1
MỞ ĐẦU
Thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, một loại
hình hoạt động mà phương tiện cơ bản là các bài tập thể lực nhằm tăng cường
thể chất cho con người, nâng cao thành tích thể thao, góp phần làm phong phú
đời sống văn hóa và giáo dục con người phát triển cân đối hợp lý ( phát triển con
người với đầy đủ 5 phẩm chất: trí – đức – thể - mỹ - lao).
Bóng đá là một môn hoạt động tập thể có tính đối kháng trực tiếp và có
quá trình hình thành phát triển lâu đời, là môn thể thao không chỉ nằm trong hệ
thống thi đấu chính thức ở Đại hội Olympic mà còn thường xuyên tổ chức các
giải thi đấu lớn.
Bóng đá không chỉ mang lại tinh thần nâng cao sức khỏe mà nó còn hình
thành ở con người các phẩm chất nhân cách như: Dũng cảm, đoàn kết, lòng
quyết tâm, tính kỷ luật, tính quả quyết, sáng tạo, giao lưu, hợp tác, hữu nghị…
Trong những năm gần đây luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
Bóng đá Việt Nam đã gặt hái được khá nhiều thành công nhưng bên cạnh những
thành công đó vẫn còn có nhiều điều hạn chế, đó là sự hạn chế về thể lực của
các cầu thủ. Huấn luyện thể lực là công tác quan trọng trong Bóng đá. Hiện nay,
Bóng đá hiện đại đỏi hỏi các cầu thủ phải có thể lực thật tốt, dẻo dai, có như vậy
mới đáp ứng được yêu cầu tập luyện và thi đấu. Thật vậy, một cầu thủ tốt biết
phát huy khả năng đó trong khi có bóng hoặc không có bóng người đó thực hiện
2
ý đồ chiến thuật không mệt mỏi, luôn đứng trước đối phương hơn thế nữa có thể
lực tốt cầu thủ sẽ làm chủ được tinh thần trong giây phút căng thẳng đảm bảo
hiệu suất thi đấu từ đầu đến cuối trận vì vậy thể lực là một phần không thể tách
rời các cầu thủ Bóng đá.
Sức nhanh là tố chất thể lực hết sức quan trọng trong tập luyện và thi đấu.
Bóng đá ngày nay diễn ra với tốc độ nhanh và quyết liệt, yêu cầu VĐV trên sân
phải thực hiện các động tác: chạy, nhảy, dừng đột ngột, xuất phát nhanh…
Ngoài ra đòi hỏi các cầu thủ phải hoàn thành xuất sắc các động tác, kỹ thuật một
cách nhanh chóng, chính xác như kỹ thuật giữ bóng, dẫn bóng, sút cầu môn
trong điều kiện có cầu thủ đối phương tranh chấp, cản phá. Chính vì vậy sức
nhanh là một trong những thước đo trình độ huấn luyện thể lực cho VĐV
Bóng đá.
Sức nhanh được coi là một loại tố chất đặc biệt rất dễ bị mai một theo thời
gian nếu không được tập luyện thường xuyên. Những cầu thủ có khả năng trội
về tốc độ so với kỹ thuật thì thường mất khả năng thi đấu nhanh hơn so với
những người cũng bỏ tập như thế nhưng có khả năng kỹ thuật trội hơn. Điều này
chứng tỏ rằng tốc độ nhanh phát triển ở một mức độ nào đó là có tính chất nhất
thời và điều này càng rõ rệt nếu trong công tác huấn luyện không có sự kết hợp
phát triển nó với việc phát triển kỹ chiến thuật
Là cán bộ thể thao trong tương lai, tôi không khỏi băn khoăn suy nghĩ
những cầu thủ trẻ hôm nay chính là thế hệ đại diện cho sự phát triển của Bóng
đá tỉnh Nam Định nói riêng và của nước nhà nói chung. Qua quan sát các em
3
VĐV năng khiếu Bóng đá trẻ trên địa bàn tỉnh Nam Định tập luyện chúng tôi
nhận thấy vấn đề thể lực của các em là rất hạn chế, đặc biệt là sức nhanh. Các
cầu thủ không có được sự nhanh nhẹn cần thiết trong từng pha tranh bóng để
thực hiện sự phối hợp và ý đồ của HLV. Chính vì vậy thành tích thi đấu đạt
chưa cao. Sự hạn chế đó do một số nguyên nhân sau:
+ Quá trình huấn luyện chưa hợp lý và khoa học, còn dựa nhiều vào kinh
nghiệm bản thân.
