Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu hình thái lâm sàng, thính lực, nhĩ lượng và cắt lớp vi tính của bệnh ...

Tài liệu Nghiên cứu hình thái lâm sàng, thính lực, nhĩ lượng và cắt lớp vi tính của bệnh nhân cứng khớp và dị dạng hệ thống xương con

.DOC
104
259
72

Mô tả:

1 bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o trêng ®¹i häc y hµ néi bé y tÕ NGUYỄN THẾ ĐẠT Nghiªn cøu h×nh th¸i l©m sµng, thÝnh lùc, nhÜ lîng vµ c¾t líp vi tÝnh cña bÖnh nh©n cøng khíp vµ dÞ d¹ng hÖ thèng x¬ng con luËn v¨n th¹c sü y häc Hµ néi – 2012 bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o trêng ®¹i häc y hµ néi NGUYỄN THẾ ĐẠT bé y tÕ 2 Nghiªn cøu h×nh th¸i l©m sµng, thÝnh lùc, nhÜ lîng vµ c¾t líp vi tÝnh cña bÖnh nh©n cøng khíp vµ dÞ d¹ng hÖ thèng x¬ng con Chuyªn ngµnh: Tai mòi häng M· sè: 60.72.53 luËn v¨n th¹c sü y häc Ngêi híng dÉn khoa häc: TS. Lê Công Định Hµ néi – 2012 3 LỜI CẢM ƠN Sau thời gian học tập tại bộ môn Tai- Mũi- Họng trường Đại học Y Hà Nội. Được sự giúp đỡ tận tình của trường và bệnh viện, đến nay tôi đã hoàn thành chương trình học tập. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến: - Đảng uỷ, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học, Bộ môn Tai Mũi Họng Trường Đại học Y Hà Nội. - Đảng uỷ, Ban giám đốc Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương. - Đảng uỷ, Ban giám đốc và khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Bạch Mai. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến các thầy cô: - PGS.TS.Nguyễn Tấn Phong - Bộ môn Tai Mũi Họng Trường Đại học Y Hà Nội. - PGS.TS.Lương Thị Minh Hương – Bộ môn Tai Mũi Họng Trường Đại học Y Hà Nội. - PGS.TS Phạm Minh Thông – Bộ môn chẩn đoán hình ảnh trường Đại học Y Hà Nội. - PGS.TS. Phạm Trần Anh - Bộ môn Tai Mũi Họng Trường Đại học Y Hà Nội. - TS. Lê Minh Kỳ - Bệnh viện Tai- Mũi- Họng Trung ương. Cùng toàn thể các thầy, cô của Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương và Bộ môn Tai Mũi Họng đã đóng góp nhiều ý kiến qúi báu và truyền cho tôi những kinh nghiệm trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài. Và đặc biệt với sự kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn đến TS. Lê Công Định – Trưởng khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Bạch Mai - người thầy mẫu mực đã tận tình chỉ bảo và truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian qua và trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này. - Tôi vô cùng biết ơn sự chăm sóc, động viên, chia sẻ và giúp đỡ của cơ quan, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong nhiều năm qua. Hà Nội ngày 10 tháng 9 năm 2012 Nguyễn Thế Đạt 4 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội ngày 10 tháng 9 năm 2012 Tác giả Nguyễn Thế Đạt 5 ĐẶT VẤN ĐỀ Nghe kém là một triệu chứng làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng giao tiếp, lao động và học tập của người bệnh. Nghe kém do rất nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó do tổn thương hệ thống các xương con chiếm một tỷ lệ đáng kể. Cứng khớp và thiếu hụt các xương con là các hình thái tổn thương hay gặp trên lâm sàng. Các tổn thương này làm gián đoạn hoặc ảnh hưởng đến quá trình dẫn truyền âm thanh từ tai giữa vào tai trong gây nên triệu chứng nghe kém thể truyền âm. Có nhiều nguyên nhân trong đó xốp xơ tai, xơ nhĩ và dị dạng các xương con là hay gặp nhất. Theo các tác giả [6], [30], [58] tỷ lệ xốp xơ tai trên lâm sàng chiếm khoảng 1% dân số châu Âu và chiếm 1,1% các nguyên nhân gây nghe kém ở các nước châu Á. Theo thống kê, khoảng 10% trẻ em 4-15 tuổi bị xơ nhĩ và 9-38% viêm tai giữa mãn tính để lại di chứng xơ nhĩ [3], [51]. Dị dạng xương con chiếm khoảng 0,5% trong các nguyên nhân gây nghe kém truyền âm [46]. Trước kia chẩn đoán chỉ dựa vào lâm sàng và đo thính lực, bởi vậy thường không phát hiện được hoặc bỏ sót. Việc chẩn đoán các nguyên nhân thường khó và hay nhầm lẫn từ đó gây khó khăn trong điều trị. Ngày nay các phương pháp thăm dò và chẩn đoán hiện đại như chụp cắt lớp vi tính xương thái dương có độ phân giải cao đã được áp dụng. Điều này đã làm tăng tỷ lệ phát hiện bệnh và chẩn đoán đúng nguyên nhân. Tuy nhiên nhiều trường hợp vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn và đôi khi chẩn đoán chỉ được xác định khi mổ thăm dò tai giữa. 6 Phương pháp điều trị đối với các trường hợp cứng khớp và dị dạng xương con chủ yếu là phẫu thuật tái tạo lại hệ thống truyền âm phục hồi lại khả năng nghe cho người bệnh. Hiện nay chưa có nghiên cứu đầy đủ về các nguyên nhân gây cứng khớp và dị dạng xương con, cũng như tìm hiểu giá trị của các phương pháp đo thính lực, nhĩ lượng và chụp cắt lớp vi tính xương thái dương trong chẩn đoán. Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu hình thái lâm sàng, thính lực, nhĩ lượng và cắt lớp vi tính của bệnh nhân cứng khớp và dị dạng hệ thống xương con” với hai mục tiêu là: 1. Nghiên cứu hình thái lâm sàng, thính lực, nhĩ lượng và cắt lớp vi tính của bệnh nhân cứng khớp và dị dạng hệ thống xương con. 2. Đối chiếu với tổn thương trong phẫu thuật để rút kinh nghiệm cho chẩn đoán nguyên nhân. 7 Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. Giải phẫu hòm nhĩ và hệ thống xương con 1.1.1. Hòm nhĩ Hòm nhĩ là một hốc xương nằm trong xương đá, phía trước thông với thành bên họng mũi bởi vòi nhĩ, phía sau thông với hệ thống thông bào xương chũm bởi một cống nhỏ gọi là sào đạo. Hòm nhĩ nhìn nghiêng như một thấu kính phân kì lõm 2 mặt chạy chếch xuống dưới, ra ngoài và ra trước. Hòm nhĩ là một phần quan trọng của tai giữa, trong hòm nhĩ có chứa hệ thống xương con. Màng nhĩ và hệ thống xương con có chức năng tiếp nhận và biến đổi âm thanh từ sóng âm học trong không khí thành chuyển động cơ học để truyền vào tai trong. 