ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
VŨ VĂN TÙNG
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG GIẢI PHÓNG KIM
LOẠI NẶNG TỪ CÁC BÃI THẢI, ĐUÔI QUẶNG
NGHÈO ĐỒNG SUNFUA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
HÀ NỘI, 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Vũ Văn Tùng
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG GIẢI PHÓNG KIM LOẠI
NẶNG TỪ CÁC BÃI THẢI, ĐUÔI QUẶNG NGHÈO
ĐỒNG SUNFUA
Chuyên ngành: Hóa Môi trường
Mã số: 60 44 41
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Hồng Côn
Hà Nội, 2011
MỤC LỤC
Danh mục các bảng………………………………………………………… i
Danh mục các hình vẽ, đồ thị………………………………………………. ii
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………… 1
Chương 1. TỔNG QUAN………………………………………………….. 3
1.1. Quặng sunfua ………………………………………………………….
3
1.1.1. Đặc điểm chung ……………………………………………………..
3
1.1.2. Một số quặng đồng sulfua…………………………………………… 5
1.2.3. Trữ lượng và phân bố quặng sulfua ở Việt Nam ...............................
9
1.2. Tình trạng ô nhiễm tại các vùng lân cận và các khu vực khai thác
quặng……………………………………………………………………….. 10
1.2.1. Tại Việt Nam………………………………………………………… 11
1.2.2. Trên thế giới…………………………………………………………. 13
1.3. Quá trình phong hoá quặng sulfua..........................................................
15
1.3.1. Quá trình phong hoá............................................................................. 15
1.3.1.1. Phong hoá vật lý................................................................................ 15
1.3.1.2. Phong hoá hoá học............................................................................
16
1.3.1.3. Phong hoá sinh học...........................................................................
19
1.3.2. Khái quát quá trình biểu sinh các mỏ sulfua........................................ 19
1.3.3. Oxi hoá các khoáng vật đồng sulfua....................................................
20
1.4. Ảnh hưởng của kim loại nặng đến môi trường và cơ thể sống………... 21
1.5. Giới thiệu một số kim loại nặng và ảnh hưởng của chúng lên cơ thể
sống và con người…………………………………………………………..
22
Chương 2. THỰC NGHIỆM……………………………………………….. 34
2.1. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………….
34
2.2. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………… 34
2.3. Cơ sở phương pháp luận……………………………………………….
34
2.4. Danh mục hoá chất, thiết bị cần thiết cho nghiên cứu…………………
35
2.5. Thực nghiệm…………………………………………………………...
36
2.6. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………. 38
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN………………………………….
41
3.1. Quá trình kết tủa, cộng kết, hấp phụ của các nguyên tố kim loại nặng..
41
3.1.1. Quá trình oxi hoá - thuỷ phân và các dạng kết tủa của sắt…………... 41
3.1.2. Khảo sát ảnh hưởng nồng độ sắt(II) đến khả năng tách loại một số
kim loại nặng Zn, Cu, Pb, As, Cd, Mn……………………………………... 41
3.1.3. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của pH đến khả năng tách loại một số
kim loại nặng Zn, Cu, Pb, As, Cd, Mn……………………………………... 43
3.2. Nghiên cứu khả năng phong hoá giải phóng các kim loại nặng trên mô
hình bãi thải, đuôi quặng nghèo chalcopyrit trong điều kiện ngập nước…... 45
3.2.1. Sự biến thiên pH và nồng độ của các kim loại nặng trong quá trình
phong hoá trên mô hình các bãi thải, đuôi quặng nghèo chalcopyrit………. 45
3.2.2. Sự biến thiên nồng độ của sulfat SO42-………………………………
50
3.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phong hoá giải phóng các kim
