Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố...

Tài liệu Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố

.PDF
73
281
74

Mô tả:

LUẬN VĂN: Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Mở Đầu 1. Lý do chọn đề tài Quận 11 là một trong những quận nội thành có vị trí quan trọng về mọi mặt của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận có dân số đông, người dân lao động cần cù, đội ngũ cán bộ công nhân viên chức đông đảo; Đảng bộ lãnh đạo năng động, sáng tạo; giàu tiềm năng phát triển kinh tế và sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN) với nhiều ngành nghề, sản phẩm phong phú đa dạng. Đây là thế mạnh nổi bật để phát huy nội lực của Quận. Hơn 20 năm qua, nhất là thời kỳ 10 năm đổi mới (1986 - 1995), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Đảng bộ Quận 11 đã vận dụng đường lối đổi mới của Đảng, chính sách của Nhà nước, các Nghị quyết của Thành ủy sát hợp với tình hình địa phương, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp và đã khơi dậy mọi tiềm năng, phát huy các thế mạnh nên đã đẩy kinh tế CN - TTCN của Quận phát triển với những thành tựu to lớn. Thành tựu đó đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Thành phố trong quá trình triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Hoạt động kinh tế của Quận 11 dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, đã giúp cho quận trở thành một trong những quận tiêu biểu của Thành phố Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và sản xuất CN - TTCN. Do vậy, nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố, trực tiếp là của Đảng bộ Quận 11 trong lĩnh vực phát triển CN - TTCN trên địa bàn Quận 11 là cần thiết. Bởi lẽ điều đó sẽ góp phần khẳng định sự đúng đắn về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, đồng thời có thêm căn cứ thực tiễn giúp cho Đảng bộ Thành phố hoạch định các chủ trương đẩy mạnh hoạt động kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề này đã được Đảng bộ Thành phố, Đảng bộ Quận, các cấp, các ngành kinh tế địa phương bước đầu tổng kết trong các báo cáo hàng năm và báo cáo ở các kỳ Đại hội Đảng bộ Quận 11 trước đổi mới và từ đổi mới đến 1995, như các báo cáo Đại hội Đảng bộ lần I (7-1977), lần II (11-1979), lần III (5-1983), lần IV (10, 1986), lần V (61989), lần VI (11-1991)... Các báo cáo đó đã nêu lên quan điểm chỉ đạo của Đảng, tổng kết số liệu nhưng chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và đánh giá đầy đủ suốt cả quá trình 10 năm đổi mới (1986 - 1995). Đề tài chưa có ai nghiên cứu và thể hiện dưới hình thức công trình khoa học. Đi sâu tìm hiểu về sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đối với sự phát triển kinh tế CN - TTCN trên địa bàn Quận, đề tài vừa có giá trị khoa học là góp phần tổng kết lịch sử đổi mới ở địa phương, vừa mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng, hy vọng đóng góp hữu ích cho việc tổng kết thực tiễn thời kỳ đầu đổi mới phát triển kinh tế - xã hội ở Quận 11 và Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, nêu bật vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Quận 11 trong việc vận dụng, cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế của Đảng để phát triển sản xuất CN - TTCN của địa phương; đánh giá thành tựu và yếu kém trong việc tổ chức, lãnh đạo phát triển kinh tế CN - TTCN theo đường lối đổi mới của Đảng bộ Quận 11. Nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là trình bày một cách hệ thống quá trình đề ra các chủ trương, biện pháp, sự chỉ đạo của Đảng bộ Quận 11 đối với sự phát triển CN TTCN của Quận trong thời kỳ 1986 - 1995; những thành công, hạn chế, ý nghĩa và bài học, kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển một ngành kinh tế mũi nhọn của một quận thuộc thành phố lớn có tiềm năng kinh tế hàng đầu trong cả nước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ Quận 11 cả về chủ trương và biện pháp nhằm phát triển CN - TTCN trong giai đoạn lịch sử 1986 1995. Sự nghiên cứu, trình bày trong luận văn các hoạt động lãnh đạo kinh tế của Đảng bộ trước giai đoạn lịch sử đó là nhằm mục đích so sánh làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng bộ và thành tựu kinh tế của Quận trong 10 năm đổi mới. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng ta, luận văn trình bày, phân tích quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Quận 11 trong sự biến đổi của lĩnh vực CN - TTCN Quận 11 theo đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Từ đó làm rõ và nêu bật vai trò lãnh đạo năng động, sáng tạo của Đảng bộ trong lĩnh vực hoạt động kinh tế ở địa phương. Nguồn tài liệu chính mà luận văn sử dụng là các Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc; các Nghị quyết đại hội và hội nghị Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh; các Nghị quyết đại hội và hội nghị Đảng bộ Quận 11 từ sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhất là từ năm 1986 - 1995. Những báo cáo, tài liệu liên quan đến nội dung luận văn hiện lưu giữ ở ủy ban nhân dân Quận và ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; các ban ngành của Quận 11, Cục thống kê Thành phố và nhiều tài liệu liên quan khác. Các dữ kiện, số liệu thu thập qua khảo sát thực tế sản xuất CN - TTCN tại địa bàn Quận 11. Nguồn tài liệu được lập trong danh mục tư liệu tham khảo tỷ mỉ, cụ thể, theo đúng trật tự qui định. Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp so sánh, phương pháp tập hợp, thống kê số liệu, dữ kiện trong thực hiện mục tiêu, kế hoạch kinh tế của Quận 11 để nghiên cứu trình bày, phân tích chủ trương, biện pháp trong các Nghị quyết Đảng bộ. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn tập hợp, hệ thống đầy đủ những văn kiện, Nghị quyết quan trọng của Đảng bộ địa phương trước và trong 10 năm đổi mới; thống kê các số liệu phong phú, khá chính xác có giá trị nghiên cứu, phân tích làm rõ và nêu bật sự lãnh đạo của Đảng bộ Quận 11 trong việc phát triển CN - TTCN của Quận 11, một quận có những nét đặc thù, những thế mạnh quan trọng trong hoạt động kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn rút ra các bài học và một số kinh nghiệm quý của Đảng bộ trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo địa phương phát triển CN - TTCN. Đồng thời, luận văn đề cập một số kiến nghị, giải pháp nhằm đẩy mạnh sản xuất, phát triển CN-TTCN trên địa bàn Quận. Những bài học kinh nghiệm, kiến nghị, giải pháp này có giá trị vận dụng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Quận trong giai đoạn sau đó và hiện nay. Luận văn đóng góp tư liệu cho việc tuyên truyền giáo dục truyền thống của Đảng bộ, nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ Quận11 trong thời kỳ 10 năm đổi mới. Đề tài là một vấn đề lịch sử Đảng bộ địa phương, nhưng có liên quan mật thiết với Trung ương và cả nước. Quá trình diễn tiến của vấn đề tuy đã đi qua lịch sử, nhưng vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay và mãi mãi về sau với sự tồn tại, phát triển đi lên của nền kinh tế nước nhà. Vì vậy, luận văn mới chỉ là kết quả nghiên cứu bước đầu, và có những hạn chế nhất định. Tác giả luận văn xin sẵn sàng tiếp thu mọi ý kiến đóng góp để đề tài được tiếp tục nghiên cứu, mở rộng và hoàn thiện hơn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 TìNH HìNH, ĐặC ĐIểM QUậN 11 DƯớI Sự LãNH ĐạO CủA ĐảNG SAU 10 NĂM thành phố GIảI PHóNG Tìm hiểu, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Quận 11 về phát triển CN TTCN thời kỳ 1986 - 1995, cần thiết phải đề cập một số tình hình, đặc điểm của Quận sau 10 năm kể từ ngày Thành phố Hồ Chí Minh được giải phóng trên các mặt vị trí địa lý, tổ chức hành chính, trình độ kinh tế, cộng đồng dân cư để thấy rõ những khó khăn, thuận lợi cơ bản của Quận. 1.1. Vị TRí ĐịA Lý - Tổ CHứC HàNH CHíNH - DÂN Số * Vị trí địa lý: Quận 11 nằm về phía Tây - Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố 6 km; là cửa ngõ thông thương giữa nội thành và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Quận nằm giữa 10038’ đến 10010’ vĩ bắc, 106022’ - 106054’ kinh đông: Phía Tây Bắc giáp quận Tân Bình được giới hạn bởi kênh Tân Hóa, đường Âu Cơ, đường Nguyễn Thị Nhỏ và đường Thiên Phước. Phía Đông giáp Quận 10, được phân cách bằng đường Lý Thường Kiệt. Phía Nam giáp Quận 5 và 6, được giới hạn bởi đường Nguyễn Chí Thanh và đường Hùng Vương. Như vậy, Quận 11 có vị trí quan trọng nằm giữa các Quận 5, 6, Tân Bình và Quận 10, là những quận có tiềm năng kinh tế, văn hóa và nhiều mặt khác. Quận 11 có diện tích tự nhiên là 5 km2 chiếm 0,25% diện tích đất đai thành phố và 3,5% đất đai của nội thành, là một quận có đất đai thuộc loại nhỏ so với các quận khác trong nội thành Thành phố Hồ Chí Minh. Phù hợp với tình hình địa lý và mối quan hệ kinh tế của từng khu vực hành chính, Quận 11được phân chia thành 16 phường. Khu trung tâm quận nằm ở đường Bình Thới nơi tập trung các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể của Quận. Ngoài ra trong địa bàn Quận còn các khu trung tâm khác như trung tâm công nghiệp Phú Thọ; khu du lịch văn hóa Đầm Sen, khu liên hiệp thể thao Phú Thọ, khu thương mại dịch vụ đường 3/2. Theo báo cáo của Quận ủy và UBND Quận, tới năm 1995, dân số Quận 11 có: 252.699 người, trong đó người Hoa 110.083 người chiếm 43,56% số dân toàn Quận. Mật độ dân số Quận 11 khá đông đúc: 51.044/km2; số dân trong độ tuổi lao động đạt tới 150.858 người chiếm 59,7% số dân toàn Quận, có khả năng góp phần đáp ứng nhu cầu về nguồn lực lao động cho quận và thành phố. Xét về các yếu tố nguồn gốc cư dân, nghề nghiệp, địa hình và trình độ phát triển kinh tế, Quận 11 được chia thành 4 khu dân cư cư trú tập trung có những đặc điểm khác nhau. Khu vực 1: Khu vực được đô thị hóa nhanh nhất tập trung dân cư bao quanh chợ Phó Cơ Điều (gồm các phường 4, 6, 7 ngày nay). Đây là khu cư trú sớm nhất của đồng bào từ các nơi tập trung về thành phố. Dần dần về sau khi đô thị mở rộng, các ngành nghề phát