1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL) là loại ung thư (UT) đứng đầu trong
các bệnh hệ tiết niệu và là một trong những loại UT thường gặp nhất ở đàn
ông trên 65 tuổi, thậm chí ở một số nơi nó vượt xa UT phổi hoặc đang dần
dần chiếm vị trí hàng đầu [2], [8], [9], [69],[76],[89]. Tỷ lệ mắc bệnh rất khác
nhau ở từng vùng địa lý, từng chủng tộc, tuổi, thói quen sống, điều kiện môi
trường. Ở Mỹ, năm 1983-1984 tỷ lệ mắc chung là 75,3/100.000 nam giới, tỷ
lệ tử vong là 22,7/100.000 [65]. Ở Pháp tỷ lệ mắc chung năm 1995 là
97,2/100.000 nam giới và tỷ lệ tử vong 33,8/100.000, đến năm 2000 các tỷ lệ
tương ứng đó là 141,4/100.00 và 35,1/100.000 [84]. Tại Mỹ, năm 1999, số
cas mới mắc 179.300, tử vong do UTTTL là 37.000 cas, chỉ đứng hàng thứ
hai sau UT phổi [83].
Ở Việt nam, theo tỷ lệ 10 loại UT thường gặp được ghi nhận trên hai
quần thể nam giới tại Tp.HCM và HN năm 1998, UTTTL là một trong mười
UT chiếm tỷ lệ cao nhất, tại Tp.HCM đứng hàng thứ 5, tại HN đứng hàng thứ
9 [8]. Tuy tỷ lệ UTTTL ở nước ta thấp hơn nhiều so với các nước phát triển,
nhưng hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội thì tỷ lệ
UTTTL ở Việt Nam cũng có chiều hướng gia tăng, ở giai đoạn 1995 – 1996 là
1,3 – 1,5/100.000 nam giới, nhưng đến giai đoạn 2002, tỷ lệ này là 2,3 –
2,5/100.000 [1],[2].
Việc chẩn đoán UTTTL dựa vào thăm trực tràng, xét nghiệm PSA
huyết thanh, siêu âm tuyến tiền liệt (TTL) và quan trọng nhất là sinh thiết
TTL làm mô bênh học [9]. Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức đã áp dụng phương
pháp sinh thiết TTL dưới hướng dẫn của siêu âm qua trực tràng từ năm 2007,
tuy nhiên việc sinh thiết mới được tiến hành trên những ca nghi ngờ sau khi
đã thăm trực tràng và định lượng PSA huyết thanh [9]. Việc chẩn đoán qua
các mảnh sinh thiết kim không những cho phép xác định được bệnh mà còn
giúp đánh giá giai đoạn, độ mô học và áp dụng nhuộm hóa mô miễn dịch
2
(HMMD) trên các mảnh sinh thiết này để chẩn đoán một số trường hợp khó,
hay xác định mức độ bộc lộ của các dấu ấn miễn dịch.
Có nhiều bảng phân loại mô học UTTTL như: bảng phân loại của tổ
choc y tế thế giới (WHO) dựa trên mức độ biệt hóa (biệt hóa rõ, vừa, kém),
bảng phân loại của Gaeta, của Helpap, hệ thống phân loại Gleason. Nhưng
nhìn chung hiện nay bảng phân loại Gleason do bác sỹ Gleason đề xuất được
ưa chuộng và áp dụng rộng rải nhất trên thế giới. Điểm Gleason là một trong
những yếu tố dự báo quan trọng nhất cho UTTTL, tốt hơn so với các bảng
phân loại khác [20],[33],[35].
Trong những năm gần đây, người ta quan tâm nhiều đến UTTTL vì tiên
lượng bệnh và kết quả điều trị liên quan chặt chẽ với giai đoạn lâm sàng và độ
mô học của khối u [17], [36], [45], [55], [62], [65], [70], [72], do có mối
tương quan tỷ lệ thuận giữa hai yếu tố này. Mặt khác, UTTTL là một UT phụ
thuộc nội tiết, phương pháp điều trị nội tiết với các thuốc kháng Androgen
thay thế dần cho phương pháp mổ cắt tinh hoàn và cắt TTL toàn bộ khi ở giai
đoạn muộn, đòi hỏi giải phẫu bệnh có nghiên cứu để chẩn đoán chính xác
UTTTL trên các mảnh sinh thiết trước mổ. Ngoài ra, do ý thức của cộng đồng
ngày càng cao về bệnh nên càng có nhiều mẫu bệnh phẩm tuyến tiền liệt cần
được đánh giá về mô bệnh học.
Ở khu vực các tỉnh miền Bắc hiện nay chưa có công trình nghiên cứu
nào về mô bệnh học và tỷ lệ bộc lộ của một số dấu ấn miễn dịch trên các
mảnh sinh thiết kim ung thư biểu mô (UTBM) TTL qua trực tràng. Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu này với các mục tiêu:
1. Nghiên cứu mô bệnh học UTBMTTL qua mảnh sinh thiết kim.
2. Xác định tỷ lệ bộc lộ các dấu ấn miễn dịch PSA, Her-2/neu và mối
liên quan của chúng với điểm Gleason.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Bào thai học, giải phẫu học và mô học TTL
1.1.1. Sơ lược phôi thai học tuyến tiền liệt
TTL có nguồn gốc từ xoang niệu dục, được hình thành và phát triển từ
tuần thứ 12 của thai kỳ dưới sự ảnh hưởng của nội tiết tố ( NTT) androgen do
tinh hoàn của thai nhi sản xuất. Những ống TTL đầu tiên bắt nguồn từ chồi
biểu mô thuộc nội bì xoang niệu dục. Các chồi biểu mô này phối hợp với
trung mô nguyên thuỷ biệt hoá thành các sợi xơ-cơ để hình thành nên mô đệm
của TTL. Các tuyến nằm gần ụ núi thường ngắn và có cấu trúc khá đơn giản,
trong khi các tuyến ở xa có kích thước dài hơn và hình dạng phức tạp hơn.