loại nặng ra môi trường nước trên mô hình bãi thải, đuôi quặng nghèo
chalcopyrite trong điều kiện ngập nước……………………………………. 52
3.2.2.1. Ảnh hưởng của pH đến sự giải phóng kim loại nặng……………… 52
3.2.2.2. Ảnh hưởng của photphat đến quá trình giải phóng kim loại nặng ... 54
3.3. Nghiên cứu khả năng giải phóng kim loại nặng từ quặng nghèo
chalcopyrite trong điều kiện xung………………………………………….. 56
3.3.1. Sự biến thiên pH và nồng độ các kim loại trong quá trình phong hoá
ở điều kiện xung……………………………………………………………. 56
3.3.2. Sự biến thiên nồng độ sulfat trong điều kiện xung…………………..
61
3.4. So sánh khả năng giải phóng kim loại từ hai điều kiện phong hoá các
bãi thải, đuôi quặng nghèo chalcopyrite……………………………………
62
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………
70
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 1.1
Mức độ ô nhiễm đất nông nghiệp do khai thác mỏ
12
Bảng 1.2
Nồng độ trung bình của các kim loại nặng trong đất và cây
14
trồng ở Nyakabale
Bảng 2.1
Danh mục thiết bị cần thiết cho nghiên cứu
35
Bảng 2.2
Danh mục hoá chất cần thiết cho nghiên cứu
35
Bảng 2.3
Thành phần của nước mưa
36
Bảng 3.1
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nồng độ Fe(II) đến khả
41
năng tách loại Zn, Cu, Pb, As, Cd, Mn
Bảng 3.2
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của pH đến khả năng tách loại
43
Zn, Cu, Pb, As, Cd, Mn
Bảng 3.3
Sự biến thiên pH và nồng độ các kim loại nặng trong điều
46
kiện ngập nước
Bảng 3.4
Sự biến thiên nồng độ của sulfat trong điều kiện ngập nước
50
Bảng 3.5
Ảnh hưởng của pH đến quá trình giải phóng kim loại từ
52
quặng trong điều kiện ngập nước
Bảng 3.6
Ảnh hưởng của photphat đến khả năng giải phóng kim loại
54
từ quặng
Bảng 3.7
Sự biến thiên pH và nồng độ các kim loại nặng trong điều
kiện xung
57
Bảng 3.8
Sự biến thiên nồng độ của sulfat trong điều kiện xung
61
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình
Hình 2.1
Tên hình
Trang
Thiết bị cho quá trình phong hoá giải phóng kim loại
37
trong điều kiện ngập nước
Hình 2.2 a,b
Đường chuẩn xác định hàm lượng sulfat
40
Hình 3.1
Ảnh hưởng của nồng độ Fe(II) đến hiệu suất tách loại Zn,
42
Cu, Pb, As, Cd, Mn
Hình 3.2
Ảnh hưởng của pH đến khả năng hấp phụ và cộng kết Zn,
44
Cu, Pb, As, Cd, Mn
Hình 3.3 a,b
Biến thiên của pH và nồng độ các kim loại trong điều kiện
47
ngập nước
Hình 3.4
Biến thiên hàm lượng sulfat trong điều kiện ngập nước
Hình 3.5 a, b Ảnh hưởng của pH đến quá trình giải phóng các kim loại
51
53
nặng trong điều kiện ngập nước
Hình 3.6 a, b Ảnh hưởng của photphat đến quá trình giải phóng các kim
55
loại nặng trong điều kiện ngập nước
Hình 3.7 a, b Sự biến thiên của pH và nồng độ các kim loại nặng trong
59
điều kiện xung
Hình 3.8
Biến thiên hàm lượng sulfat trong điều kiện xung
62
Hình 3.9
Biến thiên nồng độ kim loại Cu trong điều kiện ngập nước
63
và xung
Hình 3.9
Biến thiên nồng độ kim loại Fe trong điều kiện ngập nước
63
và xung
Hình 3.11
Biến thiên nồng độ kim loại Zn trong điều kiện ngập nước
64
và xung
Hình 3.12
Biến thiên nồng độ kim loại Pb trong điều kiện ngập nước
và xung
64
Hình 3.13
Biến thiên nồng độ kim loại Mn trong điều kiện ngập
65
nước và xung
Hình 3.14
Biến thiên nồng độ kim loại Co trong điều kiện ngập nước
65
và xung
Hình 3.15
Biến thiên nồng độ kim loại Ni trong điều kiện ngập nước
66
và xung
Hình 3.16
Biến thiên nồng độ kim loại As trong điều kiện ngập nước
66
và xung
Hình 3.17
Biến thiên nồng độ kim loại Cd trong điều kiện ngập nước
67
và xung
Hình 3.18
Biến thiên nồng độ kim loại Cr trong điều kiện ngập nước
và xung
67
MỞ ĐẦU
Dân số thế giới tăng nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
toàn cầu. Điều đó đòi hỏi lượng hàng hoá phải sản xuất nhiều để đáp ứng yêu cầu
tiêu dùng. Vì vậy, việc khai thác khoáng sản ngày càng được đẩy mạnh.
Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên là một trong những nhân tố để thúc
đẩy nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia trên thế giới. Nước ta là một trong
những nước có trữ lượng tài nguyên khoáng sản vào loại lớn và đa dạng trên thế
giới. Tuy nhiên lượng khoáng sản này lại nằm rải rác trong các khu vực với trữ
lượng nhỏ nên không kinh tế trong việc khai thác. Đồng thời, việc khai thác khoáng
sản đã và đang để lại những hệ lụy về môi trường, một phần lý do là do quy mô
khai thác nhỏ khiến cho việc đầu tư công nghệ không lớn, dẫn đến hiệu suất khai
thác thấp mà môi trường bị ảnh hưởng nặng nề. Bên cạnh việc đổ thải ra một lượng
chất rắn khổng lồ thì vấn đề ô nhiễm bởi các kim loại nặng và các tác nhân hoá học
là một vấn đề hết sức nghiêm trọng hiện nay.
Trong tự nhiên có khoảng hơn 70 kim loại nặng, đó là các kim loại có tỉ khối
lớn hơn 5 gam/cm3. Kim loại nặng có hầu hết trong các mỏ khoáng sản với hàm
lượng khác nhau, tuỳ thuộc vào từng loại khoáng sản và từng vùng địa chất khác
nhau. Trong các kim loại nặng thì chỉ có một số nguyên tố là cần thiết cho các sinh
vật ở một ngưỡng nào đấy, chúng là các nguyên tố vi lượng như: Cu, Zn, Mn,
Mo…..Đa số các kim loại nặng với đặc tính bền vững trong môi trường, khả năng
gây độc ở liều lượng thấp và tích luỹ lâu dài trong chuỗi thức ăn, được thế giới xem
là một chất thải nguy hại.
Tuy nhiên khả năng gây độc của các kim loại nặng hoàn toàn phụ thuộc vào
trạng thái tồn tại của chúng. Trong hoạt động khai thác khoáng sản, con người đã
làm biến đổi trạng thái tồn tại của các kim loại nặng, chuyển chúng thành các dạng
ion tự do đi vào môi trường nước hoặc các hạt bụi có kích thước nhỏ bé trong
không khí đã và đang làm suy giảm chất lượng môi trường.
Do năng lực có hạn, khai thác phần lớn là thủ công, nên đa số các mỏ hiện
nay chỉ lấy được phần quặng giàu nhất, bỏ đi toàn bộ các phần quặng nghèo và
1
khoáng sản đi cùng, dẫn đến không tận thu. Như vậy, thiệt hại về kinh tế là đáng kể.
Nhưng lo ngại hơn, với quặng nghèo không được tận thu, theo thời gian nó sẽ ảnh
hưởng xấu đến môi trường xung quanh, ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và
động thực vật. Với những lý do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu khả
năng giải phóng kim loại nặng từ các bãi thải, đuôi quặng nghèo đồng sulfua”.
2
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Quặng sunfua [9]
1.1.1. Đặc điểm chung
Hiện nay, số lượng các khoáng vật sulfua và các hợp chất tương tự được tìm
thấy lên tới 350. Theo tính toán của Vernadsky, chúng chiếm 0,15% trọng lượng
toàn bộ vỏ Trái đất. Các kim loại đặc trưng trong sulfua là Fe, Cu, Pb, Zn, Sb, Ag,
Bi, Co, Ni, trong đó Fe đóng vai trò quan trọng.
Một số kim loại trong sulfua có số phối trí 6, như Fe trong khoáng vật
pyrotin Fe1-nS; có số phối trí 3 như Pb trong galenit PbS; Hg, Cu, Ag có số phối trí
4, đôi khi có số phối trí 2, trong trường hợp này sẽ tạo nên mạch xoắn; còn As, Sb,
Bi có số phối trí 3. Trong những sulfua tồn tại liên kết cộng hoá trị - phân tử, các
nguyên tố thường có cùng số phối trí, ví dụ trong realgar (As4S4)
Sulfua có thể là những hợp chất đơn giản, nhưng các sulfua đơn giản có thể
tạo thành hợp chất kép; hoặc những hợp chất chứa nhiều nguyên tố khác nhau gọi là
sulfo – muối.
Sulfua kép
Sulfo – muối
Covelin Cu2S.CuS2
Pyrargyrit Ag3SbS3
Chalcopyrit Cu2S.Fe2S3
Burnonit PbCuSbS3
Trong một số sulfua, lưu huỳnh bị mất đi khi nung nóng, như pyrit (FeS2),
arsenopyrit (FeAsS). Vernadsky coi chúng là các hợp chất của H2S2.
Đa số khoáng vật sulfua đều kết tinh ở các hệ tinh thể hạng cao, trừ một số
khoáng vật và sulfo – muối kết tinh ở các hệ tinh thể hạng thấp. Khoáng vật sulfua
thường có dạng tinh thể đẹp, đặc biệt là sulfua và disulfua – (sulfua sắt, niken,
coban, kẽm, chì). Các loại sulfo - muối và sulfua của nguyên tố bán kim loại thường
có dạng tập hợp hạt, sợi, vảy. Đối với sulfua thường gặp các loại song tinh đa hợp,
liên tinh song song, liên tinh của các khoáng vật khác nhau – liên tinh của pyrit –
marcasit, tetrahedrit – sphalerit, tetrahedrit – chalcopyrit.