1.1.1.1. Các thành của hòm nhĩ: *Thành ngoài: Thành ngoài gồm có màng nhĩ ở dưới, tường xương ở trên. Tường xương và màng nhĩ ngăn cách tai giữa và tai ngoài. Hình 1.1: Các thành của hòm nhĩ [47] 8 - Phần xương: ở trên, đây chính là tường thượng nhĩ và được chia làm 2 phần + Phần dưới:xương mỏng, đặc và cứng. + Phần trên:xương dày và xốp hơn. - Phần màng (màng nhĩ):màng nhĩ là một màng mỏng nhưng dai và cứng, lắp vào rãnh nhĩ của xương nhĩ bởi vòng sụn sợi. Màng nhĩ có 2 phần: + Phần trên: là màng chùng, bám vào mặt ngoài tường thượng nhĩ. + Phần dưới: là màng căng chiếm phần lớn diện tích màng nhĩ.Đây là phần rung động của màng nhĩ. * Thành trong (hay thành mê nhĩ): - Ở giữa: lồi lên gọi là ụ nhô,do ốc tai lồi vào thành trong hòm nhĩ. - Dưới ụ nhô:có lỗ của dây thần kinh Jacobson. - Sau ụ nhô: Hình 1.2: Thành trong của hòm nhĩ [47] + Ở trên là cửa sổ bầu dục, có đế xương bàn đạp lắp vào.Cửa sổ bầu dục có diện tích khoảng 3,0 x 1,4mm.[43] + Phía trên cửa sổ bầu dục có đoạn 3 của cống Fallope, trong đó có dây thần kinh mặt. 9 + Ở dưới là cửa sổ tròn có một màng mỏng lắp vào gọi là màng nhĩ phụ. + Ở trên và trước ụ nhô cũng có một lồi xương gọi là mỏm thìa, có gân cơ búa(gân cơ căng màng nhĩ) chui ra. + Cơ búa ở mỏm thìa, cơ bàn đạp ở mỏm tháp chạy vào hòm nhĩ tới bám vào 2 xương tương ứng. * Thành trên (trần hòm nhĩ): Là một thành xương mỏng, chia cách hòm nhĩ với hố não giữa do xương trai và xương đá tạo thành, nên ở đó có một khớp gọi là khớp trai-đá. * Thành dưới (hay thành tĩnh mạch cảnh): - Thành dưới như môt cái rãnh, sâu 2mm, thấp hơn thành dưới ống tai khoảng 1 mm. Vì vậy trong viêm tai giữa mạn mủ, dịch thường ứ đọng ở đây. - Thành này được tạo bởi một mảnh xương mỏng, mặt dưới của nó là tĩnh mạch cảnh trong. * Thành trước (hay thành động mạch cảnh trong): - Phần thấp nhất cách động mạch cảnh trong bởi một mảnh xương mỏng. Vì vậy trong một số bệnh lý của tai có thể nghe tiếng mạch đập. - Phía trên là lỗ trên của vòi nhĩ. - Ở trên vòi nhĩ là ống thừng nhĩ, mỏm thìa và ống cơ búa. *Thành sau(hay thành chũm): - Ở trên có một ống thông với sào bào gọi là sào đạo. - Có một lỗ vào của dây thừng nhĩ chạy vào hòm nhĩ. - Ở ngay dưới sào đạo là mỏm tháp. -Ngay sau hòm nhĩ, nằm ở phần xương chũm có đoạn 3 cống Fallope trong đó có dây VII. Đoạn 3 dây VII chạy xuống dưới theo hướng chếch ra ngoài, còn hòm nhĩ lại chếch vào trong nên dây mặt bắt chéo hòm nhĩ [7] [15] [24] [39] 10 1.1.1.2. Màng nhĩ Trong tất cả các thành của hòm nhĩ thì màng nhĩ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý tai giữa. *Hình dạng,màu sắc: - Màng nhĩ là một màng mỏng,dai,chắc và cứng ngăn cách giữa ống tai ngoài và hòm nhĩ. - Màng nhĩ có màu hơi xám,sáng bóng,trong. - Hình dạng: + Có hai dạng là hình tròn và hình bầu dục. + Màng nhĩ lõm ở giữa, chỗ lõm nhiều nhất gọi là rốn nhĩ.Rốn nhĩ chính là đầu tận cùng của cán búa.Chính độ lõm của rốn màng nhĩ làm cho âm thanh đỡ bị biến dạng, giúp cho tai người có thể tiếp nhận được một dãy tần số âm rộng hơn so với các nhóm động vật có cấu trúc màng nhĩ phẳng. + Độ lõm rốn màng nhĩ ở người Việt Nam là: 1,79 ± 0,40mm [11]. * Cấu tạo của màng nhĩ [37], [48]: - Cấu trúc: Màng nhĩ gồm 2 phần: màng chùng và màng căng. + Màng chùng: Màng chùng có 3 lớp:  Lớp ngoài cùng: gồm 5-6 lớp tế bào biểu mô liên tiếp với lớp tế bào biểu mô vảy của ống tai ngoài.  