triển, nhiều xưởng thủ công ra đời ở đây thì số lượng dân cư khu này tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt nơi đây đã hình thành cơ sở Đảng, các tổ chức cách mạng của quần chúng và các phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng sớm phát triển sôi nổi và mạnh mẽ nhất. Khu vực 2: Khu vực tập trung dân cư ở phường Phú Thọ cũ và quanh nghĩa địa Quảng Đông (gồm có các phường 8, 11, 12, 13 ngày nay) với mật độ dân cư rải rộng tương đối đều trên toàn địa bàn. Khu vực này về địa giới so với qui định trên bàn đồ thời Pháp thuộc tới nay thì tương đối ít thay đổi nhất. Đến ngày nay, dấu vết cổ xưa vẫn còn tồn tại trên sự phân bổ đường sá, kiến trúc nhà cửa, nghĩa địa và các chùa chiền. Khu vực 3: Là khu vực đồn cây Mai, thuộc xóm Phú Giáo cũ (gồm các phường 2, 16 ngày nay). Đây là vùng cửa ngõ vào Thành phố tập trung bến xe, người qua lại nên việc quản lý phức tạp hơn. Khu vực 4: Là khu vực ven hoang hóa với các phường Phú Hòa, Cầu Tre cũ... (gồm các phường 1, 3, 5, 9, 10, 14 ngày nay) có nhiều ruộng đất, giáo xứ, nghĩa địa, chùa chiền. Nhìn bao quát về địa lý, dân cư hiện nay, Quận 11 là quận nhỏ, nhưng dân số đông, phân bổ cư dân và trình độ phát triển kinh tế không đồng đều. Đặc điểm đó có nguồn gốc từ quá trình hình thành và phát triển của Quận. * Vài nét lịch sử hình thành Quận 11: Quận 11 vốn là vùng đất sình lầy, được khai phá từ thế kỷ XVIII. Theo tư liệu lịch sử cho thấy Quận 11 nằm trong các chiến lũy Hòa Phong, Báu Tích, sau này là một phần của đại đồn Kỳ Hòa do Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Hiệp xây dựng trong những ngày đánh Pháp xâm luợc đầu tiên của nhân dân Nam Bộ. Trước khi thực dân Pháp đánh chiếm vùng Sài Gòn - Gia Định (1859) một bộ phận nhân dân ta, phần đông là người Kinh và một số lớn người Hoa di cư vào nước ta làm ăn buôn bán đã đến sinh sống lập nghiệp tại đây với làng mạc dân ấp, dân lân. Trải ngót một thế kỷ dưới chế độ cai trị thuộc địa của Pháp, cùng với Sài Gòn, Gia Định và toàn xứ Nam Kỳ, vùng này có những biến đổi. Quá trình hình thành các khu dân cư của Quận 11 gắn liền với quá trình biến đổi, khai thác thiên nhiên để phát triển sản xuất, đồng thời gắn liền với quá trình hòa nhập của đồng bào người Hoa vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là quá trình hòa nhập cùng lao động sản xuất, tham gia tổ chức các phong trào cách mạng đánh đổ bọn thực dân đế quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Đại bộ phận đồng bào người Hoa là những người lao động từng gắn bó mật thiết với nhân dân lao động Quận 11. Đồng bào người Hoa đã từng đứng lên chiến đấu dưới ngọn cờ yêu nước chống Pháp của nhân dân ta; tích cực chống đế quốc, phong kiến, đoàn kết chặt chẽ và hòa hợp mối quan hệ tình cảm thân thiết với người Việt từ lâu đời và đùm bọc lẫn nhau với đồng bào lao động người Việt suốt từ năm 1930 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Sau năm 1954 dưới chế độ Mỹ - Diệm, tại Quận 11 bố trí thêm các khu dân cư như: Phú Bình cho đồng bào miền Bắc di cư vào ở. Khu cư xá Lữ Gia, Lê Đại Hành cho sĩ quan, công chức chế độ cũ về sống. Trước năm 1958, Quận 11 thuộc địa phận của Quận 4 và Quận 7. Những năm này tại các khu vực thuộc phường 12, 13 ngày nay đã xây dựng một số nhà gạch. Đường Lục Tỉnh được nâng cấp trải nhựa, các khu vực khác như đường Lò Siêu, đường A6 Xóm Đất vẫn còn là nhà lá đơn sơ. Các khu vực thuộc phường 1, 3, 5, 14 ngày nay, trước kia là vùng đất đầm lầy. Sau đó nhân dân khai phá làm thành những khu vực trồng rau cải với những con rạch chạy dọc theo đường Dương Công Trừng. Khu vực thuộc phường 5 và phường 14 ngày nay, trước kia là vùng trồng hoa lài, sở rác và sân vận động. Năm 1964, linh mục Phạm Ngọc Biểu lập giáo xứ Phú Bình, sửa sang các trại gia binh thành phố sá để bán lại cho những người lao động làm nghề dệt vải, thuộc da, thủy tinh. Năm 1959 Quận 11 thuộc về một phần đất của Quận 5 và Quận 6, lúc đó các con đường lớn và nhà cửa của đồng bào được xây dựng lại, dân cư tập trung đông đảo dọc các con đường lớn như đường Phú Thọ, đường Lò Siêu, đường A6, đường Trần Quốc Toản, đường Quân Sự, đường Dương Công Trừng, đường Trần Hoàng Quân, đường Lê Đại Hành, đường Lữ Gia, đường Nguyễn Văn Thoại, đường Phó Cơ Điều, đường Tôn Thọ Tường, đường Thuận Kiều, đường Hương Lộ 14... Đến ngày 1-7-1969, chính quyền Sài Gòn đã ký nghị định thành lập Quận 11 trên cơ sở tách 6 phường thuộc Quận 5 và Quận 6 gồm các phường: phường Cầu Tre, Phú Thọ, Bình Thới, Phú Thạnh, Bình Thạnh, Phú Hòa, sáp nhập lại với mục đích chính là tạo một đơn vị hành chính, quân sự dùng làm "lá chắn" để bảo vệ cửa ngõ phía Tây Nam Sài Gòn. Quận 11 là quận có thế mạnh về sản xuất CN - TTCN so với các quận huyện khác của Thành phố. Đội ngũ lao động có tay nghề kỹ thuật khá (chiếm 34%), riêng khu vực tiểu thủ công nghiệp có trên 4000 lao động có tay nghề từ 10 năm trở lên, 3.600 cơ sở sản xuất lớn nhỏ tập trung vào các ngành chế tạo và sửa chữa thiết bị máy móc, hóa chất, vật liệu xây dựng, chế biến lương thực, thực phẩm, dệt, da, may mặc, in ấn... và trên 42 nhà máy Trung ương đóng trên địa bàn Quận 11 (theo số liệu chi cục Thành phố Hồ Chí Minh, tính đến năm 1986). 