3
Hầu hết khoáng vật sulfua có màu và đó là đặc điểm để xác định khoáng vật.
Các sulfua coban, niken (ít Fe) có màu trắng bạc hoặc xám trắng. Sulfua sắt (ít Cu)
có màu vàng. Sulfua bạc, chì có màu xám chì. Sulfua thuỷ ngân có màu đỏ đặc
trưng. Trong thành phần khoáng vật sulfua nếu có Cu2+ thì có màu xanh, tím đỏ…
Khoáng vật sulfua thường không trong suốt. Nhưng khoáng vật trong suốt chiếm
lượng không đáng kể, như sphelarit, cinabar, realgar, auripigment… Đa số khoáng
vật sulfua với mối liên kết cộng hoá trị – kim loại có ánh kim, tính dẫn điện cao, có
tính bán dẫn. Sulfua có cấu trúc lớp, cấu trúc dải có độ cứng thấp từ 1 – 2,5. Sulfua
đơn với cấu trúc phối trí có độ cứng trung bình từ 2 – 4. Còn disulfua và hợp chất
tương tự có độ cứng từ 6 – 6,5. Sulfua đơn với mối liên kết cộng hoá trị, cấu trúc
phối trí (sphalerit), cấu trúc mạch (cinabar), mối liên kết phân tử, cấu trúc lớp
(auripigment), mối liên kết phân tử, cấu trúc đảo (realgar) và cấu trúc đảo (proustit)
có ánh kim cương, bán trong suốt, có màu rực rỡ, tính giòn cao, độ cứng từ thấp đến
trung bình. Đa số khoáng vật có tỉ trọng cao (tới 8,5), trừ sulfua của arsen.
Sulfua chủ yếu có nguồn gốc nhiệt dịch. Điều này chứng tỏ các kim loại
nặng được di chuyển dưới dạng các chất bốc. Khi nhiệt độ và áp suất hạ thấp thì
chúng tạo nên nhiệt dịch từ đó kết tinh sulfua. Thực nghiệm đã chứng minh các kim
loại nặng di chuyển dưới dạng hợp chất phức tạp với Cl, F, Br… Ngoài ra, sulfua
còn được thành tạo trong quá trình magma, đôi khi trong điều kiện ngoại sinh, trong
đới làm giàu sulfua thứ sinh và trong trầm tích. Sulfua còn có mặt trong thiên thạch
và đá Mặt Trăng. Trong điều kiện trên mặt đất sulfua và các hợp chất tương tự của
chúng không bền vững và dễ bị phá huỷ. Trong quá trình oxi hoá, chủ yếu chuyển
thành sulfat dễ hoà tan. Từ đó, tạo thành nên một loạt khoáng vật thứ sinh: oxit,
cacbonat, sulfat, arsenat, silicat và các kim loại tự sinh.
Hướng chung của quá trình phong hoá khoáng vật sulfua là dẫn tới giải
phóng lưu huỳnh. Do đó, trong các mỏ sulfua thấy có sự phân đới rõ ràng. Bắt đầu
từ đới oxi hoá:
RS + 2O2
→
RSO4
4
R – kim loại
Ở phần dưới đới oxi hoá, do H2SO4 và một số muối hoà tan tác dụng với đá
vây quanh, tạo nên một loạt khoáng vật mới và kim loại tự sinh.
Phổ biến hơn cả là các phản ứng sau:
1. 2CuSO4 + 2CaCO3 + 5H2O → Cu2(OH)2[CO3] + 2Ca[SO4]2H2O + CO2
Thạch cao
Malachit
2. CuSO4 + 2FeSO4 → Fe2(SO4)3 + Cu
3. ZnSO4 + CaCO3 + 2H2O → Zn[CO3] + Ca[SO4]2H2O
Smisthonit
Thạch cao
4. Ag2SO4 + 2FeSO4 → Fe2(SO4)3 + 2Ag
Các dung dịch H2SO4 và RSO4 thấm sâu xuống đến đới quặng nguyên sinh
(thấp hơn mực nước ngầm), ở đây sẽ xuất hiện H2S, và chúng sẽ tác dụng với quặng
nguyên sinh để tạo sulfua thứ sinh. Phản ứng chung của quá trình thành tạo sulfua
thứ sinh có thể viết như sau:
MSO4 + RS → RSO4 + MS (R, M là kim loại)
Phản ứng tạo thành một số sulfua thứ sinh
14CuSO4 + 5FeS2 + 12H2O → 12H2SO4 + 5FeSO4 + 7Cu2S
Chalcosin
CuSO4 + H2S → H2SO4 + CuS (Covenlin)
Ag2SO4 + Cu2S → Cu2SO4 + Ag2S (Argentit)
Do đó ở mỏ sulfua, tại ranh giới với quặng nguyên sinh có một đới làm giàu
quặng bởi hàm lượng lớn các kim loại và sulfua thứ sinh, đới này có giá trị lớn. Một
số nguyên tố như Ag, Cu tập trung trong đới làm giàu quặng nhiều hơn trong đới
quặng nguyên sinh.