Lớp giữa gồm: tổ chức liên kết lỏng lẻo bao gồm có tổ chức sợi có tính chất chun giãn,mạch máu, thần kinh và các dưỡng bào.Không có lớp sợi như ở màng căng.  Lớp trong cùng: là lớp tế bào vảy không sừng hóa. + Màng căng: gồm 3 lớp, dày 131 µm.  Lớp ngoài: liên tiếp với lớp biểu mô ống tai ngoài, dày 30 µm .  Lớp giữa: là lớp tổ chức sợi, dày 100 µm. 11  Lớp trong: là lớp tế bào niêm mạc chế nhầy liên tục với niêm mạc của hòm nhĩ, lớp này dày 1 µm. Hình 1.3: Mặt ngoài màng nhĩ [12] 1.1.2. Hệ thống xương con Gồm có 3 xương nối với nhau bởi các khớp búa đe, đe đạp và bàn đạp tiền đình. Vào thế kỷ XVI Andreas Vesalius tìm được 2 trong số 3 xương con. Căn cứ vào hình dạng đặt tên là xương búa và xương đe. Sau đó Philippus Ingrassia phát hiện ra xương thứ 3 gọi tên là xương bàn đạp. Hình 1.4: Hệ thống xương con [31] 1.1.2.1. Xương búa: * Hình dáng và cấu tạo: 12 Cấu tạo của xương búa bao gồm: - Chỏm: hình tròn, có diện khớp với xương đe. - Cổ: nối giữa chỏm và cán búa, liên quan với màng chùng, giữa cổ xương búa và màng chùng có một khoảng trống gọi là túi Prussak. - Cán: tiếp theo cổ, đi chếch xuống dưới, ra sau và vào trong. Cán búa nằm ở trong màng nhĩ, dính vào màng nhĩ bởi lớp sợi. Tận cùng của cán búa tạo nên một hố lõm hình nón gọi là rốn nhĩ. - Giữa cổ và cán búa có lồi lên 2 mỏm xương: + Mỏm ngắn (hay mỏm ngoài): có dây chằng nhĩ búa sau bám vào. +Mỏm dài (hay mỏm trước) có dây chằng nhĩ búa trước và gân cơ búa (cơ căng màng nhĩ) bám vào. Hình 1.5: Xương búa [12] - Xương búa ở ngăn trên của hòm nhĩ nhưng cán búa lại chạy chếch xuống giữa hòm nhĩ góp phần tạo lên eo nhĩ. * Kích thước và khối lượng: - Kích thước: [11] + Dài toàn bộ: ở người Việt Nam trưởng thành là 7,76 ± 0,35mm. + Dài chỏm của người trưởng thành là 4,1 ± 0,26mm + Chiều dài cán búa: 4,62 ± 0,26mm 13 + Đường kính trước sau: 0,65 ± 0,06mm + Đường kính trong ngoài: 1,07 ± 0,13mm + Kích thước cổ xương búa: 1,3 – 2,45mm - Khối lượng: +Người Việt Nam: 23,62 ± 2,73mg[11] +Theo Schuneckt: 32mg [29],[50] * Dây chằng và cơ xương búa: - Dây chằng: + Dây chằng trên: đi từ chỏm tới trần thượng nhĩ. + Dây chằng ngoài: đi từ chỏm tới tường thượng nhĩ. + Dây chằng trước: đi từ cổ xương búa tới gai bướm ở dưới nền sọ. + Dây chằng nhĩ – búa trước: một đầu bám vào gai nhĩ ở đầu trước của rãnh Rivinus, đầu kia bám vào mỏm dài xương búa. Thực chất đây là phần dày lên của vòng sụn sợi màng nhĩ (Gerlack). + Dây chằng nhĩ – búa sau: đi từ gai nhĩ ở đầu sau của rãnh Rivinus tới bám vào mỏm ngắn xương búa. - Cơ: cơ búa (cơ căng màng nhĩ) là một cơ hình thoi, nằm trong một ống xương gọi là ống cơ búa, song song với vòi nhĩ. Chức năng khi cơ co: Chỏm xương búa quay ra ngoài, cán búa bị kéo vào trong nên căng màng nhĩ. Khi cán búa bị kéo vào trong, chỏm búa quay ra ngoài lôi cả thân xương đe ra ngoài. Khi thân xương đe bị kéo ra ngoài thì ngành xuống ấn vào trong và ấn vào xương bàn đạp, đế đạp ấn vào cửa sổ bầu dục làm tăng áp lực nội dịch tai trong. 