+ Sử dụng bài tập cũ không phù hợp với bóng đá hiện đại.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài:
“ Nghiên cứu lựa chọn bài tập phát triển sức nhanh cho nam vận động
viên Bóng đá lứa tuổi 11 – 13 tỉnh Nam Định”.
* Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn ra các bài tập phát triển sức nhanh đạt hiệu quả cao và có thể
ứng dụng trong thực tiễn huấn luyện và giáo dục sức nhanh cho VĐV Bóng đá
lứa tuổi 11 – 13 tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước nói chung. Từ đó góp phần
nâng cao thể lực cho VĐV, giúp các VĐV đạt thành tích cao trong tập luyện và
thi đấu.
* Mục tiêu nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên đề tài tiến hành 2 mục tiêu cụ thể sau:
- Mục tiêu cấp 1: Nghiên cứu thực trạng và lựa chọn bài tập phát triển
sức nhanh cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 11 – 13 tỉnh Nam Định.
4
- Mục tiêu cấp 2: Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá hiệu quả các bài tập
phát triển sức nhanh cho nam VĐV Bóng đá lứa tuổi 11 – 13 tỉnh Nam Định.
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 3/2010 đến tháng 5/2011 và
được chia làm 3 giai đoạn. Quá trình nghiên cứu được thực hiện trên 20 VĐV
Bóng đá lứa tuổi 11 - 13 tỉnh Nam Định và Trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm của môn bóng đá.
Bóng đá là môn thể thao đồng đội được chơi theo qui tắc đề ra trong luật
bóng đá. Các vận động viên tham gia chơi bóng đá được coi là các cầu thủ, họ
thường sử dụng một trái bóng hình cầu được gọi đơn giản là quả bóng đá, trái
bóng hoặc trái banh. Trong trận đấu bóng đá, hai đội, mỗi đội gồm 11 cầu thủ sẽ
tìm cách đưa bóng vào khung thành của đối phương, đội nào đưa được bóng vào
nhiều hơn sẽ là đội chiến thắng.
Môn bóng đá với các luật chơi gần như ngày nay bắt đầu phổ biến từ giữa
thế kỉ XIX tại các trường học trên nước Anh. Trải qua thời gian bóng đá ngày
càng được hoàn thiện và ngày nay bóng đá đã được chơi ở nhiều cấp độ chuyên
nghiệp trên khắp thế giới với hàng triệu người đến sân theo dõi các trận đấu
cũng như hàng tỉ người theo dõi trên truyền hình.
5
1.2. Vai trò của bóng đá.
1.2.1. Giá trị trong lĩnh vực giáo dục thể chất con người.
Nằm trong hệ thống các phương tiện giáo dục thể chất cũng như nhiều
môn thể thao khác, bóng đá được coi là môn thể thao có giá trị rất lớn để phát
triển thể chất và sức khỏe con người, đặc biệt là thanh thiếu niên.
Tập luyện bóng đá một cách khoa học nghiêm túc và đúng phương pháp sẽ giúp
cho cơ thể phát triển toàn diện, cân đối. Có thể tập, có thể chơi bóng đá rất sớm,
từ tuổi mẫu giáo, tiểu học, với mục đích là làm cho cơ thể trẻ em nhanh nhẹn,
cứng cáp, với hoạt động ngoài trời là chủ yếu, bóng đá còn giúp con người gần
gũi gắn bó với môi trương thiên nhiên, làm tăng khả năng dưỡng dục cả về tâm
lý và trí lực.