1.1.2. Một số quặng đồng sulfua
1.1.2.1. Chalcosin
Chalcosin có hàm lượng Cu 79,8%. Trong thành phần thường có tạp chất Ag
và Fe. Biến thể nhiệt độ thấp có xếp cầu sáu phương biến dạng của S, nguyên tử Cu
và số phối trí 2. Biến thể nhiệt độ cao của chalcosin có cấu trúc gần với cấu trúc
ngược của flourit (Benlov, Grigoriew, 1948) và đặc trưng bởi sự thiếu hụt Cu.
5
Thành phần của chúng tương ứng với công thức Cu2-nS, có tên gọi là digenit (một
phần Cu+ được thay thế bởi Cu2+)
Chalcosin có tính dẻo, dẫn điện tốt, độ cứng và độ dẻo thấp.
Chalcosin thành tạo trong đới làm giàu quặng thứ sinh của mỏ đồng. Đôi khi
chalcosin được thành tạo trong qúa trình nhiệt dịch, cộng sinh với bornit – Cu5FeS4,
quặng đồng xám, covelin, chalcopyrit và một số sulfua khác. Trong quá trình oxi
hoá chalcosin bị biến thành malachit Cu2[CO3](OH)2, cuprit Cu2O, đồng tự sinh và
khoáng vật khác.
Ở Việt Nam, chalcosin có ở mỏ đồng Bản Xang, Bản Phúc, gần Tạ Khoa
(Sơn La), mỏ Sinh Quyền (Lào Cai).
1.1.2.2. Chalcopyrit CuFeS2
Chalcopyrit có hàm lượng Cu – 34,6%. Chalcopyrit thường chứa tạp chất
đồng hình Au, Ag. Cấu trúc gần giống với cấu trúc của sphalerit, trong đó ô mạng
cơ sở gấp đôi lên và vị trí Zn được thay thế bằng Cu, Fe. Trong biến thể lập phương
talnakhit, sự phân bố Fe và Cu không trật tự.
Chalcopyrit có màu vàng đồng thau, có vết vạch đen hoặc đen xanh, ánh
kim. Chalcopyrit thường có màu sặc sỡ do bị oxi hoá, chalcopyrit khác pyrit về màu
sắc và độ cứng thấp.
Chalcopyrit có nguồn gốc magma, trong đá mafic, cộng sinh với pyrotin,
pentlandit. Trong skarn, chalcopyrit cộng sinh với pyrit, pyrotin, sulfua chì, kẽm,
đồng. Ngoài ra chalcopyrit còn có trong các thành tạo ngoại sinh, trong đá trầm tích.
Trong đới oxi hoá, chalcopyrit bị biến đổi, tạo nên đồng tự sinh, chalcosin, covelin,
cuprit, malachit, azurit, crysocola.
Chalcopyrit có mặt ở Bản Xang, Bản Phúc (Sơn La), mỏ đồng Sinh Quyền
(Lào Cai) gần Tạ Khoa.
Chalcopyrit là quặng đồng quan trọng. Cùng với Cu còn có Ag, In và một số
nguyên tố khác. Đồng được dùng trong công nghiệp điện: động cơ điện, dây dẫn
điện…; tạo hợp kim đồng – kẽm (đồng thau chứa 55 – 99% Cu), hợp kim Cu – Sn
gọi là đồng đen, đồng điếu để đúc chuông, đúc tượng.
6
1.1.2.3. Stanin Cu2FeSnS4
Stanin có thành phần hoá học: Sn – 27,61%; Cu – 29,58%. Đôi khi có tạp
chất Zn tới vài phần trăm. Ngoài ra còn có các tạp chất Sb, Cd, Pb, Ag.
Stanin có cấu trúc giống cấu trúc của sphalerit, trong đó vị trí 4 nguyên tử
kẽm được thay thế bằng nguyên tử Cu, Fe và Sn.