Sau đó, các tuyến ở xa ụ núi lại chia nhánh vào vùng sau bên của tuyến và
hiện tượng này cứ tiếp tục tới tận cùng là các đơn vị nang tuyến. Trong khi
các tuyến của vùng ngoại vi và vùng chuyển tiếp đều có nguồn gốc nội bì
xoang niệu dục thì các tuyến của vùng trung tâm lại chưa có nguồn gốc rõ
ràng. Một số nghiên cứu về giải phẫu so sánh cho rằng vùng trung tâm tương
ứng với các tuyến sinh dục phụ ở loài động vật linh trưởng và động vật bậc
cao khác. Các tuyến phụ này liên quan rất mật thiết với cấu trúc của ống
Wolff như túi tinh, mào tinh, ống dẫn tinh, bóng tinh và ống phóng tinh về
một số đặc điểm hình thái học, hoá sinh cũng như hoá mô đã gợi ý nguồn gốc
của vùng trung tâm là từ ống Wolff [28], [35],[83].
Nhận định này rất quan trọng bởi vì “vùng trong” – vùng trung tâm
(gồm nhóm tuyến niêm mạc và dưới niêm mạc) thường phát sinh quá sản lành
tính (QSLT) TTL, còn “vùng ngoài” có “nhóm tuyến ngoài” là nguồn gốc của
UTTTL [23], [32],[38],[63],[79],[80].
4
1.1.2. Giải phẫu học TTL
1.1.2.1. Vị trí, liên quan và hình thể ngoài
TTL nằm trên hoành chậu hông, sau xương mu, trước trực tràng, giữa
hai cơ nâng hậu môn, dưới bàng quang và bọc quanh niệu đạo sau. TTL có
hình nón, đáy ở trên, đỉnh ở dưới, mặt sau và hai mặt dưới bên (dưới bên phải
và dưới bên trái). Kích thước ngang của phần đáy là 4cm, kích thước dọc là
3cm và kích thước trước sau khoảng 2cm. Trọng lượng TTL của người trẻ
vào khoảng 15-25g, ở người già tuyến có thể to lên gấp bội, thường phát triển
to ra ở phần sau gây bí tiểu [11], [67].
Bàng quang
Trực tràng
Tuyến tiền liệt
Hình 1.1: Liên quan của TTL với các cơ quan xung quanh
1.1.2.2. Các mô hình giải phẫu
Về phương diện giải phẫu, TTL được chia làm ba thùy là thùy phải và
thùy trái được ngăn cách nhau bởi một rãnh ở mặt sau, thùy thứ ba được gọi
là eo TTL hay thùy giữa, eo TTL nằm giữa niệu đạo và ống phóng tinh [11].
Về phương diện thực hành, từ những năm đầu của thập kỷ 20 đã có
nhiều cách phân chia thùy của TTL. Năm 1912, Lowsley chia TTL thành 5
thùy ( thùy giữa, 2 thùy bên, thùy sau và thùy trước) và ông nhận thấy hầu hết
5
UT là ở thùy sau. Tissell và Salander chia thành 6 thùy (2 thùy lưng, 2 thùy
bên, 2 thùy giữa) [68].
Trên thực tế, TTL ở người lớn không rõ cấu trúc thuỳ và việc phân chia
thuỳ cũng ít được ứng dụng trong bệnh học TTL đương thời. Sau này, Franks
đã gợi ý TTL gồm các nhóm tuyến sắp xếp theo cấu trúc đồng tâm [83].
“Vùng trong” gồm các tuyến niêm mạc và dưới niêm mạc (nhóm tuyến trong)
có nguồn gốc nội bì xoang niệu dục cùng một số cấu trúc trung thận hoặc cận
trung thận. “Vùng trong” là vùng nhạy cảm với estrogen và đồng thời là vùng
của quá sản nốt. “Vùng ngoài” (nhóm tuyến ngoài) tương ứng với hai thuỳ
bên có nguồn gốc nội bì xoang niệu dục và là nơi phát triển của hầu hết các
UTTTL [23],[39],[79].
Năm 1981, McNeal đưa ra cách chia TTL mới và đã thay thế những
cách chia cũ. Điểm mấu chốt của cách chia này là vị trí niệu đạo TTL gập góc
35 độ, chia đoạn này thành hai nữa bằng nhau là đoạn gần và đoạn xa. Ụ núi
là một phần của đoạn niệu đạo xa và là chỗ lồi ra gần với điểm gập góc 35 độ.
Vùng tuyến, theo định nghĩa của McNeal, có liên quan đến niệu đạo TTL và
các ống phóng tinh. Mô hình của McNeal chia TTL làm 3 vùng: vùng chuyển
tiếp, vùng ngoại vi và vùng trung tâm. Mỗi vùng đều có cấu trúc cũng như xu
hướng mắc bệnh khác nhau.[35],[68],[83].