Tập luyện và thi đấu bóng đa là hoạt động có cường độ cao, đối kháng
trực tiếp là hoạt động đòi hỏi sự chuẩn mực của các kỹ năng điều khiển quả
bóng tròn, do đó cần một sự tập luyện chuyên cần ở tuổi trẻ. Để thành tài thì khổ
luyện luôn chiếm phần nhiều hơn so với năng khiếu bẩm sinh đó là đặc điểm của
bóng đá. Bóng đá là môn đối kháng trực tiếp, với luật chơi cho phép dùng sức
mạnh “thân chống thân” và diễn ra với tốc độ cao, trong không gian rộng, đòi
hỏi cầu thủ không chỉ đáp ứng tốt về sức mạnh, tốc độ kỹ thuật cá nhân điêu
luyện mà còn có tính chất chiến đấu, lòng dũng cảm và bản thân hoạt động,
bóng đá đã giúp cầu thủ rèn luyện, phát triển một cách hữu hiệu các tố chất tâm
6
lý này. Như vậy, tập luyện bóng đá làm thay đổi theo hướng tích cực khả năng
tâm lý của tuổi trẻ.
1.2.2. Giá trị trong lĩnh vực giao lưu xã hội.
Với tính phổ cập rất cao và quy mô phát triển rộng khắp, bóng đá đã trở
thành một phương tiện, một điều kiện giao lưu xã hội hữu hiệu, phạm vi giao
lưu qua phương tiện hoạt động bóng đá có thể thấy rất rõ ở nhiều cấp độ: Giữa
các cơ sở, địa phương, giữa các tỉnh thành các quốc gia và châu lục.
Ngày nay, những giải bóng đá lớn, những trận thi đấu đã trở thành dịp hội
tụ, gặp gỡ của các cầu thủ, các VĐV, các khách du lịch và các nhà kinh tế, đôi
khi là các chính khách. Bóng đá trở thành chiếc cầu giao lưu nối gần lại những
cách biệt không chỉ về lĩnh vực địa lý, mà cả với các lĩnh vực khác như kinh tế,
chính trị, văn hóa… là cơ hội để tìm hiểu, học hỏi, trao đổi mọi vấn đề của xã
hội loài người. Bóng đá được coi là tiếng nói hòa bình hữu nghị giữa các dân
tộc, làm cho thế giới gần lại với nhau hơn.
1.2.3. Giá trị trong lĩnh vực giải trí.
Bóng đá cũng như nhiều môn thể thao khác và giống các môn nghệ thuật
trình diễn là có giá trị giái trí cao, hoạt động bóng đá không chỉ hấp dẫn con
người ở lĩnh vực thưởng thức nghệ thuật của trình diễn, mà còn hấp dẫn, lôi
cuốn người ta vào hoạt động “tự trình diễn”. Sau những giờ làm việc, học tập
mệt mỏi nhiều người lựa chọn vận động hoặc màn hình nhỏ để thư giãn, là lớp
7
trẻ lại lựa chọn sân bãi quả bóng tròn làm phương tiện giải trí cho mình. Bóng
đá là môn thể thao có “ma lực” lôi cuốn cả người xem và người chơi.
Ngày nay, tham gia vào các trận đấu, các giải bóng đá lớn như giải Cúp
Châu Âu, Châu Mỹ, Cúp thế giới… không chỉ các cầu thủ và hàng ngàn khán
giả trên sân vận động, mà còn có nhiều hơn thế rất nhiều, hàng tỷ người khắp
hành tinh say sưa “sống cùng Bóng đá” qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Số người có nhu cầu thưởng thức Bóng đá trên thế giới rất lớn, đã vượt xa bất cứ
môn nghệ thuật giải trí nào khác.