1.2. MộT Số KINH NGHIệM LãNH ĐạO XÂY DựNG Và PHáT TRIểN KINH Tế - Xã HộI của Đảng bộ Quận 11 (1975 - 1985) 1.2.1. Thời kỳ 1975 - 1980 Đại hội IV của Đảng cộng sản Việt Nam (12-1976) xác định đường lối chung về xây dựng chủ nghĩa xã hội và đường lối xây dựng kinh tế thời kỳ 1976 - 1980. Nội dung cơ bản về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta được Đảng xác định "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ". "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ" [14, 29-30]. Về nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất cũ ở miền Nam, Nghị quyết Đại hội IV chỉ rõ: "Xóa bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và những tàn tích bóc lột phong kiến, quốc hữu hóa những cơ sở công thương nghiệp của tư sản mại bản... tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư bản tư doanh, đối với nông nghiệp, thủ CN - TTCN...". Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những thành phần này là: "Sử dụng, hạn chế và cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu bằng hình thức công tư hợp doanh..., cải tạo thủ CN - TTCN bằng con đường hợp tác hóa là chủ yếu và bằng các hình thức khác. Phải bằng mọi cách để: "Xây dựng kinh tế quốc doanh lớn mạnh nhanh chóng, chiếm ưu thế trong sản xuất, lưu thông, phân phối..." [14, 51-52]. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cùng với cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chấp hành, vận dụng và cụ thể hóa nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng cộng sản Việt Nam, Đại hội lần I của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (tháng 4-1977) đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm tạo điều kiện và mở đường cho sản xuất phát triển theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Thành phố đã bắt tay vào công cuộc duy trì sự ổn định kinh tế - xã hội, cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm chuyển từ thành phố tiêu thụ sang thành phố sản xuất, từ kinh tế phục vụ chiến tranh và hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài sang xây dựng nền kinh tế độc lập, phục vụ dân sinh và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình được lập lại, nhân dân Thành phố trong đó có Quận 11 phấn khởi bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Hầu hết các cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành công nghiệp vẫn được bảo toàn nguyên vẹn sau chiến tranh, đây là tài sản quan trọng mà Thành phố tiếp thu được để phát triển. Song chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới để lại cho Thành phố những hậu quả nghiêm trọng. Thành phố đã có một nền công nghiệp nhưng chủ yếu là công nghiệp chế biến, dựa vào nguyên liệu, vật liệu nước ngoài, một bộ phận khá đông dân cư sống dựa vào chiến tranh và "viện trợ" với mức sống vượt quá khả năng của nền sản xuất trong nước. Trong thời kỳ 1976 - 1980, Đảng bộ Thành phố chủ trương cải tạo nền kinh tế theo hướng XHCN nhưng phải đảm bảo cho sản xuất phát triển và không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Cùng với cải tạo là phân bố lại lực lượng lao động sản xuất, tiến hành sắp xếp, tổ chức lại các ngành sản xuất, lưu thông phân phối theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, phát triển mạnh lực lượng kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh và hợp tác xã làm cho lực lượng này nhanh chóng chiếm ưu thế trong sản xuất và trong lưu thông phân phối. Thành phố phấn đấu đến cuối năm 1980 các thành phần kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác xã thực sự đóng vai trò chủ đạo, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải nắm trọn buôn bán và chiếm phần lớn bán lẻ, có khả năng chi phối, điều khiển được thị trường và chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất. Sau khi các lực lượng cách mạng đập tan bộ máy thống trị của bọn ngụy quyền, chính quyền cách mạng được thiết lập dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Quận đã nhanh chóng tổ chức, sản xuất, xây dựng đời sống kinh tế - xã hội. Nhân dân Quận 11 phấn khởi bắt tay vào công cuộc khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Căn cứ Nghị quyết Đại hội lần thứ IV (12-1976) của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ I của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (4-1977) và tình hình đặc điểm của Quận 11, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận 11 lần thứ I (7-1977) đề ra nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể: Tập trung cao lực lượng cải tạo quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa, ra sức khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân, đẩy mạnh cách mạng tư tưởng - văn hóa - xã hội, xây dựng kiện toàn chính quyền nhân dân ở