Stanin dẫn điện tốt. Khác quặng đồng xám bởi có ánh xanh tại những vết vỡ.
Stanin có nguồn gốc nhiệt dịch, cộng sinh với casiterit, sphalerit, chalcopyrit,
pyrotin và một số sulfua khác.
Cùng với casiterit, stanin là nguồn thu hồi thiếc.
1.1.2.4. Bornit Cu5FeS4
Bornit có hàm lượng Cu – 64%. Quặng đồng có màu sặc sỡ. Trong thành
phần đôi khi có tạp chất đồng hình như Ge, Se, Te. Có bốn biến thể đa hình. Cấu
trúc biến thể đa hình lập phương nhiệt độ cao bền vững ở nhiệt độ trên 2280C, có
dạng cấu trúc tương tự như cấu trúc ngược của flourit. Đối với biến thể bốn phương
nhiệt độ thấp, nguyên tử Fe có số phối trí 6, còn nguyên tử Cu có số phối trí 2. Biến
thể ba phương được đặc trưng bởi số phối trí 4 của nguyên tử Fe và Cu trong các
khối lớp [Cu3FeS4]2- được liên kết với nhau bởi cation Cu+ và có công thức
Cu2[Cu3FeS4]. Những đặc điểm của cấu trúc đã giải thích tính đồng hình phổ biến
của những biến thể nhiệt độ cao với chalcosin và biến thể ba phương với
chalcopyrit. Những khoáng vật này thường có mặt ở dạng bao thể trong các sản
phẩm phân huỷ dung dịch rắn.
Bornit có trong mạch nhiệt dịch, mỏ đa kim loại, có trong đới làm giàu
quặng thứ sinh của mỏ sulfua, có trong cát kết chứa đồng.
1.2.2.5. Enargit Cu3[AsS4]
Enargit có thành phần hoá học: Cu – 48,3%; As – 19,1%; S – 32,6%.
Thường chứa tạp chất Sb, Sc. Cấu trúc tinh thể của enargit tương tự cấu trúc của
wurtzit: ở vị trí 3 nguyên tử Zn là ion Cu+ với số phối trí 4, vị trí thứ 4 là gốc anion
[AsS4]3-.
Enargit có màu xám thép – đen sắt, giòn, dẫn điện kém, ánh nửa kim loại.
7
Enargit có nguồn gốc nhiệt dịch nhiệt độ trung bình và thấp. Thường cộng
sinh với các sulfua đồng khác. Trong đới oxi hoá, enargit được thay thế bằng
malachit, azurit và khoáng vật thứ sinh khác.
1.1.2.6. Tenantit Cu6+Cu62+As4S13 và tetrahedrit Cu6+Cu62+Sb4S13
Hai khoáng vật này là đại diện chủ yếu của quặng đồng xám. Thành phần
chủ yếu của hai khoáng vật là Cu – 45,77%; Sb – 29,22%; S – 25,01% (tetrahedrit)
và Cu – 51,57%; As – 20,26%; S – 28,17% (tenantit). Ngoài ra trong thành phần có
tới 17% Ag (freibergit) đến 20% Ag (schwazit) tới 10% Zn và nguyên tố khác.
Trong cấu trúc của quặng đồng xám, 6 tứ diện Cu+S4 liên kết với nhau bằng
đỉnh chung theo kiểu sphalerit. Trong cấu trúc 4 anion [AsS3]4- tạo thành tháp 3
phương riêng lẻ và nguyên tử S được bao quanh bởi 6 ion Cu2+.
Tenantit và tetrahedrit có nguồn gốc nhiệt dịch nhiệt độ trung bình, thường
cộng sinh với pyrit, chalcopyrit, galenit, vàng, barit, calcit và một số khoáng vật
khác. Quặng đồng xám còn thành tạo trong qúa trình ngoại sinh, trong đới làm giàu
quặng của mỏ sulfua. Quặng đồng xám không tạo nên mỏ độc lập.
1.1.2.7. Covelin Cu2+Cu2+S[S2]
Covelin có thành phần Cu – 66,48%; S – 33,52%, thường chứa tạp chất Fe.
Covelin có thể viết gọn là CuS.
Covelin có cấu trúc lớp và được tạo nên từ hai loại ion của lưu huỳnh: S2- và
[S2]2- cùng với hai loại ion đồng: Cu+ và Cu2+. Mỗi ion Cu2+ được bao quanh bởi 3
ion S2- và tạo nên một tam giác đều. Ba tam giác lại liên kết với nhau qua đỉnh tạo
nên lớp. Giữa các lớp có hai lớp tứ diện với Cu+, các mặt đáy được tạo nên từ các
ion [S2]2- có dạng lăng trụ ba phương.