Đối với học sinh, sinh viên, bóng đá là một trong những hoạt động giải trí
được lựa chọn nhiều nhất khi có thời gian tự do. Tuy nhiên các điều kiện về cơ
sở sân bãi là những khó khăn, nhất là ngày nay xu thế đô thị hóa ngày càng phát
triển mạnh, các sân chơi cho trẻ em ngày càng hiếm dần. Cần tổ chức lại các
hoạt động thể thao nói chung và bóng đá nói riêng theo các hình thức câu lạc bộ
và đặc biệt cần giành những sân chơi thể thao cho trẻ để bóng đá thật sự phát
huy thế mạnh của nó trong lĩnh vực giáo dục và giải trí cho thế hệ trẻ.
1.2.4. Giá trị trong lĩnh vực kinh tế.
Xuất xứ của bóng đá lúc đầu là hoạt động giải trí và những người chơi
bóng đá cũng như các môn thể thao khác đều là nghiệp dư. Nhưng với đặc thù
riêng ở tính hấp dẫn cao, mức độ phát triển rộng khắp và mang tính chất chi
phối tới đời sống xã hội, bóng đá đã nhanh chóng tiến tới con đường chuyên
8
nghiệp. Bóng đá nhà nghề ra đời ở Châu Âu từ đầu thế kỷ XX, kết thúc thế kỷ
XX, bóng đá chuyên nghiệp có mặt ở tất cả các Châu lục trên thế giới.
Ngày nay, những câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp mạnh trên thế giới
đều gắn liền với những tổ chức công nghiệp, doanh nghiêp lớn và trở thành một
bộ phận sinh lợi của nó. Như vậy, bóng đá chuyên nghiệp đã bước vào thương
trường và trở thành một ngành kinh doanh sinh lợi.
Tổ chức bóng đá thế giới (FIFA) điều hành các hoạt động bóng đá chuyên
nghiệp thế giới có doanh thu ngang với doanh thu của những tập đoàn kinh tế
lớn trên thế giới. Vì vậy FIFA đã có điều kiện giúp đỡ , hỗ trợ một cách hiệu quả
nhiều nước thành viên phát triển bóng đá mạnh mẽ, đặc biệt là phát triển bóng
đá trẻ, bóng đá học đường, ở những quốc gia có nền bóng đá phát triển mạnh,
doanh thu mà bóng đá mang lại có thể sánh ngang với doanh thu của ngành du
lịch và trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
1.3. Vai trò và ý nghĩa của tố chất thể lực.
Khi nói đến thể thao thì vấn đề thể lực bao giờ cũng được quan tâm hàng
đầu và không được xem nhẹ. Các chuyên gia lý luận hàng đầu của thể giới như:
Matveep (Nga), Điền Mai Cửu (Trung Quốc), D.Hare (Đức) đều cho rằng: Yếu
tố thể lực của vận động viên ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đạt tới
trình độ thành tích cao hơn.
Để đạt được thành tích cao trong thể thao thì vận động viên được trang bị
đầy đủ thể lực, tâm lý, chiến thuật, kỹ thuật và phải biết kết hợp các yếu tố trên
9
một cách hợp lý. Một khi việc tiếp cận kỹ thuật càng gần và nhanh chóng hơn
thì yếu tố thể lực càng trở nên quan trọng trong việc giành thắng lợi. Nói cách
khác khi khoảng cách khác biệt về trình độ kỹ chiến thuật của các vận động viên
được thu hẹp thì yếu tố thể lực sẽ có ảnh hưởng tới sự thắng bại trong thi đấu.
Ngày nay xu hướng phát triển của bóng đá hiện đại mang tính chất tổng
lực đòi hỏi vận động viên phải hoàn thành khối lượng vận động lớn như: Chạy
tốc độ, sử dụng hàng loạt các động tác kỹ thuật, tranh cướp bóng với đối
phương… Vì vậy, thể lực trong bóng đá không phải là một trạng thái thể chất
bình thường, nó không giống với một số môn thể thao khác. Nếu cầu thủ không
có thể lực tốt sẽ không hoàn thiện được nhiệm vụ mà Ban huấn luyện giao cho
sẽ dẫn tới ảnh hưởng kết quả của toàn đội.