Vùng chuyển tiếp: nằm khu trú quanh đoạn gần của niệu đạo TTL và
chiếm khoảng 5% thể tích TTL bình thường. Vùng chuyển tiếp gồm hai thuỳ
nhỏ nằm hai bên của niệu đạo. Các ống dẫn vùng chuyển tiếp đổ vào vách sau
bên gần với góc niệu đạo. Các tuyến của vùng này là nguồn gốc tạo ra QSLT
TTL. Khoảng 15 - 20% UTTTL phát triển tại vùng này [68], [83].
Vùng trung tâm: chiếm khoảng 25% thể tích TTL bình thường và nằm
ở phần đáy lộn ngược của TTL. Mô của vùng trung tâm bao quanh các ống
phóng tinh kéo dài từ đáy tuyến tới phần đỉnh của ụ núi. Các ống vùng trung
6
tâm đổ vào chỗ lồi của ụ núi gần với lỗ của ống phóng tinh. Khoảng 10%
UTTTL xuất hiện tại vùng trung tâm [68], [83].
Vùng ngoại vi: chiếm phần lớn (khoảng 70%) thể tích TTL bình
thường. Vùng này bao bọc quanh cả vùng trung tâm và vùng chuyển tiếp tại
phần đáy tuyến và phần TTL quanh niệu đạo xa. Phần lớn (70 - 75%) UTBM
TTL xuất hiện ở vùng chu vi và đây cũng là vùng phổ biến cho tổn thương tân
sản nội biểu mô (TSNBM) TTL. Ngoài ra còn thấy một số tổn thương khác
cũng thường gặp ở vùng này, như: viêm mạn tính, teo tuyến. Tuy nhiên, đôi
khi cũng có thể gặp quá sản nốt [35], [68], [83].
1.1.2.3. Vỏ bao TTL
Vỏ bao TTL không phải là một bao thực sự mà nó được hình thành do sự
dày lên của mô đệm xơ - cơ vùng ngoại vi. Những nang tuyến tận cùng của
vùng trung tâm và vùng ngoại vi có thể ra đến lớp vỏ bao này, trong khi các
nang tuyến của vùng chuyển tiếp lại nằm vùi trong mô đệm xơ-cơ phía trước.
Đôi khi các nốt quá sản ở vùng chuyển tiếp đè ấn sang vùng ngoại vi và có
thể vươn tới lớp vỏ tuyến. Tại vùng đỉnh tuyến, gần như không thấy lớp vỏ
tuyến. Lớp vỏ TTL là một mốc quan trọng để đánh giá khả năng lan rộng ra
ngoài tuyến của mô UT [41], [83].
1.1.2.4. Phân bố thần kinh, mạch máu và bạch huyết
Thần kinh: TTL có một hệ thống đám rối thần kinh khá phong phú
tách ra từ đám rối hạ vị, thường tập trung nhiều ở vùng vỏ và phần trên - bên.
Rất nhiều hạch giao cảm nằm gần vỏ trong vùng của các bó thần kinh huyếtquản. Một số nhánh nhỏ thần kinh đi xuyên qua vỏ tuyến để vào bên trong, và
như vậy, những nhánh nhỏ thần kinh này có thể tiếp xúc một cách khá mật
thiết, thậm chí chạm vào một số tuyến nang nhỏ bình thường của TTL. Hình
ảnh này bắt chước các tuyến nang ác tính xâm nhập sợi thần kinh nên cần
phân biệt rõ để tránh chẩn đoán nhầm với UTBM TTL. Ngoài ra, một số hạch
7
giao cảm nằm trong mô đệm quanh tuyến cũng cần được nhận dạng để tránh
nhầm với UTBM [18].
Mạch máu
Động mạch: TTL được cấp máu bởi động mạch bàng quang dưới và
động mạch trực tràng giữa [11].
Tĩnh mạch: tạo thành đám rối tĩnh mạch TTL [11].
Bạch mạch: mạng bạch mạch của TTL chủ yếu tập trung ở vùng vỏ bao
và mô liên kết quanh tuyến sau đó đổ chủ yếu vào các hạch chậu trong. Các
hạch này thường là vị trí đầu tiên của các di căn UTBM TTL.
1.1.3. Mô học
1.1.3.1. Tế bào biểu mô
TTL có cấu trúc dạng phức hợp ống tuyến với một số điểm khác nhau
giữa ba vùng. Các đơn vị nang tuyến chịu trách nhiệm trong việc chế tiết của
tuyến để đổ vào các nhánh ống nhỏ và cuối cùng dồn vào ống lớn (ống
chính). Tiếp theo, các ống chính lại đổ vào niệu đạo TTL, các ống chính này
thường được lót bởi biểu mô chuyển tiếp ở vị trí gần chỗ đổ vào niệu đạo.
Nhìn chung, cấu trúc mô học điển hình của các nang tuyến và các ống nhỏ là
tương tự nhau, không phân biệt được. Chúng đều được cấu tạo bởi hai lớp tế
bào, lớp tế bào chế tiết và lớp tế bào đáy [33], [35], [83].
Không giống như tuyến nước bọt và tuyến ngoại tiết khác, các ống
tuyến và nang tuyến TTL không có lớp cơ biểu mô, nhưng các nang tuyến lại
có lớp tế bào đáy bao bọc bên ngoài. Các tế bào chế tiết nằm phía trong tế bào
đáy sản xuất ra kháng nguyên đặc hiệu TTL và phosphatase acid TTL [33],
[35], [41], [83].