quận, phường, ra sức củng cố xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài. Một trong những mục tiêu quan trọng của Quận được Đại hội Đảng bộ chỉ rõ: Tập trung cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân lao động theo phương hướng cải tạo và xây dựng kinh tế của Thành phố. Kết hợp chặt chẽ việc khôi phục và phát triển sản xuất với việc cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ra sức phát huy năng lực hiện có của các ngành CN - TTCN và công nghiệp... cải tiến công tác quản lý kinh tế, nhằm tổ chức lại sản xuất theo đúng hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, giải quyết căn bản nạn thất nghiệp tạo đủ công ăn việc làm cho nhân dân lao động, tăng cường sức lao động, ổn định và bước đầu cải thiện đời sống cho nhân dân. Mục tiêu đó xuất phát từ thực trạng nền kinh tế và đời sống của nhân dân lao động Quận 11 sau chiến tranh có khó khăn trên nhiều mặt. Tình trạng kinh tế què quặt, sản xuất không phát triển, đời sống đồng bào nghèo đói. Sau giải phóng Quận 11 có 4000 cơ sở sản xuất lớn nhỏ với trên 21.000 công nhân và thợ thủ công (tập trung ở các ngành chế tạo và sửa chữa thiết bị máy móc, hóa chất, vật liệu xây dựng...), nhưng đa số thiếu nguyên liệu, công nhân không có việc làm. Trước giải phóng, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chỉ hoạt động 40%; năm 1974 có hơn 300 máy dệt ở phường Phú Hòa, hơn 100 máy dệt ở phường Phú Thạnh phải xếp lại. Toàn Quận có khoảng 34.000 hộ trong đó có 12.000 sống trực tiếp bằng lao động sản xuất, 11.000 công thương nghiệp tư bản tư doanh, 9000 sống bằng các ngành không cơ bản, 2.000 hộ hành chính sự nghiệp. Tổng số dân trong Quận có trên 237.000 người, có hơn 1/5 dân số phi sản xuất, có khoảng 22.000 người thất nghiệp. Chế độ cũ đã để lại trên địa bàn Quận một nền văn hóa, xã hội với nhiều tệ nạn xã hội: du đãng, trộm cắp và các tệ nạn xã hội khác. Trên một diện tích hẹp, đã có trên 230 quán cóc, bia ôm, hai nghĩa địa Quảng Đông - Phú Thọ là nơi tụ tập của bọn tội phạm hình sự; có gần 200 người bị bệnh cùi sống lay lắt tại đây, những tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan... đã trở thành tệ nạn xã hội phổ biến tại đây. Quận ủy Quận 11 đã chú ý trước tiên tiến hành sắp xếp tổ chức lại các ngành CN - TTCN, khôi phục lại sản xuất với bước đi và hình thức thích hợp, khuyến khích, khôi phục và quản lý chắc các ngành nghề truyền thống của Quận. Trong 2 năm 1977 1978, Quận đã tăng giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp lên 25 triệu đồng thu hút trên 7.500 lao động. Đầu năm 1978, Quận 11 thành lập được 120 tổ sản xuất tập thể, thu hút được 4.869 lao động, xây dựng được 3 hợp tác xã sản xuất với 385 xã viên, hướng dẫn và tổ chức sản xuất 365 cơ sở với 7.786 lao động (chiếm 47% lao động). Quận còn chủ trương vận động các nhà trung, tiểu thương chuyển sang sản xuất, thành lập các xí nghiệp hoạt động dưới sự hướng dẫn kiểm soát của Nhà nước, nhiều ngành nghề mới phục vụ cho xuất khẩu như thảm đay, sơn mài, mành trúc... ra đời, tổ chức 3 lớp dạy thêu tay xuất khẩu (200 học viên). Quận ủy còn chú trọng, khuyến khích thành lập các tổ sản xuất tập thể sản xuất gia công cho Nhà nước, phát triển thêm nhiều mặt hàng mới, cấp giấy phép hành nghề cho 1.446 cơ sở sản xuất cá thể. Công tác cải tạo tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song việc xây dựng các ngành còn chậm so với yêu cầu kế hoạch. Ngành giao thông vận tải, nhà đất gần như mới bắt đầu, vì do điều kiện cơ sở vật chất của Quận còn nhiều khó khăn. Nhìn chung đến cuối năm 1978, Quận 11 đã nâng lên tổng số 2879 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong đó có 14 hợp tác xã và 184 tổ sản xuất tập thể, 2.691 tư nhân cá thể. Cơ sở mới khôi phục là 64, phát triển mới là 22 chủ yếu các cơ sở sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, tổng giá trị thực hiện được là 52.580.000 đ vượt 110% chỉ tiêu kế hoạch của Đại hội Đảng bộ Quận. Trong quá trình thực hiện kế hoạch Nhà nước 1976 - 1980, sau hai năm tổ chức sắp xếp lại sản xuất, tiến hành cải tạo kinh tế - xã hội, nền kinh tế Thành phố nói chung và nền kinh tế Quận 11 nói riêng gặp nhiều khó khăn và thách thức mới. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn. Nhà nước không có hàng và không có tiền, giá cả biến động, thiên tai, chiến tranh biên giới... Mặt khác, do ảnh hưởng của chiến dịch "nạn Kiều" và các hình thức chiến tranh tâm lý làm cho một số người Hoa đăng ký hoặc bỏ trốn đi ra nước ngoài. Cộng đồng người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh biến động mạnh. Tình hình đó khiến hàng trăm cơ sở sản xuất ở khu vực Chợ Lớn trong đó có Quận 11 bị ngừng trệ. Sau 3 năm, kinh tế xã hội chủ nghĩa chưa thể có ngay được một nền tảng công nghiệp với một cơ sở hợp lý. Công nghiệp đó lại chưa được đảm bảo về nguyên liệu và năng lượng. Cơ cấu kinh tế của Thành phố đã què quặt lại bị tâm lý thói quen sản xuất nhỏ, xé lẻ, phân tán, chia cắt...; cộng thêm