1.1.2.2. X¬ng ®e * Hình dáng, cấu tạo - Hình dáng: trông giống như một răng hàm có 2 chân. Xương đe gồm các phần: + Thân xương: nằm ở thượng nhĩ, có diện khớp với xương búa ở phía trước. 14 + Ngành ngang: nằm trong hố đe của thượng nhĩ, ở phía sau thân xương đe. Đây là một mốc quan trọng để bộc lộ dây VII. + Ngành xuống: liên tiếp với phần thân ở trên, to ở phần sát thân, nhỏ ở phần tiếp khớp với chỏm xương bàn đạp, chạy chếch xuống dưới và ra trước. Thân và ngành xuống xương đe hợp với chỏm và cán búa thành một góc nhọn. Hình 1.6: Xương đe [31] - Ở đầu tận cùng của ngành xuống xương đe có một mỏm xương gần như vuông góc với ngành xuống gọi là mỏm đậu. Đây chính là phần nối với chỏm xương bàn đạp để tạo thành khớp đe - đạp. * Kích thước, khối lượng: - Kích thước:[11], [55] + Chiều dài: người Việt Nam là 6,21 ± 0,41mm, theo Yongjian là 6,8 ± 0,3mm. + Chiều rộng là 4,94 ± 0,35mm, theo Yongjian là 5,0 ± 0,3mm. + Mỏm đậu: đường kính là 0,6 – 0,7mm. - Khối lượng: ở người Việt Nam là 26,68 ± 3,02mg, theo Yongjian là 24,2 ± 3,9mg, theo Schuneckt là 27mg [11],[50],[55] *Dây chằng Xương đe được cố định vào hố đe bởi các dây chằng: 15 + Dây chằng sau: đi từ mỏm của ngành ngang xương đe vào mỏm sau hố đe. + Dây chằng trên: đi từ thân xương đe tới trần thương nhĩ. + Dây chằng bên: là dây chằng gắn xương đe vào chỏm xương búa. 1.1.2.3. Xương bàn đạp * Hình dạng, cấu tạo Gồm có chỏm nối với mỏm đậu, hai gọng nối với chỏm bởi cổ xương bàn đạp, 2 gọng ở phía dưới gắn vào đế xương bàn đạp. - Chỏm: nằm cân đối ở chính giữa 2 gọng hoặc lệch về phía sau hoặc trước. Hình dạng chỏm chia làm 2 loại: + Chỏm tròn: có đường kính dọc bằng đường kính ngang. + Chỏm bầu dục có đường kính dọc lớn hơn đường kính ngang. - Cổ: là phần nối giữa chỏm vào gọng xương bàn đạp. - Gọng xương bàn đạp : nối chỏm xương với đế. + Gọng trước: thẳng và nhỏ hơn gọng sau. + Gọng sau: thường cong và to hơn gọng trước. + Giữa 2 gọng nối với nhau ở phía trên, ngay dưới cổ xương bàn đạp tạo nên hai cung là cung trên và cung dưới. - Đế xương bàn đạp: là nơi 2 gọng gắn vào. Đế có hình bầu dục, chiều cong lồi về phía tiền đình, chiều cong lõm về phía ốc tai. Có 2 hình dạng đế thường gặp: + Bầu dục cân đối: chiều ngang đế phía trước bằng phía sau. + Bầu dục lệch: có một đầu to và một đầu nhỏ. Thường là phía trước to hơn phía sau. * Kích thước, khối lượng: - Kích thước: chiều cao xương bàn đạp trung bình ở người Việt Nam là 3,33 ± 0,21mm. Theo Donalson là 3,26mm.[11],[29] + Chỏm xương bàn đạp:  Đường kính dọc là: 1,02 ± 0,12mm. 16  Đường kính ngang: 0,76 ± 0,07mm.  Chiều cao chỏm là: 0,82 ± 0,16mm. Hình 1.7: Kích thước xương bàn đạp [12] + Đế xương bàn đạp:  Chiều dài là: 2,95 ± 0,29mm  Chiều ngang là 1,46 ± 0,11mm. Theo Donalson là 1,41mm.