Các tế bào chế tiết có dạng từ khối vuông tới hình trụ và chỉ có một
lớp. Nhân tế bào thường khá đồng nhất và khu trú phía đáy tế bào. Bào tương
phần cực ngọn khá rộng thường nhạt màu gồm nhiều hạt, đôi khi có dạng
8
không bào. Tại vùng trung tâm, bào tương có nhiều hạt và thẫm màu hơn các
vùng khác. Các tế bào đáy nằm bên ngoài tế bào chế tiết là những tế bào dẹt,
có thể có dạng khối vuông, nhân thường bầu dục, đôi khi có hạt nhân ưa
kiềm, bào tương ít, tỷ lệ nhân/bào tương khá cao. Bình thường, lớp tế bào đáy
chỉ có một hàng tế bào tựa trên một màng đáy mỏng. Trong một số trường
hợp đặc biệt như quá sản tuyến không điển hình thì khó phát hiện được lớp tế
bào này bằng kỹ thuật vi thể thông thường [33], [35], [83].
Vai trò của các tế bào đáy trong TTL vẫn còn chưa được biết rõ. Nhiều
tác giả cho rằng các tế bào này như tế bào nguồn, có thể biệt hóa theo hướng
tế bào chế tiết để phát triển thay thế các tế bào chế tiết bên trên hoặc có thể
biệt hóa theo hương thần kinh nội tiết [83]. Tế bào đáy không cùng phenotyp
và không phải là các tế bào cơ biểu mô [82]. Về HMMD, chúng âm tính với
protein S-100 và dấu ấn actin sợi cơ trơn, đồng thời không có đặc điểm siêu
cấu trúc của tế bào cơ biểu mô [18], [33], [41], [83].
Ngoài hai loại tế bào biểu mô (tế bào chế tiết và tế bào đáy) ra, TTL
còn có tế bào chuyển tiếp được tìm thấy trong các ống dẫn chính gần với niệu
đạo TTL, tuy nhiên số lượng của các tế bào này không thể biết một cách cụ
thể. Tính chất xếp tầng của tế bào chuyển tiếp cùng với đặc điểm nhân hình
bầu dục hoặc hình thoi với đường khía của nhân là nét đặc trưng cho tế bào
chuyển tiếp TTL.
Sản phẩm chế tiết của TTL thường hiện diện trong lòng các nang tuyến,
có màu hồng nhạt khi nhuộm H.E và phản ứng dương tính khi nhuộm PAS.
Chất mucin acid (xanh alcian dương tính) thường không thấy trong nang
tuyến bình thường hoặc quá sản, nhưng lại thường gặp ở dạng ổ nhỏ trong
UTTTL [42], [55], [60].
1.1.3.2. Tế bào mô đệm
Các ống và tuyến nang TTL được bao bọc bởi mô đệm gồm các tế bào
cơ trơn, nguyên bào sợi và các tế bào hình thoi không biệt hoá vùi trong chất
9
cơ bản gồm sợi collagen và chất nền. Sợi chun cũng được tìm thấy trong chất
cơ bản và trong bao vỏ tuyến. Sợi cơ vân khá phong phú trong tuyến, đặc biệt
là ở phần mô đệm cơ-xơ phía trước.
Ngoài ra TTL bình thường còn có các tế bào thần kinh nội tiết. Những
tế bào này thỉnh thoảng có thể thấy được trên kính hiển vi thông thường.
Ngoài ra có thể gặp các tế bào giống tế bào Paneth ở TTL bình thường, gặp ở
những tuyến teo đét [35], [83].
1.1.3.3. Các biến thể mô học theo vùng
Từng vùng của TTL, theo mô tả của McNeal, đều có đặc điểm mô học
đặc trưng riêng [83]. Các tuyến vùng chuyển tiếp và vùng ngoại vi là những
tuyến đơn giản, tròn, với đường viền chu vi mềm mại. Các tuyến vùng trung
tâm lại lớn hơn và thường xếp thành thuỳ quanh ống trung tâm, tạo nhú, bắc
cầu vào lòng tuyến. Biểu mô vách tuyến thường xếp theo kiểu giả tầng và bào
tương thường nhạt màu hơn những tế bào chế tiết của vùng khác. Cấu trúc giả
tầng và tạo nhú nhô vào lòng tuyến là nét đặc trưng của vùng trung tâm rất dễ
lầm với QSLT và TSNBM TTL, đặc biệt là TSNBM dạng sàng trên các mẫu
sinh thiết TTL bằng kim nhỏ [83].
Mô đệm của vùng ngoại vi thường khá lỏng lẻo với những sợi cơ trơn
phân bố một cách ngẫu nhiên. Mô đệm vùng chuyển tiếp lại đặc hơn với
những dải cơ trơn đan xen vào nhau. Vùng trung tâm có ít mô đệm hơn các
vùng khác và mật độ sợi cơ trơn cũng khá cao.
1.2. Ung thư biểu mô tuyến của TTL
1.2.1. Dịch tể học
1.2.1.1. Tình hình mắc bệnh UTTTL ở nước ngoài
UTTTL là một trong những UT hay gặp nhất ở đàn ông trên 65 tuổi ở
các nước Âu, Mỹ, chiếm tỷ lệ 6 - 7% nam giới ở mọi lứa tuổi, là nguyên nhân
gây tử vong hàng thứ 2 do UT ở lứa tuổi 60 - 75 và đang ngày càng chiếm
10
dần vị trí hàng đầu [69],[76],,[89]. Tại Pháp, trong năm 1977, 8.000 trường
hợp UTTTL mới được phát hiện (tương đương với 32 trường hợp trên
100.000 nam giới ở mọi lứa tuổi). Nếu tính tuổi trung bình là 72 thì tỷ lệ mắc
bệnh sẽ là 95 trường hợp trên 100.000 nam giới trên 50 tuổi, trong đó 20%
UTTTL ở độ tuổi 50 – 65. Tỷ lệ mắc bệnh rất khác nhau tuỳ từng quốc gia,
từng chủng tộc người. Tại châu á, tỷ lệ mắc bệnh rất thấp ở một số nước, ví
dụ ở Nhật Bản là 3 - 4/100.000 nam giới, Hồngkông: 1/100.000; trong khi đó
ở người Mỹ da trắng là 50 - 60/ 100.000 nam giới [63], và người Mỹ da đen
lại có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn gấp 2 đến 3 lần người Mỹ da trắng dù ở trong
cùng một vùng địa lý. Ngược lại, trên khám nghiệm tử thi, tần số UTTTL
ngẫu nhiên lại thấy tương tự nhau ở 2 chủng tộc người này [28]. ở Mỹ, trong
năm 1991 có 122.000 trường hợp mới mắc UTTTL được chẩn đoán. Tỷ lệ
chết vì UTBM TTL đối với các chủng tộc ở Mỹ từ năm 1983 - 1984 là
22,7/100.000 nam giới, và tỷ lệ mắc bệnh UTTTL là 75.3/100.000 nam giới
[28]. UTTTL rất ít gặp ở tuổi dưới 50 [55],[83], trong khi đó lại tăng lên đột
ngột cả về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong ở độ tuổi thập niên 90. Rất nhiều
báo cáo thấy rằng tần số phát hiện ngẫu nhiên UTTTL trên khám nghiệm tử
thi giống nhau ở nhiều nước (30 – 50%), mặc dù các nước này có tần số phát
hiện bệnh trên lâm sàng rất khác nhau. Hơn nữa, những người Nhật di cư đến
Mỹ và con cái của họ lại có tỷ lệ mắc bệnh trên lâm sàng và tỷ lệ tử vong tăng
gần bằng người dân Mỹ chính gốc [28],[63].
1.2.1.2. Tình hình mắc bệnh UTTTL ở trong nước:
Qua nghiên cứu mô học 335 trường hợp được lâm sàng chẩn đoán phì
đại TTL tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong 5 năm (1982 – 1986), Nguyễn
Như Bằng và CS [3] đã phát hiện 34 trường hợp UTTTL, chiếm khoảng 10%
(tác giả không nêu rõ là UT nguyên phát hoặc thứ phát của TTL), trong đó,
UTBM tuyến là 26 trường hợp, UT bè: 2, UT dạng biểu bì: 3, UT ít biệt hoá:
11
2 và UT liên kết: 1. Theo y văn thế giới, UT dạng biểu bì nguyên phát của
TTL là rất hiếm và chỉ xuất hiện sau điều trị bằng tia hoặc liệu pháp hormon
một vài năm ở những bệnh nhân UTBM TTL typ tuyến, còn lại, chủ yếu là do
di căn từ niệu đạo tới [28],[86].
Theo các tác giả Phạm Thị Hoàng Anh [1], Phạm Thị Hoàng Anh,
Nguyễn Bá Đức và CS [2], tỷ lệ UTTTL tại Hà nội và thành phố Hồ Chí
Minh là 1,2/100.000 nam giới (từ 1991 – 1992) và 1,5 - 2,3/100.000 nam giới
(từ 1995 – 1996). Tuy nhiên, những con số này chưa phản ánh thật đầy đủ
tình hình thực tế về UTTTL ở Việt nam, nhưng cũng phần nào cho chúng ta
thấy tỷ lệ mắc bệnh UTTTL ngày càng tăng.
1.2.2. Phân loại
Về UTBMTTL, năm 1980, WHO đã đưa ra bảng phân loại mô học
khối u TTL [81], nhưng trong quá trình ứng dụng thực tế, bảng phân loại này
đã dần bộc lộ một số thiếu sót về danh pháp cũng như một số tổn thương
không được đề cập, như một số biến thể của UTBM tuyến: UTBM tuyến ống,
UTBM tuyến nhày, UTBM tuyến- vảy, UTBM tế bào nhỏ, đặc biệt là tổn
thương tiền ung thư (TSNBM TTL, quá sản tuyến không điển hình),...
Năm 1993, Cabanne và CS [84] đã đưa ra bảng phân loại các khối u
TTL bằng cách tổng hợp phân độ mô học Gleason với một số biến thể mô học
mới, nhưng lại thiếu một số tổn thương tiền ung thư (quá sản tuyến không
điển hình, TSNBM TTL) và những tổn thương giống u khác.
Để bổ sung những thiếu sót của hai bảng phân loại trên về UTTTL, vào
năm 2000, Học viện Bệnh học Quân đội Hoa kỳ (AFIP) [83] đã đưa ra bảng
phân loại mới. Đây là bảng phân loại đã cập nhật được nhiều tổn thương mới
cũng như danh pháp mới đã được nhiều Hội nghị quốc tế thống nhất và nhiều
nước trên thế giới sử dụng [83].