Covelin là khoáng vật đặc trưng cho quá trình ngoại sinh, đới làm giàu quặng
mỏ của sulfua. Trong đới oxi hoá, covelin cộng sinh với cuprit. Hai khoáng vật này
được thành tạo do biến đổi chalcosin:
4Cu2S + O2 → 4CuS + 2Cu2O
Covelin
8
cuprit
Covelin có nguồn gốc nhiệt dịch. Covelin cũng có thể là sản phẩm của quá
trình thoát khí:
H2S + CuSO4 → CuS + H2SO4
Trong nhiều trường hợp covelin có mặt trong hầu hết các mỏ đồng.
1.2.3. Trữ lượng và phân bố quặng sulfua ở Việt Nam
Quặng đồng sulfua ở nước ta thuộc vào 4 loại có nguồn gốc khác nhau là:
magma, thuỷ nhiệt, trầm tích, biến chất. Quặng đồng phân tán ở các tỉnh Cao Bằng,
Lạng Sơn, Sơn La, Quảng Ninh, Bắc Giang, Quảng Nam, Đà Nẵng, Lâm Đồng,
Hoà Bình....Các mỏ quặng đồng ở những tỉnh này thường có trữ lượng nhỏ, thành
phần khoáng đa dạng, bao gồm nhiều loại như quặng sulfua, cacbonat, nhưng
thường gặp là quặng chalcopyrit. Tổng trữ lượng các quặng đã thăm dò ước đạt
khoảng 600.000 tấn.
Mỏ đồng Sinh Quyền (Lào Cai)
Nằm ở hữu ngạn Sông Hồng, cách Lào Cai 25 km về phía Tây Bắc. Khu mỏ
Sinh Quyền được đánh giá là vùng quặng hỗn hợp gồm ba thành phần chính là
đồng, đất hiếm, vàng. Đồng chủ yếu là ở dạng sulfua (khoáng chalcopyrit). Mỏ đã
được phát hiện, tìm kiếm và thăm dò từ những năm 1961 với trữ lượng ước tính
52,7 triệu tấn, hàm lượng đồng trung bình khoảng 1,03%, tương đương 551,2 nghìn
tấn Cu, kèm theo 334 nghìn tấn R2O, 35 tấn Au, 25 tấn Ag, 843 nghìn tấn S. Tuy
nhiên, đến các năm 1992 – 1994 công ty Auridian đã thăm dò bổ sung và tính được
trữ lượng khoảng 91,5 triệu tấn quặng với hàm lượng đồng ~ 1,05%, Au ~ 0,5
gam/tấn, ngoài ra còn có đất hiếm, Mo, Co, Ag.
Mỏ đồng Bản Phúc
Là vùng tụ khoáng đồng – niken dạng sulfua lớn nhất nước ta, nằm ở khu
vực Tà Khoa, tỉnh Sơn La. Vùng này đã được thăm dò từ những năm 1959 – 1963.
Các thân quặng nằm ở độ cao 100 – 520 m trên mực nước biển.
Khối núi quặng Bản Phúc là một trong những khối núi quặng hình elip lớn
nhất, dài 940 m, rộng 440 m, có tổng diện tích 0,248 km2. Các nghiên cứu cho thấy,
thân quặng chính của mỏ Bản Phúc gồm chủ yếu là pyrhotit, penlandit và
9
chalcopyrit với thành phần quặng như sau: Cu: 0,75 – 1,63%; Ni: 0,49 – 4,78%; S:
24,98%; Co: 0,02 – 0,2%; Se: 0,004%.
Quặng phân tán rải rác xung quanh thân quặng chính, ngoài đồng còn chứa
các khoáng với thành phần Fe, Zn, Pb, Co, Ni... như sau: pyrit, sphalerit, glen,
nicolit, skuterudit, ramebergit, violarite, thạch anh... Thành phần loại quặng này bao
gồm: Cu: 0,75%; Ni: 0,49%; Co: 0,02%; Se: 0,005%; Te: 0,0001%; Pt: 0 – 0,05
gam/tấn.
Tổng trữ lượng vùng tụ khoáng Bản Phúc ước đạt 3 triệu tấn quặng, với trữ
lượng kim loại trong quặng khoảng 200.000 tấn Ni - Cu. Trữ lượng đã khảo sát và
chứng minh được là: 115.000 tấn Ni, 41.000 tấn Cu, 161.000 tấn S, 3.400 tấn Co,
14 tấn Te, 67 tấn Se.