[29]  Độ dày đế: ở giữa là 0,26 ± 0,04mm, ở phần trước của đế là 0,41 ± 0,07mm, ở phần sau đế là 0,52 ± 0,05mm. - Khối lượng là 3,42 ± 0,8mg. Theo Donalson là 2,86mg.[29] * Cơ bàn đạp: - Cấu tạo cơ bàn đạp: + Là một cơ có hình thoi nhỏ, nằm trong một ống xương xẻ trong thành hòm nhĩ và nằm trước đoạn 3 cống Fallope. + Nguyên ủy và bám tận: Cơ bám ở trong ống xương chui ra ở mỏm tháp bởi một gân. Gân này bẻ gập và quặt ngược lại để bám vào chỏm xương bàn đạp. - Cơ bàn đạp có 2 chức năng: là cơ nghe và chức năng thứ 2 là bảo vệ tai trong. Với những âm thanh lớn > 80dB dội vào tai, cơ bàn đạp sẽ co cứng làm cho đế đạp không ấn vào tiền đình.[42] 1.1.2.4. Các khớp của hệ thống xương con: * Đặc điểm khớp: 17 - Khớp của hệ thống xương con là khớp không tải trọng - Bề mặt khớp được lót bởi sụn có hoặc không có đĩa gian khớp. - Mọi khớp đều có một bao khớp thực sự. Bao khớp này có các sợi dây chằng nối giữa màng xương và khớp xương con. Hình 1.8: Cấu trúc động học của hệ thống xương con và dây chằng [39] *Khớp búa - đe: - Là khớp có bao hoạt dịch, là khớp động nối xương búa và xương đe. - Có hình giống cái yên ngựa, phần đứng của khớp được gắn rất chắc chắn. * Khớp đe - đạp: - Là khớp có bao hoạt dịch. Là loại khớp nối tiếp bằng khớp giữa phần lồi của chỏm xương bàn đạp và phần lồi của mỏm đậu. - Khe khớp luôn tồn tại nhưng không có đĩa sụn gian khớp. - Ở phần dưới và sau của bao khớp thỉnh thoảng nó liên tục với gân cơ bàn đạp. * Khớp bàn đạp – tiền đình: - Khớp bàn đạp tiền đình được tạo bởi đế XBĐ và cửa sổ bầu dục khớp với nhau qua dây chằng vòng. - Là một khớp sợi xơ. Đây là một loại khớp bán động hay còn gọi là khớp nửa giữa đế xương bàn đạp và cửa sổ bầu dục. 18 - Các lớp sợi của tổ chức liên kết tạo thành dây chằng vòng liên tục với màng xương ở phần giữa của mặt dưới đế XBĐ và màng xương của cửa sổ bầu dục. - Mặt trong đế đạp liên quan đến nang xoan và nang cầu của tiền đình màng qua trung gian ngoại dịch của mê nhĩ. 1.1.3. Mạch máu 1.1.3.1. Động mạch cấp máu cho hệ thống xương con: Hệ thống xương con được cấp máu bởi 2 động mạch: - Động mạch hòm nhĩ trước - Động mạch hòm nhĩ trên 1.1.3.2. Tĩnh mạch - Chạy cùng với động mạch cùng tên. - Đổ vào đám rối tĩnh mạch bướm hoặc đổ vào xoang tĩnh mạch đá trên. Hình 1.9: Sơ đồ mạch máu và thần kinh chi phối tai giữa [31] * Niêm mạc tai giữa 19 Tai giữa được phủ một lớp niêm mạc biểu mô hô hấp với những tế bào trụ có lông chuyển, tế bào chế nhày. Lớp biểu mô trụ chỉ lát trong lòng hòm nhĩ và vòi nhĩ, còn nửa sau thượng nhĩ, sào đạo, sào bào và các thông bào chũm được bao phủ bởi một lớp biểu mô dẹt không có tế bào chế nhầy. Dưới niêm mạc là các tuyến chế nhầy, các tuyến này phát triển mạnh ở phần trước của hòm nhĩ và vòi nhĩ đặc biệt ở đoạn vòi nhĩ sụn. 1.2. Sinh lý truyền âm Hệ thống truyền âm bao gồm: tai ngoài, tai giữa và một phần của ốc tai cho tới tận cơ quan Corti [15] [24] [44] [50] 1.2.1. Tai ngoài - Vành tai: Có tác dụng hứng sóng âm ba trong môi trường không khí. Chính cấu trúc