sự non kém trong quản lý kinh tế, biểu hiện nóng vội, tính toán giản đơn trong cải tạo xã hội chủ nghĩa... làm cho sự mất cân đối đã gay gắt, càng gay gắt hơn. Tất cả tình hình đó làm ảnh hưởng đến toàn xã hội mà nhất là khu vực làm công ăn lương. Nhiều xí nghiệp công nhân phải nghỉ việc và hưởng 70% lương nhà nước. Trước tình hình gay gắt đó, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần 6 (khóa IV) tháng 9 năm 1979 đến với Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Đảng bộ và nhân dân Quận 11, Nghị quyết đó mở ra những hướng mới để "bung ra" cho kinh tế phát triển. Chính sự chuyển hướng chính sách kinh tế từ Trung ương đã vạch ra phương hướng đúng giải phóng sức sản xuất, xoay chuyển tình thế, đưa nền kinh tế đi lên, ổn định lại trật tự kinh tế có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận 11 lần thứ 1, vận dụng tinh thần Nghị quyết 6 của Trung ương (khóa IV), Đảng bộ Quận đã có biện pháp tổ chức lại sản xuất, làm cho sản xuất phát triển, đời sống vật chất của nhân dân được ổn định. Đảng bộ coi đây là nhiệm vụ trung tâm cơ bản nhất. Vì vậy, đến cuối năm 1979, Quận đã cải tạo được 24 xí nghiệp tư nhân (qui mô nhỏ) thành xí nghiệp quốc doanh do Quận quản lý, xây dựng được 114 hợp tác xã sản xuất và 249 tổ sản xuất. Đến năm 1980 toàn Quận có 3.543 cơ sở sản xuất trong đó có 252 tổ sản xuất, 3.250 hộ tư nhân và cá thể với 22.982 lao động (lao động khu vực tập thể chiếm tỷ lệ 50%), giá trị hàng hóa khu vực tập thể không ngừng tăng lên. Trong năm 1979 đạt được 128 triệu đồng, hàng xuất khẩu đạt 78% kế hoạch. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã từng bước được xây dựng và phát huy tác dụng, từng bước quản lý chặt chẽ lực lượng lao động, máy móc, vật tư hàng hóa; từng bước đưa đưa sản xuất đi vào kế hoạch và hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. 1.2.2. Thời kỳ 1981 - 1985 Báo cáo chính trị Đại hội V chỉ rõ: "ổn định dần dần, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân"... "Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo...". Trong chặng đường trước mắt, tất yếu phải tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thì mới đáp ứng yêu cầu của kinh tế và đời sống trước mắt, đồng thời chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn ở chặng tiếp theo. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phải coi trọng phát triển chiều sâu, tức là cải tạo sắp xếp lại, bổ sung mở rộng, nâng cao để khai thác tốt năng lực sẵn có, đồng thời tiếp tục phát triển theo chiều rộng, tức là xây dựng mới có trọng điểm. Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật theo chiều sâu và chiều rộng đều phải tập trung vào việc đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, tăng năng lực sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu tạo thêm nguồn nguyên liệu và năng lượng, phát triển và nâng cao kết cấu hạ tầng, chủ yếu là tăng thêm năng lực giao thông vận tải, đồng thời cũng phải đáp ứng nhu cầu về công cụ thường, công cụ cải tiến, một số thiết bị máy móc vừa và nhỏ cho các ngành kinh tế, trước hết là các ngành trọng điểm. "Trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80 cần tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông - nghiệp hợp lý, đó là nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt..." [16, 62-63] Đây là nhận thức mới của Đảng trong việc giải quyết các mối quan hệ trong nội dung công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Bước vào thực hiện kế hoạch Nhà nước những năm 1981 - 1982, Thành phố Hồ Chí Minh đã tăng nhanh tốc độ phát triển công nghiệp. Báo cáo của Đảng bộ Thành phố tại Đại hội lần thứ III (2-1982) đã khẳng định: Năm 1981 so với năm 1980 tăng 26%, năm 1982 so với năm 1981 tăng 43,5%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của công nghiệp và công tư hợp doanh Thành phố tăng 30,5%. Tiểu thủ công nghiệp tăng 61,5%. Năm 1983, tốc độ phát triển công nghiệp Thành phố có biểu hiện chậm lại; những năm 1983 - 1985, tốc độ phát triển bình quân của công nghiệp Thành phố là 14,9%. Tiểu công nghiệp Thành phố tiếp tục phát triển thu hút được nhiều lao động, sản xuất được nhiều mặt hàng đa dạng và phong phú. Trong bối cảnh đó, thực hiện Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về phân phối lưu thông, cải tiến một số cơ chế chính sách, Nghị quyết số 9/TU của Thành ủy, Đảng bộ Quận 11 đã quan tâm đối với nhiệm vụ lãnh đạo đẩy mạnh sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân lao động và coi đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của Đảng bộ trong điều kiện Đảng cầm quyền. Theo chủ trương của Đảng bộ Thành phố, Đảng bộ, chính quyền Quận tiến hành một số biện pháp có hiệu quả và kịp thời tháo gỡ khó khăn của sản xuất CN - TTCN (như thiếu vật tư, nguyên liệu, điện, tiền mặt...). Công tác quản lý sản xuất công nghiệp ngày càng tốt hơn. Tình hình chính trị, trật tự trong người Hoa, sau vụ "nạn Kiều" năm 1978 dần dần ổn định hơn. Do đó sản xuất CN