Hai điểm quặng Hồng Thu và Quang Tân Trai thuộc tỉnh Lai Châu đã
được khai thác từ thời xa xưa. Từ những năm 1990 trở lại đây, dân địa phương vẫn
khai thác tự do để lấy quặng đồng chất lượng cao. Quặng đồng ở đây có thành phần
như sau: Cu: 23-74%; Fe: 2-15%; Ag: 20-180 g/tấn; Ge: 1-75g/tấn.
Vùng tụ khoáng Vạn Sài thuộc Sơn La có trữ lượng ước tính khoảng 811
tấn, hàm lượng đồng đạt 1,53%.
Điểm quặng Bản Xàng thuộc Sơn La có quặng đồng tự sinh. Thành phần
quặng như sau: Cu: 86-98%; Au: 0,4 gam/tấn; Ag: 10 gam/tấn.
Vùng tụ khoáng Suối Nùng thuộc tỉnh Quảng Ngãi mới được phát hiện.
Thành phần khoáng vật chủ yếu là chalcopyrit có hàm lượng Cu đạt 1,04%, ngoài ra
còn có Ag, Au, As, Sn, Wf. Ước tính trữ lượng đồng khu vực này có thể lên đến vài
trăm ngàn tấn.
Ngoài các vùng quặng chính như trên, còn có nhiều điểm quặng khác với trữ
lượng nhỏ phân bố rải rác ở các tỉnh Thanh Hoá, Lạng Sơn, Lào Cai...
1.2. Tình trạng ô nhiễm tại các vùng lân cận và các khu vực khai thác quặng
Khoáng sản là tài nguyên của mỗi quốc gia. Từ xa xưa, loài người đã biết
khai thác các khoáng sản để phục vụ cho cuộc sống. Cuộc sống của con người càng
phát triển, dân số càng đông thì nhu cầu sử dụng nhiều và do đó việc khai thác được
10
đẩy mạnh. Trong những thập niên cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 với việc dân số tăng
nhanh, khai thác khoáng sản tăng mạnh đã làm ô nhiễm môi trường trầm trọng.
1.2.1. Tại Việt Nam
Việt Nam hiện nay có tới 5000 mỏ và điểm khoáng sản đang khai thác bao
gồm 60 loại khoáng sản khác nhau với khoảng 2.000 doanh nghiệp tham gia hoạt
động khai thác [7]. Mặc dù đóng góp của nền công nghiệp khai khoáng vào GDP
của Việt Nam chiếm khoảng 11% nhưng công nghiệp khai khoáng đang đứng trước
nhiều thách thức: khai thác sử dụng chưa có hiệu quả làm cho tài nguyên thiên
nhiên cạn kiệt; đặc biệt tác động xấu tới cảnh quan và môi trường, gây ô nhiễm
nguồn nước, không khí, đất đai, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học và nhiều nghành
kinh tế khác.
Từ đầu năm 2007, các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ Môi Trường –
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Đại
học Quốc gia Hà Nội đã lấy hàng trăm mẫu đất và cây tại các vùng mỏ để phân tích
thành phần, hàm lượng kim loại nặng. Qua phân tích cho thấy, tất cả các mỏ đều là
điểm nóng về ô nhiễm, điển hình là mỏ thiếc xã Hà Thượng và mỏ than núi Hồng bị
ô nhiễm asen nghiêm trọng, với hàm lượng asen trong đất gấp 17 – 308 lần tiêu
chuẩn cho phép của Việt Nam, thậm chí có nơi hàm lượng asen trong đất lên đến
15.166 ppm, gấp 1.262 lần theo quy định. Mỏ kẽm, chì làng Hích cũng có hàm
lượng chì gấp 186 lần tiêu chuẩn và kẽm 49 lần.
Việc khai thác mỏ thiếc, đuôi quặng thường chứa arsenopyrit (1 – 2%),
chalcopyrit (1%) và pyrit (10 – 15%) [3]. Các khoáng vật sulfua này bị oxi hoá tạo
ra dòng thải axit mỏ và dung dịch giàu kim loại. Sự lan toả của As và sự oxi hoá các
kim loại độc hại như Cu, Cd từ các dòng rỉ từ dòng thải axit mỏ qua các đống thải
cũng không được chú ý. Có nơi nước thải từ mỏ và xưởng tuyển được thải trực tiếp
ra cánh đồng lúa với hàm lượng asen gấp 30 lần nước bình thường. Ở mỏ thiếc Quỳ
Hợp, dòng thải của nhà máy được thải trực tiếp ra con suối gần đó. Hàm lượng As
trong chất thải rắn rất cao (355 mg/kg) so với hàm lượng được coi là không ô nhiễm
trên thế giới là 5 – 20 mg/kg.
11
- Xem thêm -