Chính vì lý do này trong công tác huấn luyện bóng đá, ngoài việc trang bị
tốt cho cầu thủ về mặt kỹ thuật, các huấn luyện viên cần chú trọng vấn đề thể
lực. Thông qua việc huấn luyện thể lực có thể tăng cường sức khỏe cho vận
động viên, phát triển toàn diện các tố chấ: Sức nhanh, mạnh, bền… nâng cao
hoạt động của cơ thể.
Trong các môn thể thao đồng đội nói chung, môn bóng đá nói riêng để
giành được nhiều chiến thắng ngoài việc phát huy tới mức tối đa mọi nỗ lực của
từng thành viên trong đội cần có sự hỗ trợ lẫn nhau trong thi đấu, sự bọc lót đan
xen giữa các tuyến tạo thành khối lượng thống nhất.
1.4. Đặc điểm sức nhanh trong bóng đá.
10
Trước hết chúng ta cần hiểu sức nhanh là một tổ hợp các thuộc tính chức
năng của con người trong quy định chủ yếu và trực tiếp tính chất nhanh của
động tác.
Sức nhanh là tố chất thể lực để tiến hành các hành vi vận động trong thời
gian ngắn trong các điều kiện quy định.
Khi đánh giá các biểu hiện của sức nhanh người ta phân biệt như sau:
+ Thời gian tiềm tàng của phản ứng vận động.
+ Tốc độ động tác đơn.
+ Tần số động tác.
Những hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau. Đặc
biệt chỉ những chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan
với tốc độ động tác. Có thể cho rằng những chỉ số phản ứng năng lực tốc độ
khác nhau, nhưng sự kết hợp của 3 chỉ số này cho phép đánh giá tất cả các biểu
hiện của sức nhanh. Vì vậy huấn luyện sức nhanh là sự kết hợp huấn luyện của
các biểu hiện sức nhanh theo một tuần tự nhất định và cấu trúc của các phần một
cách hợp lý và khoa học.
Nhìn chung năng lực tốc độ của con người mang tính chất chuyên biệt rõ
nét, sự chuyển tiếp trực tiếp của sức nhanh chỉ xảy ra trong các động tác gần
giống nhau vè tính chất phối hợp. Các chỉ tiêu trên quan hệ tương đối độc lập
nên trong thới kỳ huấn luyện phải có phương pháp hợp lý để phát triển tốt những
phần của nó.
11
Sức nhanh được coi là một loại tố chất “tinh tế” rất dễ bị mai một qua thời
gian (nếu không tập luyện thường xuyên và do tuổi cao). Những cầu thủ có khả
năng trội về tốc độ so với kỹ thuật thì thường mất khả năng tăng tốc độ nhanh
hơn so với những người cùng bỏ tập như thế nhưng có khă năng trội hơn về kỹ
thuật. Điều này chứng tỏ răng tốc độ nhanh phát triển ở mức độ nào đó là có tính
chất nhất thời (sách giáo khoa bóng đá).
Đối với hoạt động bóng đá sức nhanh đánh giá qua các mặt sau:
- Nhanh về xuất phát thường là xuất phát trong vận động.
- Nhanh về tốc độ chạy: Bao gồm các loại chạy biến tốc, biến hướng tốc độ
chạy khi có và không có bóng.
- Nhanh về nhận thức vị trí.
- Nhanh trong khống chế và xử lý bóng đá thi đấu.
- Nhanh trong nhận thức chiến thuật: Biết giải đáp chiến thuật một cách tốt
nhất trong thời gian ngắn nhất.
- So với những tố chất khác, trong thời kỳ huấn luyện một năm, việc phát
triển sức nhanh cũng có nhiều đòi hỏi và yêu cầu cả về ‘chất” và “lượng”
khác nhau trong thời kỳ.