lồi, lõm của vành tai có tác dụng: Thứ nhất là tăng diện tích tiếp xúc với sóng âm ba, thứ hai là có tác dụng định hướng âm thanh ở phía trước hay phía sau hoặc ở bên phải hay bên trái, thứ ba là có tác dụng cộng hưởng hoặc chống cộng hưởng âm đối với từng giải tần số [15] [24] [37] [44]. - Ống tai ngoài: là một ống tịt, miệng ống là cửa tai, đáy ống là màng nhĩ. Ống tai không thẳng mà luôn có độ cong. Chiều dài ống tai là 2,5cm đường kính 0,9 – 1,2cm, thể tích ống tai ngoài chứa khoảng 2,5 – 3cm 3 khí. Tác dụng thứ nhất là cộng hưởng âm thanh, đạt hiệu qủa tối đa là tăng sức nghe được 15 dB ở tần số 3 kHz [15] [37] [39]. Tác dụng thứ hai của ống tai là làm giảm tiếng ồn ở tần số 4 kHz do thể tích đệm của không khí trong ống tai. Đối với những dải tần số âm thanh có cường độ lớn thì tư thế của đầu sẽ thay đổi làm cho hướng tác động của âm thanh đối với tai ngoài cũng thay đổi do đó có tác dụng giảm độ ồn của âm thanh đầu vào và bảo vệ tai giữa [37] [42] [44]. 1.2.2. Tai giữa 20 Hòm nhĩ đóng vai trò quan trọng nhất trong cấu tạo của tai giữa đối với hoạt động dẫn truyền âm thanh. Nó bao gồm màng nhĩ, chuỗi xương con với hệ thống dây chằng và cơ, các thành của hòm nhĩ. Khoảng cách giữa màng nhĩ và thành trong của hòm nhĩ chỗ hẹp nhất là 1,5 – 2mm, chỗ rộng nhất là khoảng 5mm. Khoảng trống của hòm nhĩ chứa khí tạo thành một lớp đệm không khí, có tác dụng duy trì áp suất trong hòm nhĩ bằng với áp suất bên ngoài để đảm bảo cho hệ thống màng nhĩ – xương con (MNXC) hoạt động hiệu quả nhất, và không cho dịch ở vòm mũi họng trào ngược lên hòm nhĩ. Hệ thống MNXC hoạt động như một máy biến đổi năng lượng âm thanh từ dạng sóng Viba trong môi trường không khí thành chuyển động cơ học dẫn truyền vào tai trong. Nhưng các dải tần số âm thanh dù được biến đổi dạng chuyển động vẫn được hệ thống dẫn truyền của tai giữa truyền vào tai trong một cách chính xác, không làm méo âm thanh. Hiệu quả hoạt động của hệ thống MNXC là theo kiểu rung động tắt dần, kéo dài bước sóng đối với các dải âm tần số cao, nhưng lại tăng biên độ dao dộng của tần số thấp [24] [37] [42] [44]. 1.2.2.1. Vai trò của màng nhĩ * Rung động của màng nhĩ với những âm thanh có tần số thấp: Có nhiều nghiên cứu động lực học màng nhĩ. Có nhiều phương pháp dùng để quan sát và đo sự rung động của màng nhĩ khi làm thay đổi áp lực ở ống tai ngoài. Các thực nghiệm cổ điểm của Mark và Kessel: 1874; Wada: 1924: dùng phương pháp quang học sử dụng bụi vàng gắn trên bề mặt màng nhĩ. Kobrak: 1941; 1953; Perinam: 1945; Kirikae: 1960; đã sử dụng kỹ thuật nhất ngày quang học (stroboscopic). Wilska: 1935; Békésy: 1941; sử dụng phương pháp diện tích để đánh giá sự thay đổi diện tích trên bề mặt màng nhĩ bằng 1 điện cực hoạt động gắn ở đó [24]. Tonna: 1968, 1972, Lokberg và cộng sự: 1980 đã dùng phương pháp sắc ký sử dụng chùm tia Laser để nghiên cứu rung động của màng nhĩ, và kết luận: các vùng khác nhau của màng nhĩ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan