiến thức. Khi nghiên cứu một vấn đề cần
đặt ra những câu hỏi xoay quanh chủ đề: Các khái niệm cơ bản, các hệ quả của khái
niệm…
+ Dạy cách học nhóm: Học cách giao tiếp, học cách trình bày diễn giải bằng
lời, học cách thuyết phục người khác, học cách quản lí và tổ chức tự học một nhóm
nhỏ học tập đến một hội thảo, học cách tham khảo trí tuệ của bạn học…
- Dạy cách đọc sách
+ Dạy cách chọn sách đọc: Chọn sách phù hợp với mục tiêu môn học, chọn
sách phù hợp với trình độ người học, chọn sách để đào sâu, học rộng…
+ Dạy cách đọc sách và ghi chép: Khi đọc sách cần biết chọn lọc và lưu giữ
thông tin liên quan đến bài giảng để bổ sung bài giảng và để tự học nâng cao tri thức,
năng lực…
- Dạy cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề: Chọn vấn đề, nghiên cứu vấn đề
(thu thập tư liệu, phân tích, tổng hợp, bình luận đánh giá…), giải quyết vấn đề (PP giải
quyết, các bước triển khai, kiểm tra đánh giá kết quả giải quyết vấn đề).
Khi dạy cách học cũng như cách tự học người dạy cần chú ý các điểm sau:
Học: Cốt lõi là tự học. Người học tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức, tự tìm ra
ý nghĩa, tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử lí thông
tin từ môi trường sống xung quanh mình. Người học giỏi là người biết tự học sáng tạo
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
19
GVHD:ThS. Phan Văn An
suốt đời. Song tự học, không có nghĩa là học một mình, đơn thân độc mã, mà học
trong sự hợp tác với các bạn, trong môi trường xã hội, dưới sự hướng dẫn của thầy để
tự mình chiếm lĩnh tri thức bằng hành động của chính mình.
Bác Hồ - tấm gương sáng về tự học – đã dạy: “Về cách học, phải lấy tự học làm
cốt”.
Hỏi: Học phải hỏi thì mới hiểu, hỏi để học. Hỏi có thể là tự hỏi hoặc hỏi
người khác. Những vấn đề quan trọng mà bạn cần phải học thường chính là câu trả lời
cho những câu hỏi. Câu hỏi nên tập trung vào nội dung học (Cái gì, tại sao, bằng cách
nào, người nào, khi nào và ở đâu). Trong quá trình đọc hay học, bạn nên tự đặt cho
mình nhiều câu hỏi và sau đó tự trả lời. Làm như vậy bạn sẽ tiếp thu tài liệu hơn và
nhớ các chi tiết dễ dàng hơn, vì quá trình này sẽ để lại một dấu ân sâu sắc hơn trong ký
ức của bạn. Đừng ngại ghi lại những câu hỏi lên lề sách, tập chép hay bất cứ nơi nào
bạn cảm thấy thuận tiện.
Hiểu: Là có thể hồi ức hay tái xây dựng đa dạng một thông tin. Hiểu là phải
diễn tả, giải thích (cắt nghĩa, làm sáng tỏ hay chứng minh), suy luận, trừu tượng hóa
nội dung, kiến thức bằng “ngôn ngữ” khác của chính người học. Đã học thì phải hiểu.
Không hiểu thì coi là chưa học.
Hành: Tức là vận dụng kiến thức, nguyên lí hay lí thuyết mà người học thu
nhận được vào thực tiễn. Mức độ vận dụng cũng từ thấp tới cao, từ ứng dụng một cách
máy móc đến sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn, từ giải quyết những vấn đề, bài
toán tương tự gần gũi tới việc giải quyết những vấn đề phức tạp và những bài toán hóc
búa, từ vận dụng để giải quyết những vấn đề mang tính kiến thức đơn lẽ sang giải
quyết các vấn đề phức hợp liên quan.
Đã hiểu thì phải hành. Hành là mục đích của học. Người ta thường nói “học
hành” nghĩa là học đi đôi với hành, học để hành và hành để học. Ví dụ: Muốn giỏi toán
thì phải làm nhiều bài tập, cùng một công thức hay một định lí có thể áp dụng để giải
nhiều dạng toán khác nhau… Đối với các môn khoa học xã hội, muốn thành công cũng
phải thường xuyên vận dụng thì kiến thức mới nhuần nhuyễn được. Đòi hỏi người tự
học cần luôn đặt ra những câu hỏi và làm đề cương trả lời các câu hỏi khó, kể cả câu
hỏi trong sách, câu hỏi do mình hay bạn mình đặt ra. Luôn có ý thức tìm thêm các ví
dụ minh họa, sưu tầm các tài liệu liên quan, chịu khó đọc và tóm tắt các tác phẩm, bài
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
Khóa luận tốt nghiệp
20
GVHD:ThS. Phan Văn An
báo, tiểu luận có liên quan; Tập diễn đạt, trình bày (viết, nói) về các chủ điểm… Đối
với các môn khoa học thực nghiệm không những học lí thuyết suông mà cần coi trọng
các thí nghiệm thực hành; Làm hay thao tác quan sát một thí nghiệm cũng đã quan
trọng, song điều quan trọng hơn là thấy được ý nghĩa của ứng dụng đó, nó soi sáng
được điều gì trong lí thuyết và nó có gợi mở cho ta thêm những ứng dụng vào môn học
khác hay vào trong thực tiễn đời sống và nghiệp vụ của mình hay không.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy.
Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng GV
chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp dụng PPDH tích cực nhưng
không thành công vì HS chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy,
GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho HS phương pháp
học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới PPDH phải có sự
hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học
thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt
với "Dạy và học thụ động".
1.2.3.2. Các phương pháp tích cực
a. Tính tích cực
Tính tích cực (TTC) là phẩm chất quan trọng của nhân cách, thể hiện ở sự nổ
lực cố gắng của cá nhân, được kích thích bởi động cơ và nhu cầu nhất định trong quá
trình tác động đến đối tượng nhằm đạt được những kết quả cao trong hoạt động. TTC
là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại và phát triển con người luôn
phải chủ động, tìm tòi, khám phá, tích cực cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội.
Tuy vậy TTC có mặt tự phát và tự giác. Theo Thái Duy Tuyên, mặt tự phát của TTC là
những yếu tố tiềm ẩn bên trong, bẩm sinh, thể hiện ở tính tò mò, hiếu kì, linh hoạt
trong đời sống hàng ngày. Mặt tự giác của TTC là trạng thái tâm lí TTC có mục đích
và đối tượng rõ rệt, do đó có hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. TTC tự giác thể
hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học… Nhờ TTC tự giác,
có ý thức, con người có thể đạt được nhiều tiến bộ trong đời sống và phát triể n nhanh
hơn so với TTC tự phát. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là một trong
SVTH: Nguyễn Thị Ngọc Khánh
Lớp: 08SHH
- Xem thêm -