12
Bảng phân loại quá sản, u và tổn thương giống u của tuyến tiền liệt theo
AFIP
Quá sản
Các u trung mô
Quá sản nốt lành tính
Lành tính
Các mẫu thông thường:
U cơ trơn
-Mẫu tuyến
U xơ
-Mẫu mô đệm
U mạch
-Mẫu hỗn hợp
Loại khác
Các mẫu đặc biệt:
Ác tính
* Mẫu ưu thế biểu mô
Sacôm cơ vân
-Mẫu tuyến nhỏ
Sacôm cơ trơn
-Mẫu dạng sàng
Sacôm mô đệm
* Mẫu mô đệm
-Mẫu dạng u cơ trơn
* Mẫu tuyến – mô đệm hỗn hợp
Loại khác
Các u khác
U lympho tạo máu
-Giống u xơ tuyến
U lympho
-Giống u dạng lá
Bệnh bạch cầu
(phyllodes)
U tương bào
*Quá sản phối hợp với teo
U cận hạch
-Quá sản tế bào đáy
U tế bào mầm
-Quá sản sau teo
U Wilms
Quá sản tuyến không điển hình –
Các u thứ phát
QSTKĐH (bệnh tuyến)
Các tổn thương giống u
Các u biểu mô lành tính
Teo
U tuyến
Quá sản sau teo
U tuyến nang nhiều ổ
Bệnh tuyến xơ hoá
Tân sản nội biểu mô:
Quá sản dạng sàng
13
TSNBMTTL
Dị sản vảy
Ung thư biểu mô tuyến thông
Dị sản/quá sản tế bào chuyển tiếp
thường
Quá sản tế bào đáy và các biến thể
Các biến thể đặc biệt của
Viêm TTL
UTBM tuyến và các UTBM
Viêm bàng quang mảng trắng
khác
Những bất thường do tia xạ
Ung thư biểu mô tuyến ống (lớn)
Giả u có viêm (u dạng xơ nhầy giả
Ung thư biểu mô tuyến nhầy
sacôm)
Ung thư biểu mô tế bào nhẫn
Các tế bào mô đệm bất thường
Ung thư biểu mô tuyến vảy
Túi tinh/ống phóng tinh, tuyến
Ung thư biểu mô tế bào vảy
Cowper, hạch giao cảm
Ung thư biểu mô nang dạng tuyến
Quá sản tuyến niêm mạc ụ núi
và dạng đáy
Dị sản nhầy
Ung thư biểu mô tế bào chuyển
Các tuyến lành nằm kề sợi thần
tiếp
kinh và cơ vân
Ung thư biểu mô tế bào nhỏ
Các nang
Ung thư biểu mô dạng sacôm
Chứng thoái hoá dạng tinh bột
Ung thư biểu mô giống u lympho-
Các loại đặc biệt khác
biểu mô
Các loại đặc biệt khác
Các u hỗn hợp
U biểu mô - mô đệm
UTBM sacôm
Ghi chú: - Một số tổn thương được xếp trong mục quá sản cũng có thể là tổn
thương giống u.
- Bệnh tuyến xơ hoá và quá sản dạng sàng gặp trong quá sản nốt
nhưng có hình thái đặc biệt giống u.
14
Trong số các UTTTL thì UTBM tuyến chiếm tỷ lệ cao nhất (hơn 90%)
[18],[38],[81],[84]. UTBM TTL có 70-75% xuất hiện ở vùng ngoại vi tuyến
(theo cấu trúc giải phẫu là thuỳ sau và thuỳ bên), 15 –20% có nguồn gốc từ
vùng chuyển tiếp và khoảng 10% ở vùng trung tâm tuyến. Trên thực tế, khi
chẩn đoán UTTTL, ngoài việc định typ mô học, ở nhiều nước người ta đồng
thời tiến hành phân độ mô học cho các UTBM tuyến nhằm giúp việc đánh giá
khả năng tiến triển, đáp ứng điều trị, di căn, tiên lượng bệnh,...
1.2.3. Các thăm dò cận lâm sàng trong chẩn đoán UTTTL.
Có nhiều phương pháp thăm dò cận lâm sàng để chẩn đoán UTTTL
trong đó hiện nay người ta hay sử dụng nhất bộ ba: xét nghiệm PSA huyết
thanh, siêu âm TTL qua đường trực tràng và sinh thiết TTL dưới hướng dẫn
của siêu âm.
1.2.3.1. Xét nghiệm PSA huyết thanh
PSA là một Enzyme glucoprotein chỉ sản xuất từ biểu mô TTL nên nó
được coi là kháng nguyên đặc hiệu của TTL. Bình thường nồng độ PSA huyết
thanh <4ng/ml [15], [22].
Trong UTTTL nồng độ PSA thường tăng cao và tỷ lệ với khối ung thư
nhưng nó không chỉ đặc hiệu riêng với UTTTL [22]. Nồng độ PSA tăng cũng
gặp trong trường hợp QSLT (9-15%) [15], viêm tuyến tiền liệt mạn tính cũng
như các tác động trên TTL ( đặt sonde niệu đạo, soi bàng quang, chọc sinh
thiết, thăm trực tràng…) [9], [22]. Tuy vậy PSA tăng do những nguyên nhân
này thường ở mức độ thấp, sau một thời gian ( khoảng 7 ngày sau can thiệp )
làm lại xét nghiệm thường kết quả PSA giảm và cho kết quả chính xác hơn.
Người ta đánh giá rằng lượng PSA trong máu tăng 0,3 ng/ml cho mổi gram u
lành còn tăng khoảng 3ng/ml cho mổi gram u ác tính ( gấp 10 lần u lành) ,
như vậy QSLT TTL tăng trọng lượng 30g có thể làm tăng hàm lượng PSA
trong máu lên tới 10ng/ml [15], [49], [58].
15
Giá trị của PSA đối với chẩn đoán UTTTL:
Nồng độ PSA [15], [22]:
- PSA từ 4-10ng/ml: tỷ lệ UT là 18-25% (trung bình là 21%)
- PSA >10ng/ml: tỷ lệ UT khoảng 58-80%(trung bình là 60%)
- PSA >20ng/ml: tỷ lệ UT khoảng 90%.
PSA đối với giai đoạn của UTTTL: UTTTL ở giai đoạn càng muộn thì
nồng độ PSA trong máu càng tăng [9], [22].
- PSA <10ng/ml: Thường khối u khu trú trong tuyến
- PSA >30ng/ml: 80% UTTTL ở giai đoạn T3
- PSA >50ng/ml: 80% khối u xâm lấn vào túi tinh hoặc di căn hạch
PSA với tiên lượng bệnh: Bệnh nhân UTTTL có nồng độ càng cao tiên
lượng càng xấu.
Ngoài ra PSA còn có giá trị theo dõi đánh giá đáp ứng điều trị [15].
1.2.3.2. Siêu âm qua trực tràng
Hình ảnh siêu âm của ung thư TTL rất đa dạng, điển hình là một vùng
giảm âm. Tuy nhiên cũng có thể có dạng hỗn hợp âm và 37,6 % ung thư
không có sự biến đổi hồi âm. Hiện nay người ta áp dụng siêu âm TTL qua
đường trực tràng nhằm hai mục đích chính:
- Xác định các tổn thương nghi ngờ ác tính.
- Tăng cường mức độ chính xác của sinh thiết TTL.
Qua siêu âm trực tràng có thể đánh giá vị trí, hình dạng, kích thước,
khối lượng, cho chúng ta thêm nhiều thông tin về mức độ xâm lấn của u TTL,
các tổn thương kèm theo nếu có ở vùng tiểu khung và tầng sinh môn [58].
1.2.3.3. Sinh thiết TTL dưới hướng dẫn của siêu âm trực tràng
Sinh thiết TTL được chỉ định khi các thăm do sàng lọc nghi nghờ.
Thăm trực tràng thấy: u phì đại nghi UT, TTL có nhân rắn, PSA tăng, siêu âm
có hình ảnh nghi ngờ UTTTL.
16
Để phục vụ cho chẩn đoán bệnh lý TTL, đã có nhiều phương pháp sinh
thiết ra đời như: chọc sinh thiết qua đường trực tràng với ngón tay trỏ dẫn
đường, chọc sinh thiết qua tầng sinh môn, sinh thiết qua niệu đạo, chọc hút tế
bào bằng kim nhỏ, xét nghiệm dịch tiết TTL, sinh thiết TTL qua siêu âm…
trong đó sinh thiết TTL qua siêu âm trực tràng là phương pháp hiện nay được
lựa chọn.
Kim sinh thiết TTL được dùng đầu tiên là kim 14G, nhưng đa số hiện
nay các tác giả dùng kim 18 G [6], [7], [9], [33], [48].
Năm 1988, khi bắt đầu sinh thiết TTL dưới hướng dẫn của siêu âm qua
trực tràng ( TRUS: Transrectal Ultrasonography Prostate Biopsy) thì chỉ sinh
thiết những tổn thương nghi ngờ. Sau đó, Hodge và CS đề nghị sinh thiết TTL
6 vị trí để tăng khả năng phát hiện UT. Cách sinh thiết này đã được áp dụng
trong một thời gian dài. Dưới hướng dẫn của TRUS, sinh thiết có thể thực
hiện qua đáy chậu hoặc qua đường trực tràng. Khả năng phát hiện UT của hai
đường này là như nhau. Hiện nay, sinh thiết sinh thiết qua đáy chậu ít được sử
dụng vì có nguy cơ gieo rắc tế bào UT. [6], [7], [33], [48].
Bảng1.1: Các bước phát triển của kỷ thuật siêu âm qua đường trực tràng
[6], [48].
Năm
Sự kiện
1968
TRUS lần đàu tiên xuất hiện
1988
Sinh thiết TTL dưới hương dẫn của TRUS
1989
TRUS với
Doppler
màu
1993
Xử lý tín hiệu siêu âm bằng kỷ thuật số
17
1995
1996
1997
TRUS với Doppler năng lượng
Xử lý hình ảnh siêu âm ba chiều
TRUS có bơm thuốc cản quang
Tổn thương TTL
Trực tràng
Đầu dò và thiết bị sinh thiết
Hình 1.2: Sinh thiết TTL qua đường trực tràng dưới hướng dẫn của TRUS
[6], [7].
Sinh thiết 6 vị trí có tỷ lệ âm tính giả từ 15% đến 34%. Khi u có thể
tích trên 2cm3, hoặc khi u ở vùng ngoại vi: độ nhạy của sinh thiết 6 vị trí lân
lượt là 83,3% và 71,4%. Nếu u nằm ở vùng chuyển tiếp, độ nhậy giảm xuống
chỉ còn 33.3%. Từ những lý do đó, hiện nay nhiều tác giả đề nghị tăng số
lượng mẫu sinh thiết, thậm chí có thể lên 30 mẫu trong một lần sinh thiết.
Như vậy ngoài 6 vị trí sinh thiết “kinh điển”, cần sinh thiết thêm ở: vùng mô
đệm sợi cơ trước TTL, vùng chuyển tiếp, đường giữa mặt sau và vùng sau bên
của tuyến [6], [7].
18
Theo Mariappan, nên xác định số lượng mẫu sinh thiết theo thể tích của
TTL [7].
Hình1.3 : Sơ đồ sinh thiết và số lượng mẫu sinh thiết dựa vào thể tích
TTL[7].
Bảng1.2: Khả năng phát hiện UTTTL khi sinh thiết nhiều mẫu
Số mẫu sinh
So với sinh thiết 6 mẫu, khả năng phát hiện ung
thiết
10
11
12
13 hoặc 14
thư tăng lên
6,6% - 46,7%
33%
13% - 30%
35%
Bệnh viện Việt Đức thực hiện sinh thiết thường quy 10 vị trí, trong một
số trường hợp như chảy máu nhiều thì số lượng mũi sinh thiết có thể giảm
xuống [9].
Mức độ phù hợp về điểm Gleason giữa mẫu sinh thiết TTL bằng kim
dưới hướng dẫn của siêu âm và bệnh phẫm phẫu thuật TTL phụ thuộc vào:
- Số mẫu sinh thiết: khi số mẫu sinh thiết lấy từ mô u càng nhiều thì tỷ
lệ tương hợp càng cao [35], [48], [83].
19
- Vị trí lấy mẫu: đa số độ mô học theo Gleason là độ 1 và 2 thường ở vị
trí vùng trung tâm và chuyển tiếp. Đây là những vùng mà theo phân vùng
TTL của McNeal là những vùng sinh thiết kim “khó với tới”. Do đó, nếu sinh
thiết được càng nhiều vùng thì tỷ lệ phù hợp càng cao [35], [48], [83].
- Độ mô học của khối u: độ mô học thấp ( độ 1 và độ 2) có thể bị bỏ sót
do gần giống với mô TTL bình thường. Độ mô học 4 có thể nhầm với độ 2
[35], [83].
- Ngoài ra còn phụ thuộc vào kinh nghiệm đọc của bác sỹ giải phẫu bệnh.
Nhìn chung mức độ phù hợp giao động khoảng từ 73%-78%[6], [35].
Đánh giá độ mô học thấp hơn so với thực tế khoảng 33%-45%. Đánh giá độ
mô học cao hơn thực tế khoảng 4%-32%. U có điểm Gleason càng cao thì
mức độ phù hợp càng cao [35], [48], [83].
1.2.4. Đặc điểm giải phẫu bệnh
1.2.4.1. Đại thể
Vị trí: ung thư biểu mô có thể xuất phát từ bất kỳ vùng nào của TTL
nhưng nhiều nhất là vùng ngoại biên (70-75%), vùng chuyển tiếp (15-20%),
vùng trung tâm (10%) [6], [83].
Số lượng ổ ung thư: >50% ung thư biểu mô TTL có biểu hiện đa ổ[2],
[33], [83].
Thể tích u: Theo nghiên cứu của McNeal và cộng sự, thể tích u là yếu tố
tiên lượng quan trọng. Thể tích u còn liên quan với độ mô học, xâm lấn ngoài
TTL, túi tinh, di căn hạch vùng, tỷ lệ tái phát. Hầu hết các u phát hiện trên tử
thiết có thể tích nhỏ hơn 1cm3. Đa số u biểu hiện lâm sàng khi có thể tích >
0,5 cm3 [2], [83].
20
Hình 1.4: (T) UTBM tuyếnở vùng chuyển tiếp giới hạn rõ
(P) UTBM thầm lặng ở vùng trên phải, trên nền QSLT TTL [83]
U xuất phát từ nhiều ổ, nhưng khi phát hiện bệnh thì các ổ này thường
đã hợp lại thành một khối ranh giới không rõ. Điển hình trên các diện cắt, mô
u cứng chắc và rất khó phân biệt với mô TTL bình thường. U có màu hơi
vàng hơn mô lành xung quanh hoặc có màu trắng xám. Chỉ khi u xâm nhập
vỏ xơ hoặc lan rộng đến túi tinh, trực tràng, bàng quang, người ta mới có thể
phân biệt u dễ dàng.
1.2.4.2. Đặc điểm vi thể
Những đặc điểm giúp chẩn đoán UT TTL [83]
Cấu trúc (được đánh giá ở độ phóng đại thấp hoặc trung bình)
Cấu trúc bất thường
Các tuyến nhỏ nằm sát nhau
Các tuyến khá đồng nhất
Tuyến có hình dạng khác với tuyến xung quanh
Cấu trúc dạng tiểu cầu thận
Đặc điểm biểu hiện xâm nhập
Tuyến nhỏ nằm xen giữa các tuyến lành
Nhiều tuyến hợp lại, hoặc cấu trúc dây hoặc tế bào đơn độc
Xâm nhập xung quanh hoặc trong sợi thần kinh
- Xem thêm -