Ví dụ:
+ Thời kỳ chuẩn bị cơ bản: ở đầu thời kỳ phần thể lực chủ yếu vẫn là sức
mạnh, sức bền. Về cuối thời kỳ khi mà cơ thể thích nghi với lượng vận động lớn
12
thì bắt đầu tập phát triển sức nhanh với các cự ly dài. Nói chính xác là bài tập
kết hợp nhanh, mạnh và nhanh bền.
+ Thời kỳ chuẩn bị cho thi đầu: Cự ly dài giảm dần, tăng dần tốc độ cự ly
ngắn (trong các cự ly 20 – 30m). Tập kết hợp sức nhanh với kỹ thuật, chiến
thuật, yêu cầu về tốc độ đạt cao nhất vào cuối thời kỳ này.
+ Thời kỳ thi đấu: Tất cả các buổi tập đều có nội dung sức nhanh. Tốt
nhát là hàng tuần có một đến hai buổi tập có nội dung về sức nhanh. Yêu cầu
sức nhanh ở đây là đáp ứng với yêu cầu của câc trân đấu.
+ Thời kỳ chuyển tiếp: Việc vận dụng sức nhanh ở đây chỉ là kết hợp với
các bài tập khác như ở các hoạt động thể thao hỗ trợ.
Trong tập luyện và thi đấu bóng đá, yếu tố sức nhanh là tố chất quan
trọng. Nó được thể hiện ở những tình huống tranh bóng và dẫn bóng. Ngoài việc
đòi hỏi VĐV có trình độ kỹ thuật tốt, còn đòi hỏi VĐV có sức nhanh kết hợp với
sức nhanh động tác, sức nhanh phản ứng, sức nhanh tần số một cách chính xác
và hợp lý để có thể tranh cướp bóng của đối phương hoặc tấn công đối phương.
Việc thực hiện mỗi động tác kỹ thuật đều thông qua quá trình bắt đầu tử việc
quan sát, phán đoán động tác đối phương đến quan sát các hướng tấn công chiến
thuật của đối phương. Đó là vòng trong khép kín của một phản ứng vận động,
thời gian cho mỗi phản ứng vận động này tùy thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau
như: Đối phương, trình độ năng lực, tình huống thi đấu trên sân. Nhưng yếu tố
sức nhanh không chỉ phụ thuộc vào quá trình phản ứng mà còn phụ thuộc vào
13
sức nhanh động tác. Đó là một trong những cơ sở để quyết định trong nhiều môn
thể thao không chu kỳ.
1.5. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 11 - 13.
1.5.1. Đặc điểm tâm lý.
Ở lứa tuổi này các em có bước nhảy vọt về thể chất và tinh thần. Điều đó
được thể hiện ở chỗ các em đang tách dần lứa tuổi ấu thơ sang tuổi trưởng
thành. Đây là giai đoạn không phải trẻ con cũng không phải người lớn. Các
phẩm chất mới về ý chí, tình cảm đang hình thành, ở lứa tuổi này sự phát triển
diễn ra phức tạp, đời sống tâm lý còn mâu thuẫn, có phần thay đổi đột biến.
Các em muốn khẳng định tính độc lập của bản thân, điều đó có ảnh hưởng
dến ý thức và thái độ của bản thân mình. Các em luôn hiếu động phá phách,
nghịch ngợm. Tuy vậy, nếu được giáo dục đúng đắn thì không những khắc phục
được những tiêu cực trên mà còn khơi dậy được yếu tố tích cực trên tâm hồn và
tình cảm của các em.
Ở lứa tuổi này hệ thống thần kinh có quá trình hưng phấn cao hơn ức chế
việc tiếp thu những cái mới nhanh hơn nhưng lại rất chóng quên, các em dễ bị
bên ngoài tác động vào nên có sự đánh giá cao về mình khi thành công dễ gây ra
tự mãn, khi thất bại lại rụt rè tự ti, chính sự đánh giá quá cao sẽ gây tác động
không tốt trong tập luyện thể thao. Vì thế khi tiến hành giáo dục và huấn luyện
về lứa tuổi này cần chú ý uốn nắn, nhắc nhở, chỉ bảo định hướng và tác động
14
đến các em, giúp các em hoàn thành các bài tập. Từ đó, các em sẽ không bị chán
nản, có định hướng, có động cơ tập luyện tốt, qua đó nâng cao hiệu quả bài tập.
1.5.2. Đặc điểm sinh lý.
Lứa tuổi này đang trên con đường phát triển nên chưa đầy đủ và hoàn
thiện như người trưởng thành. Vì vậy cần chú trọng đưa ra lượng vận động phù
hợp để có lợi cho sự phát triển sau này. Do đó yêu cầu đặt ra cần có sự vượt
ngưỡng ở lứa tuổi này.
- Hệ thần kinh: Bộ não của các em trong lứa tuổi này đang trong giai
đoạn phát triển đối với các vùng dưới vỏ não và còn yếu, vì vậy sự tập trung chú
ý của các em chưa bền, sức nhanh và tốc độ ổn định nhất, các phản xạ có điều
kiện tương đối bền vững, các loại ức chế bên trong thể hiện rõ rệt ở lứa tuổi này,
hệ thống tín hiệu thứ hai phát triển mạnh mẽ nhờ học, đọc, viết. Các em đã có
khả năng mô tả và tiếp thu bẳng ngôn ngữ các cảm giác vận động. Giáo dục thể
chất làm cho sự phối hợp giữa hai hệ thống tín hiệu tính tế hơn và mở rộng hơn
ảnh hưởng của lời nói đến chức năng vận động.
- Hệ tuần hoàn: Hệ này đã phát triển, nhưng chưa cân xứng với hệ thần
kinh. Cơ tim của các em còn nhỏ, tính đàn hồi yếu, van tim chưa phát triển,
dung tích và thể tích còn nhỏ, nhịp đập của tim nhanh (80 – 85 lần/phút) cơ năng
hoạt động của tim chưa ổn định do sự co bóp yếu. Vì vậy cần áp dụng các bài
tập trong thời gian ngắn, khi sử dụng cần tính toán hợp lý.
15
- Hệ hô hấp: Hệ hô hấp phát triển chưa đầy đủ nhất là phổi các ngăn của
buồng, túi phổi còn nhỏ. Vì vậy khi hoạt động tần số hô hấp của các em tăng lên
nhiều và nhanh chóng mệt mỏi.
- Hệ vận động: Xương của các em tuy đã cứng nhưng vẫn trong giai đoạn
đang phát triển mạnh mẽ về chiều dài, lớp sụn bọc khớp dày, sụn chân đang đòi
hỏi điều kiện tốt để phát triển.
Đặc biệt các em ở lứa tuổi này xương chưa kết hóa đầy đủ, dễ bị di
chuyển méo lệch. Vì vậy hạn chế các bài tập làm phát triển quá mức hệ thống cơ
bản, không bắt các em mang vác quá nặng hoặc làm động tác tĩnh, căng thẳng
một bộ phận quá lâu. Những hoạt động đấy dễ làm xương phát triển dị hình và
kìm hãm xương phát triển nhanh chóng về chiều dài cơ bắp các em còn mảnh
dẻ, phát triển chậm hơn sự phát triển của xương, chủ yếu phát triển về chiều dài.
Thông qua việc tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 13 – 15 chúng
tôi nhận thấy việc đưa nội dung bài tập vào để giáo dục sức nhanh cho các em là
hợp lý.
16
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu.
Để giải quyết 2 mục tiêu nghiên cứu trên đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau.
2.1.1. Phương pháp đọc và tham khảo tài liệu.
Sử dụng phương pháp tham khảo tài liệu để có được thông tin cần thiết về
cơ sở lý luận của đề tài. Phương pháp này giúp cho việc hệ thống hóa các kiến
thức có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, hình thành cơ sở lý luận, phương
pháp kiểm tra, đánh giá đề xuất xây dựng giả thiết khoa học, xác định mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu cũng như phục vụ cho việc phân tích kết quả nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp này có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn các bài tập
phù hợp.
2.1.2. Phương pháp quan sát sư phạm.
Để việc nghiên cứu lựa chọn bài tập được tốt đề tài đã tiến hành quan sát
sư phạm các buổi tập của một số câu lạc bộ bóng đá trẻ nhằm rút ra các thông
tin cần thiết trong việc huấn luyện sức nhanh cho các cầu thủ Bóng đá lứa tuổi
11 – 13 tỉnh Nam Định. Đồng thời sử dụng phương pháp này quan sát quá trình
tập luyện của các VĐV để kịp thời uốn nắn sửa chữa.
17
2.1.3. Phương pháp phỏng vấn.
Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn gián tiếp và phỏng vấn gián tiếp:
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp nhằm thu thập số liệu cần nghiên cứu, nội
dung phỏng vấn bao gồm các vấn đề nghiên cứu cụ thể theo phiếu phỏng vấn.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp chúng tôi tiến hành trao đổi trực tiếp với
các chuyên gia, HLV ở các tỉnh thành phố có phong trào bóng đá phát triển.
2.1.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Đề tài sử dụng phương pháp này để kiểm nghiệm, đánh giá tìm hiều tính
hiệu quả trong quá trình thực nghiệm các bài tập vào thực tế nhằm phát triển
sức nhanh chuyên môn cho VĐV. Sau khi đã có chất lượng và xác định được bài
tập, đề tài tiến hành phân nhóm và tổ chức cho các em tập luyện tổng số 20 em.
+ Nhóm đối chiếu: Gồm 10 em tập các bài tập do ban huấn luyện của đội
đề ra.
+ Nhóm thực nghiệm: Gồm 10 em tập các bài tập do đề tài đưa ra lựa chọn.
2.1.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
Đề tài sử dụng phương pháp kiểm tra sư phạm cùng với phương pháp
quan sát sư phạm để đo đạc và kiểm tra thành tích các bài tập cũng như kiểm tra
để tiến hành phân nhóm trước thực nghiệm và kiểm tra kết quả sau thực nghiệm.
2.1.6. Phương pháp toán học thống kê.
Chúng tôi sử dụng các công thức tính:
18
- Số trung bình cộng.
x
x
i
n
Trong đó:
Là số trung bình.
X :
n: Là số lượng đối tượng quan sát.
: là dấu hiệu tổng.
Xi: Là giá trị của từng cá thể.
- Phương sai :
n
(x
2
i
x)2
i 1
Với n<30
n 1
- Độ lệch chuẩn:
2
- Công thức tính hệ số tương quan:
r
(x
(x
A
A
x A )( x B x B )
x A ) 2 (xB xB ) 2
19
2.2. Tổ chức nghiên cứu.
2.2.1. Thời gian nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện từ tháng 11/2009 đến tháng 05/2011 chia làm 3
giai đoạn:
- Giai đoạn 1: từ tháng 11/2009 đến tháng 03/2010:
+ Chọn tên đề tài
+ Lập đề cương nghiên cứu
+ Xây dựng và bảo vệ đề cương trước hội đồng khoa học
- Giai đoạn 2: Từ tháng 03/2010 đến tháng 12/2010:
+ Đọc tham khảo tài liệu.
+ Xây dựng phiếu phỏng vấn.
+ Thu thập xử lý số liệu.
+ Giải quyết nhiệm vụ 1 và 2.
- Giai đoạn 3:
+ Hoàn chỉnh và bảo vệ luận văn trước hội đồng khoa học.
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu:
- Trung tâm đào tạo vận động viên Nam Định.
- Trường đại học TDTT Bắc Ninh.
2.2.3. Đối tượng nghiên cứu.
20
- Các bài tập phát triển sức nhanh cho nam VĐV bóng đá lứa tuổi 11 -13
- 20 VĐV bóng đá lứa tuổi 11 – 13 tỉnh Nam Định.
- Xem thêm -