TTCN 3 năm 1980 - 1982 chẳng những có bước ổn định mà còn phát triển tương đối nhanh. Tốc độ phát triển bình quân trong 3 năm là 39%, riêng năm 1982 tăng 78%, giá trị sản lượng năm sau cao hơn năm trước. Đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch hàng năm do Thành phố giao, vượt kế hoạch do Đại hội Đảng bộ Quận lần II (11-1979) đề ra (từ 189,9 triệu đồng của năm 1979, năm 1982 thực hiện được 477 triệu đồng), giá trị sản lượng xuất khẩu tăng, nhất là năm 1982 sản lượng giao nộp cho Thành phố hàng năm đều tăng. Qua đó đã góp phần đẩy mạnh sản xuất CN - TTCN Thành phố, làm tăng hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, huy động sử dụng khoảng 55% năng lực sản xuất tiểu thủ công nghiệp vào sản xuất (cả tay nghề, lao động và máy móc thiết bị), làm ra nhiều mặt hàng đa dạng (từ 340 mặt hàng năm 1979 đến năm 1982 có 836 mặt hàng). Đặc biệt là giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động, giúp cho một bộ phận quan trọng nhân dân lao động có việc làm tương đối ổn định (trong 3 năm 1980 - 1982 giải quyết được 15.611 lao động có việc làm, trong đó khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp thu hút 8000 lao động), từ đó góp phần ổn định đời sống nhân dân trong quận. Điều đáng chú ý, số lao động từ chỗ không có tay nghề hoặc nghề nghiệp còn yếu, đã có tay nghề khá và giỏi. Một số công nhân kỹ thuật có trình độ, khuôn mẫu, tự chế máy móc, thiết bị phụ tùng, cả một số thiết bị phụ tùng trước đây phải nhập ngoại. Đây là một vốn rất quí của sản xuất CN-TTCN Quận 11. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội V của Đảng (3-1982), sự lãnh đạo chặt chẽ của Thành ủy, Đảng bộ Quận 11 tiến hành Đại hội lần thứ III (5-1983). Đại hội Đảng bộ đã đề ra phương hướng và nhiệm vụ chung từ 1983 - 1985 cho toàn Quận: "Đẩy mạnh cải tạo và phát triển kinh tế, phát huy thế mạnh về sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp trên địa bàn Quận, phát triển thêm mặt hàng mới kết hợp với qui hoạch và sắp xếp lại sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường quản lý nắm nguồn hàng, đặc biệt tập trung sức hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp và thủ công nghiệp và các ngành kinh tế khác" [12, 34]. Bước vào năm 1983, tình hình chung của Quận vẫn còn nhiều khó khăn, về nguyên vật liệu, năng lượng, giá cả thị trường, cơ chế quản lý còn nhiều ràng buộc. Với chủ trương đúng của Thành ủy sau khi có Nghị quyết 01 của Bộ chính trị về công tác của Thành phố Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ III, Đảng bộ và nhân dân Quận 11 đã quyết tâm phấn đấu hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1983. Trong năm 1983, theo báo cáo của Quận ủy, UBND Quận thì sản xuất CN - TTCN của Quận đã đạt được 101,03% kế hoạch Thành phố giao. Riêng các xí nghiệp quốc doanh của Quận đã vượt 1,8% kế hoạch năm 1983; 2 trong 3 xí nghiệp quốc doanh của Quận (Thủy tinh Tiền Phong, Nhựa Phú Thọ) đã đi vào nề nếp và ổn định hơn. Vai trò của phường được phát huy ngày càng cao và có hiệu quả hơn trong việc phối hợp với ngành kinh tế do Quận quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn phường. Trên cơ sở sản xuất phát triển, Quận đã giải quyết công ăn việc làm cho 5.834 lao động đạt 98,5% kế hoạch (khu vực tiểu thủ công nghiệp có 2.541 lao động). Tiếp tục quán triệt và thực hiện các Nghị quyết của Thành ủy, Nghị quyết của Đảng bộ Quận, Quận ủy đã đề ra chương trình công tác năm 1984 bám sát những yêu cầu phương hướng, nhiệm vụ chính trị mà Đại hội III Đảng bộ Quận đề ra. Trong 6 tháng đầu năm 1984, trên lĩnh vực sản suất CN - TTCN đã thực hiện được giá trị sản lượng 227,48 triệu đồng đạt 43,75% kế hoạch năm. Việc giao nộp sản phẩm và chất lượng sản phẩm có đảm bảo hơn, giảm được mức sản phẩm tự tiêu. Riêng công nghiệp 6 tháng đầu năm có sự chuyến biến đáng kể, đã thực hiện đạt 52% kế hoạch năm. Đạt được những kết quả bước đầu trên là do nỗ lực của toàn Đảng bộ, của nhân dân lao động Quận 11. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa được tiến hành ở một số ngành như dệt, thủy tinh, phụ tùng xe đạp, cao su, vật liệu xây dựng. Quận đã xây dựng được từ 12 hợp tác xã và 44 tổ hợp (1983) lên 27 hợp tác xã và 296 tổ hợp với 7589 lao động. Chỉ tiêu kế hoạch về sản xuất CN - TTCN Đến tháng 121984 đã hoàn thành đạt 108% (giá trị sản lượng 524,5 triệu đồng) tăng 15,4% so với năm 1983 nhất là mặt hàng gia công xuất khẩu đạt 107% kế hoạch (54% năm 1983). Ngoài 800 mặt hàng cũ, năm 1984 còn phát triển thêm 15 mặt hàng mới, cải tạo, xây dựng mới được 25 hợp tác xã và 102 tổ sản xuất tập thể, đưa tổng số lên 400 hợp tác xã (2.604 lao động) và 349 tổ sản xuất (6.470 lao động) chiếm 45% lực lượng lao động trong Quận. Đi đôi với việc xây dựng, Quận ủy còn chú ý đến việc bồi dưỡng năng lực quản lý dịch vụ và phương thức làm ăn theo hướng xã hội chủ nghĩa cho các hợp tác xã và tổ sản xuất, đồng thời coi trọng việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng nòng cốt ở khu vực này. Có một số hợp tác xã đã có chi bộ Đảng, 8 hợp tác xã đã có chi đoàn, 138 tổ sản xuất có tổ thanh niên, 16 hợp tác xã có chi hội phụ nữ. Tất cả hợp tác xã, tổ sản xuất đều hoạt động theo phương thức hiệp tác. Thời kỳ 1981 - 1985 trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ đã thực hiện đúng đắn đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, nắm vững và phát huy thế mạnh của Quận về sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Quận ủy đã có nhiều giải pháp ưu tiên cho các ngành chủ lực, sắp xếp lại các ngành nghề, giải thể những cơ sở làm ăn không hiệu quả, mạnh dạn cho sản xuất bung ra để phát triển. Đảng bộ Quận đã xác định sản xuất CN - TTCN là quan trọng hàng đầu, nên đã kịp thời đề ra những chủ trương cụ thể và tập trung chỉ đạo thực hiện, tăng cường quản lý các cơ sở sản xuất, thường xuyên bám sát kiểm tra, thực hiện kế hoạch của cơ sở. Đảng bộ và chính quyền quận đã quan tâm tạo điều kiện nhất định về vật chất (điện - vật tư), xây dựng khu vực sản xuất quốc doanh và tập thể trong đó sáng tạo ra mô hình xí nghiệp hợp doanh để tận dụng được những thế mạnh vào sản xuất là một nỗ lực đáng kể. Việc ưu tiên về vốn và mặt bằng cho việc sản xuất ra các mặt hàng xuất khẩu, phát huy tính năng động nhạy bén của cơ sở sản xuất và người lao động đã tạo sự chuyển biến lớn trong hoạt động sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Chính những thay đổi đó mà những tiềm năng và óc sáng tạo của người lao động ở Quận 11 được khơi dậy. Trong 3 năm 1983 - 1985, tiểu thủ công nghiệp ở Quận 11 đã phát triển mạnh. Sản phẩm của tiểu thủ công nghiệp không chỉ đáp ứng được nhu cầu của Thành phố mà còn cung cấp cho nhu cầu xuất khẩu. Tổng số vốn tiểu thủ công nghiệp tăng từ 30 35% (so với năm 1980) số lượng ngành nghề và chủng loại mặt hàng tăng nhanh, nhiều ngành nghề truyền thống được khôi phục, nhiều ngành nghề mới được xuất hiện do yêu cầu của tiêu dùng và xuất khẩu. Sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp Quận 11 đã góp phần tạo ra nhiều mặt hàng về kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn người lao động, tạo điều kiện cải thiện đời sống chung cho xã hội, củng cố thêm tính ưu việt của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời trong quá trình phát triển đó cũng làm tăng thêm vị trí chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong Quận. Trong mười năm sau giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Thành ủy, Đảng bộ và nhân dân Quận 11 đã đạt được những thành tựu cơ bản sau: - Thành tựu lớn nhất đạt được trước hết là duy trì phát triển được sản xuất CN TTCN trên địa bàn Quận với nhịp độ ngày càng tăng. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền sản xuất nhỏ phân tán ngày càng được xác định cùng với việc phát triển sản xuất, quan hệ sản xuất mới từng bước được xây dựng. Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh được đẩy mạnh. - Đời sống nhân dân lao động từng bước được ổn định, cải thiện thêm cơ sở phát triển sản xuất; lực lượng lao động chủ yếu trong dân cư được bố trí, sắp xếp giải quyết công ăn việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, các đối tượng chính sách và nhân dân lao động trong quận không ngừng được chăm lo, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội ngày càng được giữ vững. - Đảng bộ Quận 11 có bước trưởng thành về mọi mặt, đáp ứng được các yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Đảng ủy thường xuyên chỉ đạo, tăng cường củng cố bộ máy chính quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nâng cao năng lực quản lý kinh tế - xã hội của đội ngũ cán bộ công nhân viên, chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể quần chúng liên tục phát động phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa để thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, kế hoạch của Nhà nước, của Thành phố và của Quận, bước đầu chú ý tới xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế từ cơ sở. Tuy vậy, lãnh đạo phát triển CN - TTCN của Đảng bộ Quận 11 thời kỳ trước đổi mới còn bộc lộ một số hạn chế: - Trước hết, do bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu lực, chồng chéo, cho nên những tháo gỡ trong chỉ đạo kinh tế chưa kịp phát huy tác dụng và chưa tập trung được hết những tiềm năng sẵn có của Quận. Đảng bộ còn lúng túng trong việc đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chưa mạnh dạn đổi mới trang thiết bị vốn đã lạc hậu và cũ kỹ. Đảng bộ chưa mạnh dạn xóa bỏ cơ chế quản lý bao cấp, chuyển sang cơ chế hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đã hạn chế tính chủ động sáng tạo của cơ sở sản xuất và của người lao động. Về tổ chức và sắp xếp lại sản xuất CN - TTCN, cho đến năm 1985, Quận vẫn chưa qui hoạch được ngành kinh tế kỹ thuật để bố trí cơ cấu đầu tư cho hợp lý. Nhìn chung tình hình sản xuất ở Quận 11 thời kỳ 1975 - 1985 là chưa
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan