Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu đề xuất các giải pháp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển ...

Tài liệu Nghiên cứu đề xuất các giải pháp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh hậu giang theo hướng cạnh tranh giai đoạn từ 2011 2015, 2016 2020 và tầm nhìn 2025

.DOC
170
149
149

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Tỉnh Hậu Giang được thành lập ngày 01 tháng 01 năm 2004 trên cơ sở tách ra từ tỉnh Cần Thơ theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khoá XI. Sau 10 năm thành lập, kinh tế-xã hội tỉnh Hậu Giang đã có bước phát triển khá nhanh, tạo tiền đề quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hậu Giang có lợi thế là trung tâm của tiểu vùng Tây sông Hậu, đầu mối trung chuyển giữa vùng Tây sông Hậu và bắc bán đảo Cà Mau qua quốc lộ 61, đường nối Vị Thanh-Cần Thơ, tuyến đường thủy Thành phố Hồ Chí Minh-Cà Mau, Thành phố Hồ Chí Minh-Kiên Giang. Những năm qua được sự quan tâm của Chính phủ, các bộ ngành ở Trung ương đã tạo nhiều cơ hội cho tỉnh Hậu Giang sớm ổn định tổ chức bộ máy, hỗ trợ vốn đầu tư kết cấu hạ tầng tạo tiền đề phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, Hậu Giang có điểm mạnh nổi bật là sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Tỉnh Ủy, quản lý điều hành năng động, sáng tạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực của các ngành, các cấp, sự đồng thuận của nhân dân, sự liên kết với các tỉnh bạn, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh nên đã huy động được nhiều nguồn lực thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh 8 năm qua. Chính nhờ sự tận dụng tối đa những cơ hội và sử dụng hiệu quả điểm mạnh trên, Hậu Giang đã từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với tốc độ cao so với vùng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khá cao 12,38%/năm (năm 2011 đạt 14,12%; năm 2004 là 10,81%). Trong đó, khu vực I: Nông, lâm, thủy sản tăng bình quân 4,55%/năm (năm 2004 là 3,99%); khu vực II: Công nghiệp-xây dựng tăng bình quân 16,28%/năm (năm 2004 là 12,64%); khu vực III: Dịch vụ tăng bình quân 18,64%/năm (năm 2004 là 12,19%). Giá trị sản xuất (theo giá so sánh 1994) tăng bình quân 15,59% (năm 2004 là 15,29%); trong đó: nông-lâm-ngư nghiệp tăng 6,76% (năm 2004 là 5,39%), công nghiệp-xây dựng tăng 19,75% (năm 2004 là 9,85%), thương mại-dịch vụ tăng 20,88% (năm 2004 là 17,3%). Tổng giá trị gia tăng của Hậu Giang năm 2011 đạt 15.155 tỷ đồng theo giá thực tế và 7.256 tỷ đồng theo giá so sánh 1994, gấp khoảng 2,3 lần so với năm 2004. Tuy nhiên, những kết quả đạt được như đã trình bày ở trên chỉ là bước đầu, chưa tương xứng với những tiềm năng và lợi thế của Hậu Giang. Tuy tốc 1 độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhưng chưa thật ổn định, bền vững; năng lực cạnh tranh kinh tế tỉnh còn thấp, nhất là năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, chưa vững chắc so với yêu cầu phát triển, cơ sở hạ tầng của nền kinh tế-xã hội còn yếu kém, chưa đồng bộ; sản xuất nông nghiệp chi phí sản xuất cao, chất lượng hàng hóa nông sản còn thấp, thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa chưa ổn định, việc áp dụng khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, công nghiệp phát triển chậm, chưa có nhiều sản phẩm cạnh tranh cao trên thị trường trong và ngoài nước. Quy mô giá trị gia tăng (VA) của Hậu Giang vẫn còn nhỏ so với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Nếu so tỷ trọng VA của tỉnh với cả vùng trong giai đoạn 2004-2011, chỉ chiếm khoảng 3,7-4,0%, năm 2011 tỷ trọng tổng VA của Hậu Giang so với ĐBSCL là 4,4% (15.155 tỷ đồng so với khoảng 344.000 tỷ đồng). Giá trị gia tăng bình quân đầu người 19,66 triệu đồng, gấp 3,2 lần so với năm 2004 (năm 2004 là 5,99 triệu đồng); quy USD đạt 959 USD (năm 2004 là 383 USD), bằng 73,7%VA/người của cả nước và 84-85%VA/người của vùng ĐBSCL. Tất cả các hạn chế trên đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Xuất phát từ thực tế đó, việc tiếp tục đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Hậu Giang giai đoạn 2004-2011 và nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy chúng theo hướng cạnh tranh giai đoạn 2011-2015; 2016-2020 và tầm nhìn 2025 là vấn đề cần thiết. Để góp một phần nhỏ về các ý tưởng vào phát triển kinh tế tỉnh Hậu Giang, với sự đồng thuận của Hội đồng Khoa học tỉnh, Ủy ban Nhân dân tỉnh, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu giang theo hướng cạnh tranh giai đoạn từ 2011-2015, 2016-2020 và tầm nhìn 2025”. Mục đích của đề tài là thông qua khái quát lý thuyết, để làm cơ sở đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hậu Giang trong giai đoạn 2004-2011. Đồng thời đề xuất các giải pháp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang theo hướng cạnh tranh giai đoạn từ 2011-2015, 2016-2020 và tầm nhìn đến năm 2025. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chung Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong quá trình thực hiện các giải pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi 2 mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang trong 6 năm (2005-2011), trên cơ sở đó nghiên cứu đề xuất các giải pháp bổ sung nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng cạnh tranh giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025. Mục tiêu cụ thể (1) Phân tích, đánh giá thực trạng các giải pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng kinh tế trên địa bàn nghiên cứu trong thời gian qua. (2) Phân tích, đánh giá tác động của các giải pháp hỗ trợ đến thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang theo hướng cạnh tranh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2025. (3) Nghiên cứu đề xuất các giải pháp bổ sung nhằm thúc đầy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang theo hướng cạnh tranh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2025. 3. Nét mới trong nghiên cứu Thông qua phân tích, đánh giá các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang giai đoạn từ năm 2005-2011 sẽ có cái nhìn toàn diện hơn, đầy đủ hơn những kết quả tích cực đạt được và những hạn chế, khó khăn trong quá trình chuyển dịch và nguyên nhân của tình hình. Thông qua dự báo các yếu tố bên trong và bên ngoài để đề xuất các chiến lược ưu tiên trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng cạnh tranh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2025, thông qua thiết lập ma trận SWOT (điểm mạnh-yếu, cơ hội-thách thức), ma trận hình ảnh cạnh tranh và ma trận QSPM. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp bổ sung để tiếp tục thúc đầy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng cạnh tranh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2025. Kiến nghị với UBND tỉnh Hậu Giang trong việc tạo môi trường tốt hơn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025. 4. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu sẽ làm tài liệu tham khảo tốt cho Ban tái cơ cấu của tỉnh trong việc đưa ra các chiến lược tái cơ cấu kinh tế tỉnh. Đồng thời nó cũng là dữ liệu tham khảo cho sở Kế hoạch - Đầu tư trong việc hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội , nhất là giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu 3 kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn từ năm 2011-2015, 2016-2020 và tầm nhìn đến năm 2025. 5. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu nội hàm tổng thể cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang đến năm 2025. Nghiên cứu đề xuất các chính sách, giải pháp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn từ năm 2011-2015; 2016-2020 và tầm nhìn 2025. Giới hạn sử dụng số liệu thứ cấp đến năm 2011, một số nội dung cập nhật đến năm 2012. 6. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và đề nghị, đề tài gồm 3 chương chính: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước Chương 2: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả và thảo luận CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 4 1.1 Tình hình nghiên ngoài nước Về lý thuyết cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế đã được các học giả tiền bối nghiên cứu khá kỹ lưỡng, trong đó phải nói đến lý luận tái sản xuất Tư bản và hình thái Tư bản của Karl Marx. Trong nền kinh tế hiện đại, cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế được các nhà nhiên cứu các nước quan tâm nghiên cứu trên bình diện toàn cầu và từng quốc gia, chẳng hạn: Mô hình dựa vào tài nguyên của D. Ricardo: cho rằng đất đai là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Vì thế, khu vực đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế là nông nghiệp. Của cải, hay sản lượng quốc gia có được là từ đất. Nhưng đất thì có giới hạn, sử dụng quá nhiều thì đất sẽ bạc màu, làm cho năng suất giảm, vì vậy mức giá sẽ tăng, tức lạm phát tăng. Mô hình nhị nguyên (mô hình hai khu vực): lý giải rằng, nguồn gốc của tăng trưởng dựa vào hai yếu tố chính là lao động và vốn. Tăng trưởng kinh tế dựa vào hai khu vực chính là nông nghiệp và công nghiệp. Tiêu biểu cho mô hình này mô hình Lewis của trường phái Tân cổ điển và Harry T.Oshima. Mô hình Harrod-Domar: lại giải thích rằng nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn đưa vào sản xuất tăng lên. Mô hình Sung Sang Park: từ tình hình thực tế trong quá trình tăng trưởng kinh tế của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Brazil,… nhà kinh tế học gốc Hàn Quốc lại cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế là tăng cường vốn đầu tư quốc gia cho đầu tư con người, để có thể có nguồn nhân lực trình độ cao, nhằm tiếp thu và phát triển những công nghệ hiện đại nhất của nhân loại mà không cần đầu tư nghiên cứu và phát triển. Hay nói cách khác, với nguồn nhân lực trình độ cao, một quốc gia có thể “đi tắt, đón đầu” công nghệ của thế giới. Thực tế đã cho thấy, có những quốc gia bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh như nước Đức, nhưng nhờ có nguồn nhân lực với trình độ kỹ thuật cao, tính kỷ luật cao và có sức khỏe tốt, đã nhanh chóng khôi phục kinh tế, đạt được sự tăng trưởng thần kỳ. Về thực tiễn cho thấy ở tất cả các nước đều quan tâm, nhất là sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay, trong có có những quốc gia tiêu biểu như: Trung Quốc: tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, trong đó việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế mới là một trong những nội dung được các nhà khoa học, chính phủ Trung Quốc quan tâm. Bởi vì sau 30 năm phát triển, nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt 5 với nhiều hiện tượng phức tạp, hoạt động sản xuất có xu hướng giảm sút trong 9 tháng năm 2010, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa trên lợi thế lao động giá rẻ, dựa trên lợi thế về tài nguyên. Sau 3 thập kỷ Trung Quốc đã trở thành công xưởng của thế giới và cho đến nay không có ngành sản xuất nào thực sự có khả năng cạnh tranh trên thế giới. Điều này đã buộc các nhà khoa học Trung Quốc phải nghiên cứu và đề xuất sự cấp bách phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xây dựng những ngành sản xuất mới có thể tạo ra những sản phẩm có giá trị cao hơn. Trong tăng trưởng chủ yếu nhằm vào nâng cao chất lượng. Một thành tố rất quan trọng của chiến lược mới là sử dụng năng lượng tiết kiệm hơn, hướng mạnh vào thị trường trong nước, chú trọng hơn đến phát triển nông thôn. Trung Quốc đã thực thi một loạt giải pháp toàn diện, song đặc biệt nhấn mạnh một số giải pháp: tăng cường khả năng tự chủ, sáng tạo, xây dựng đất nước theo mô hình đổi mới, sáng tạo, coi đây là điều cốt yếu của chiến lược phát triển, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy cần tránh tăng trưởng tốc độ cao mà quên đi vấn đề môi trường, chú ý xây dựng nền kinh tế tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu và bảo vệ môi trường; phát triển hợp lý vấn đề tam nông. Trung Quốc coi trọng quy hoạch tổng thể sự phát triển thành thị và nông thôn, khai thác phát triển hiệu quả nguồn tài nguyên quan trọng hàng đầu là đất đai, coi trọng sự phát triển con người. Trong đổi mới mô hình tăng trưởng cần đề cao vai trò của các địa phương điển hình là Quảng Đông, từ tỉnh có nền nông nghiệp lạc hậu trở thành tỉnh có nền kinh tế đứng đầu Trung Quốc. Quảng Đông kiên trì sự lãnh đạo của Đảng, theo con đường CNXH đặc sắc Trung Quốc, kiên định lấy dân làm gốc và tư tưởng giải phóng, dám thử, dám làm, cải cách kinh tế theo hướng thị trường XHCN, xử lý chính xác quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định. Về đổi mới mô hình doanh nghiệp, Trung quốc cũng chia sẻ kinh nghiệm xây dựng mô hình công ty quản lý, đầu tư vốn và tài sản Nhà nước tại các doanh nghiệp cũng như phương pháp quản trị công ty, minh bạch hóa thông tin, mối quan hệ giữa công ty với cổ đông chiến lược và các công ty khác thuộc danh mục đầu tư. Kỳ họp quốc hội Trung Quốc tháng 3 năm 2011 đã thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ 12, Trung Quốc sẽ chuyển hóa toàn bộ mô hình kinh tế, từ phương thức tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư và xuất khẩu sang phương thức tăng trưởng mới mà động lực chính là người tiêu dùng Trung Quốc. Để tăng tỷ trọng của tiêu dùng cá nhân trong GDP (từ 35% lên 45%), Đảng cộng sản Trung Quốc chủ trương tăng phần của tiền lương trong giá trị 6 gia tăng bằng biện pháp nâng mức lương tối thiểu cho các đối tượng lao động có thu nhập thấp (70% tổng số lao động) là lao động nông thôn và lao động nông thôn di dân đến thành thị (dân công). Đồng thời cải thiện an sinh xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế và nhà ở, trợ cấp thất nghiệp và tiền hưu. Trung Quốc chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất, từ những ngành công nghiệp thâm dụng tư bản và không tận dụng lao động dư thừa sang những ngành công nghiệp gắn với sự phát triển dịch vụ và sử dụng lao động nhiều hơn, mục tiêu là tăng việc làm với tỷ suất tăng trưởng GDP chậm hơn, bình quân 7%/năm. Đồng thời nâng hạng chất lượng sản phẩm của Trung Quốc từ hạng dưới lên hạng trung và cao. Sau cùng là cải thiện môi trường sinh thái, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất, hướng đến mô hình tăng trưởng xanh và sạch hơn. Về mô hình xã hội chính trị, Trung Quốc tiến hành cải cách chính trị và mở rộng dân chủ để duy trì phát triển hiện nay. Trung Quốc cho rằng nếu không có cải cách chính trị thì không thể thực hiện được cải cách kinh tế, mong muốn và sự cần thiết dân chủ và tự do không thể cưỡng lại được. Thái Lan: đã thành công trong nghiên cứu và vận dụng rất thành công trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn như: tạo việc làm thông qua thay đổi và cơ cấu lại hệ thống sản xuất nông nghiệp, mở rộng hoạt động công nghiệp và dịch vụ, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp, gắn kết nông nghiệp với công nghiệp chế biến. Trọng tâm của chính sách đào tạo lao động nông thôn nhằm đào tạo lại lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp, đào tạo ngành phi nông nghiệp, nhất là chế biến thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, du lịch sinh thái, đào tạo các kỹ năng marketing và buôn bán nông nghiệp quy mô nhỏ, hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp nông thôn quy mô vừa và nhỏ nhằm thu hút lực lượng lao động. Nhật Bản: trong bối cảnh bị cạnh tranh quyết liệt từ các con rồng, con hổ kinh tế châu Á, từ các nền kinh tế công nghiệp mới như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore đến các gã khổng lồ như Trung Quốc, Ấn Độ, kinh tế Nhật Bản đã tỏ ra chậm chạp, thậm chí là đuối sức trong cuộc đua. Một trong những nguyên nhân đưa Nhật Bản đến thời kỳ suy thoái kéo dài là do mô hình kinh tế định hướng xuất khẩu không còn phù hợp với vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Chính điều đó đã buộc Nhật Bản nghiên cứu và chuyển đổi thành một nền kinh tế tiêu thụ như Mỹ thì mới giúp nền kinh tế này phát triển bền vững hơn. 7 Do vẫn duy trì định hướng xuất khẩu nên mặc dù nằm cách xa trung tâm của cuộc khủng hoảng ở Mỹ và Anh, nền kinh tế Nhật Bản đã được ghi nhận là rơi nhanh nhất và sâu nhất trong cuộc khủng hoảng hiện nay. Từ nhận thức đó, Nhật đang tìm cách thúc đẩy chuyển đổi mô hình kinh tế với việc phát triển thị trường nội địa làm trọng tâm. Theo đó, chính phủ Nhật đã tìm cách tăng nhu cầu trong nước và bảo vệ đời sống nhân dân theo triết lý “tương thân tương ái”. Khoảng cách nông thôn và thành thị phải được thu hẹp. Thông qua đó sẽ ưu tiên hỗ trợ dân chúng, trợ giúp những gì thiết yếu cho trẻ em, giáo dục, y tế và điều dưỡng trong một xã hội Nhật Bản đang già đi. Chính sách này như chuyển “từ bê tông sang con người”. Nhiều dự án cơ sở hạ tầng đang được xem xét lại để chuyển đổi cấu trúc chính sách tài chính. Như vậy, lần đầu tiên kể từ Chiến tranh thế giới II, trọng tâm chú ý ở Nhật Bản sẽ là những hộ gia đình chứ không phải là các công ty. Cam kết sửa đổi lại chính sách hậu chiến tranh của Nhật Bản và thiết lập một xã hội dựa trên khái niệm “tương thân tương ái” của mình, ông Hatoyama nói rằng “thời kỳ thay đổi thật sự đang nằm phía trước”. Trong quá khứ Nhật Bản đã cho thế giới tận hưởng những sản phẩm công nghệ tiên tiến của họ, nếu chính sách mới ưu tiên công nghệ xanh và vì con người này thành công, Tokyo có thể trao món quà mô hình phát triển kinh tế mới cho các nước láng giềng và thế giới. Malaysia: sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Malaysia đã nghiên cứu và đưa ra chính sách mới về kinh tế như: tất cả những người bản xứ, cũng như những người thuộc các chủng tộc khác, đều được phép tham gia đấu thầu các công trình, dự án một cách cạnh tranh và minh bạch, phù hợp với các điều luật nghiêm ngặt và rõ ràng. Tập trung nâng cao mức thu nhập cho tất cả các nhóm đối tượng bị thiệt thòi, sống ở các vùng sâu vùng xa. Quỹ tiết kiệm người lao động sẽ được phép đầu tư nhiều hơn vào các tài sản ở nước ngoài. Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia sẽ được hợp nhất và đổi tên thành Cơ quan phát triển đầu tư Malaysia nhằm hoạt động hiệu quả như một cơ quan xúc tiến đầu tư. Một số công ty thuộc Bộ Tài chính có thể sẽ được tư nhân hóa và Công ty dầu khí quốc gia Petronas sẽ chọn hai công ty con có tầm cỡ để niêm yết trên thị trường chứng khoán trong năm nay. Đây là một động thái nhằm làm giảm bớt sự can dự của chính phủ trong hoạt động kinh doanh của công ty và tăng cường vai trò của khu vực tư nhân. 8 Ông Najib cho biết chính phủ sẽ xem xét lại chế độ trợ giá và mở rộng cơ sở tăng doanh thu thông qua việc áp thuế hàng hóa và dịch vụ như đã đề nghị. Malaysia sẽ theo đuổi các chính sách kinh tế phát triển các ngành công nghiệp kinh tế trí thức trong tương lai, nhằm tạo ra nhiều việc làm có mức lương cao và mang lại thịnh vượng cho tất cả mọi người. Việc tạo ra một đất nước có thu nhập cao đồng nghĩa với việc người lao động có mức lương cao hơn nhờ tăng trưởng kinh tế không phải chỉ từ vốn mà còn từ năng suất đạt được thông qua trình độ tay nghề, sự đổi mới, sự phối hợp, thương hiệu mạnh và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, cũng như đảm bảo quyền bảo vệ tác giả. Theo mô hình mới, tất cả mọi người dân đều được quyền cống hiến cũng như hưởng thụ những thành quả kinh tế của đất nước. Tiếp tục phát triển công nghệ thông tin, điện và điện tử, các ngành công nghiệp dựa vào nguyên liệu dầu cọ, dầu mỏ, khí đốt, nhiên liệu sinh học, hàng tiêu dùng, du lịch và nông nghiệp. Malaysia cũng quyết tâm phấn đấu chiếm lĩnh vai trò dẫn đầu trong công nghệ xanh bằng cách phát triển dịch vụ, các ngành công nghiệp xanh có giá trị cao và phấn đấu trở thành một trung tâm sinh học hàng đầu thế giới. 1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đã xác định trọng tâm quan trọng trong phát triển kinh tế giai đoạn 2011-2015 là: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công chỉ có thể thành công trên cơ sở tiếp tục đổi mới tư duy và phương pháp xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm và 5 năm để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn nội lực và ngoại lực cho đầu tư phát triển theo quy hoạch. Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng cạnh tranh là dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật và nguồn nhân lực chất lượng cao. Dựa trên cơ sở máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất cao cấp để chuyển sang phát triển theo chiều sâu, khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Để sau năm 2020, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ là một 9 trong những thành phố hiện đại, phát triển nhanh và năng động nhất khu vực Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ vươn lên trở thành một trung tâm đa chức năng, trong đó nổi bật là một trung tâm tài chính của khu vực với các ngành dịch vụ cao cấp giữ vai trò chi phối. Tỉnh Đồng Nai xác định mô hình tăng trưởng kinh tế đến năm 2020 tầm nhìn 2025 là chuyển từ tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu dựa trên việc sử dụng hiệu quả 4 nhóm yếu tố chủ yếu: tài nguyên, vốn đầu tư, nguồn nhân lực chất lượng cao và tiến bộ khoa học kỹ thuật bao gồm máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất hiện đại, phần mềm quản lý tiên tiến đảm bảo nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh. Thực tế tỉnh Đồng Nai cho thấy, trong giai đoạn 2011-2015, do các yếu tố của tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng như lao động, tài nguyên thiên nhiên tương đối dồi dào, trong khi trình độ của người lao động và công nghệ vẫn còn hạn chế thì tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng vẫn được tiếp tục. Song, giai đoạn 2016 trở đi, tỉnh Đồng Nai xác định chuyển sang phát triển theo chiều sâu, tức là dựa chủ yếu vào nhân tố TFP (Total Factor Productivity: Năng suất các yếu tố tổng hợp). Trên giác độ các yếu tố đầu vào, một nền kinh tế đạt được tăng trưởng dựa chủ yếu vào 3 nhân tố chính: vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp. Theo mô hình này, tăng trưởng kinh tế được phân thành 2 loại: tăng trưởng theo chiều rộng, phản ánh tăng thu nhập phụ thuộc vào tăng quy mô nguồn vốn, số lượng lao động và lượng tài nguyên thiên nhiên được khai thác; tăng trưởng theo chiều sâu, đó là sự gia tăng thu nhập do tác động của yếu tố TFP. Đối với Tỉnh Hậu Giang, nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII (nhiệm kỳ 2010-2015) nhất trí mục tiêu chung: “Tiếp tục phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường; tập trung chuyển dịch cơ cầu kinh tế và cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội;..” (NQĐH, trang 53). Các hội thảo khoa học và đề án quy hoạch của các sở đã đề cập tất cả các lĩnh vực liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang. Tuy vậy, nếu đi sâu vào, thì quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang đến năm 2025, do giai đọan này gắn với quá trình hội nhập kinh tế thế giới và khu vực mạnh mẽ, nên cần phải được nghiên cứu đầy đủ hơn. Đây chính là vấn đề sẽ được nghiên cứu trong đề tài này. 10 CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Cơ sở lý thuyết 2.1.1 Khái luận tăng trưởng kinh tế và mô hình tăng trưởng kinh tế 2.1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về qui mô sản lượng của nền kinh tế của một quốc gia trong một thời gian nhất định, được đo lường bằng chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng GDP, GNP và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. 11 Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quyết định cho phát triển xã hội, là nền tảng vật chất của tiến bộ và văn minh xã hội. Tuy nhiên nội hàm tăng trưởng kinh tế là tăng lên về số lượng, khái niệm này chưa thể hiện đầy đủ chất lượng của sự tăng trưởng, do vậy trên thực tế không phải sự phát triển nào cũng có lợi cho xã hội. Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc năm 1996 đã chỉ ra 5 loại tăng trưởng xấu cần tránh, đó là: - Tăng trưởng không việc làm: không tạo ra việc làm mới. - Tăng trưởng không lương tâm: chỉ quan tâm một bộ phận người giàu có, nhưng không cải thiện điều kiện sống của đại đa số quần chúng. - Tăng trưởng không tiếng nói: không gắn với sự phát triển về dân chủ. - Tăng trưởng không gốc rễ: làm đạo đức xã hội bị suy thoái. - Tăng trưởng không tương lai: làm hủy hoại môi trường sống. Nhiệm vụ của chúng ta là cần phải lựa chọn những loại tăng trưởng tốt, loại bỏ những loại tăng trưởng xấu nhằm hướng tới mục tiêu: tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững. 2.1.1.2 Mô hình tăng trưởng kinh tế Khái niệm Mô hình tăng trưởng kinh tế: Là sự phản ánh khái quát những đặc tính chủ yếu của phương thức tăng trưởng kinh tế thể hiện các yếu tố tăng trưởng và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau trong từng điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Cho đến nay trên thế giới đã có nhiều mô hình tăng trưởng kinh tế. Các mô hình tăng trưởng kinh tế đều hướng tới lý giải nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, để từ đó các nhà hoạch định chính sách chọn lựa mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp. Cụ thể như: Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng: có nhiều lý thuyết và nhiều khái niệm về mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, song chung qui lại là phương thức tăng trưởng sử dụng nhiều vốn, công nghệ lạc hậu, với đa số lao động tay nghề thấp chủ yếu làm gia công, lắp ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên thô hoặc sơ chế. Hệ quả là chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế không cao, thu nhập của người lao động thấp, đời sống còn nhiều khó khăn. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu: có nhiều cách trình bày khác nhau, chẳng hạn như mô hình dựa vào tài nguyên của D. Ricardo, mô hình nhị nguyên (mô hình hai khu vực), mô hình Harrod-Domar, mô hình Sung Sang. 12 Như vậy, có nhiều lý thuyết về mô hình tăng trưởng kinh tế, mỗi mô hình đều có mặt tích cực và hạn chế của nó. Song nhìn trên tổng thể mô hình Solow, Kaldor và Sung Sang Park là phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Bởi vì mô hình tăng trưởng kinh tế Solow, Kaldor và Sung Sang Park dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật và nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nguồn nhân lực chất lượng cao bao hàm trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tính kỷ luật cao và có sức khỏe tốt. Máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất cao cấp hay phần mềm tiên tiến,... chỉ có thể phát huy hiệu quả tối đa nếu được sử dụng bởi nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp bối cảnh các nước đang phát triển hiện nay. Về mô hình kinh tế gắn kết với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội, người ta có thể phân ra các loại mô hình: “mô hình nhấn mạnh công bằng xã hội trước và tăng trưởng kinh tế sau”, “mô hình tăng trưởng kinh tế trước, công bằng xã hội sau”, “mô hình tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội giải quyết đồng thời”. Trong đề tài này chủ yếu tập trung nghiên cứu mô hình tăng trưởng theo tiêu chí sử dụng nguồn lực để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, do đó chúng tôi sẽ phân tích về các mô hình sau: tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và mô hình kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu nhằm phát triển và tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Chất lượng của tăng trưởng Hiện nay, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng tăng trưởng, mỗi cách tiếp cận có ưu và nhược điểm riêng. Chúng tôi sử dụng các tiêu chí sau đây để đánh giá chất lượng tăng trưởng: - Tăng trưởng kinh tế, thông qua tăng thu nhập quốc dân được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) một cách ổn định, bền vững của kinh tế. - Tăng trưởng kinh tế phải là cơ sở để giúp tăng trưởng công ăn việc làm cho người dân trên phạm vi toàn tỉnh, nhất là lực lượng lao động trong nông nghiệp, nông thôn. - Tăng trưởng kinh tế sẽ là cơ sở để tăng thu nhập GNP, sức mua cho người dân trong tỉnh, từ đó cải thiện thường xuyên đời sống của người dân, phát triển thị trường nội địa của tỉnh. 13 - Tăng trưởng kinh tế sẽ góp phần vào phát triển tri thức, trình độ học vấn, y tế và văn hóa tinh thần cho đông đảo người dân trong tỉnh. - Tăng trưởng với việc tăng của cải hay vốn tự có của kinh tế tỉnh, nghĩa là tăng nội lực của tỉnh (tức là tài sản hiện có trừ đi nợ nước ngoài và tài nguyên không tái tạo được đã khai thác). - Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường thiên nhiên. 2.1.2 Cơ cấu kinh tế Theo C. Marx, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất. C.Márx đồng thời nhấn mạnh, khi phân tích cơ cấu, phải chú ý đến cả hai khía cạnh là chất lượng và số lượng, cơ cấu chính là sự phân chia về chất và tỉ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội. Như vậy, cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỉ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Cơ cấu kinh tế được thể hiện trên hai phương diện vật chất kỹ thuật và kinh tế-xã hội. Về phương diện vật chất kỹ thuật: gồm có cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỉ trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế; cơ cấu theo quy mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ của các loại hình tổ chức sản xuất phản ánh chất lượng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế; cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế-xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất. Về phương diện kinh tế-xã hội: bao gồm cơ cấu theo các thành phần kinh tế phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh của mọi thành viên xã hội; Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hóa tiền tệ. Nó phản ánh khả năng giải quyết mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các ngành, lĩnh vực và các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất. Thập niên 1940, giới nghiên cứu kinh tế học ở Mỹ Latinh cho rằng thuyết thương mại tự do để phát huy lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế theo lý luận của David Ricardo không phù hợp nữa. Ricardo cho rằng các nước giàu tài nguyên có thể phát triển kinh tế bằng cách xuất khẩu nguyên liệu thô. Theo các nhà kinh tế học Mỹ Latinh, Ricardo đưa ra thuyết đó vì nước Anh không có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và nông nghiệp, song có lợi thế về khu vực chế tạo; và vì vậy nước Anh cần theo đuổi thương mại tự 14 do để có thể nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng chế tạo. Tuy nhiên, đầu thế kỷ 20, Mỹ vươn lên thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nước này có gần như đủ loại tài nguyên thiên nhiên, có nền nông nghiệp và khu vực chế tạo phát triển. Mỹ đã không đi theo đường lối thương mại tự do và chính sự bảo hộ nông nghiệp của Mỹ đã làm cho xuất khẩu nông sản của Mỹ bị đình trệ trong thập niên 1920 và thập niên 1930. Từ lập luận như thế, các nhà kinh tế học Mỹ Latinh chủ trương rằng: muốn phát triển kinh tế thì phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng của khu vực sơ khai (nông, lâm, ngư nghiệp và khai thác khoáng sản) và tăng dần tỷ trọng của khu vực chế tạo và khu vực dịch vụ. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đó, công nghệ là thiết yếu. Quan sát mô hình phát triển kinh tế của Phổ, theo đó trong khi nông nghiệp còn đang là khu vực chủ đạo của nền kinh tế, thì công nghiệp nặng đã được Nhà nước ưu tiên phát triển làm động lực cho công nghiệp hóa, các nhà kinh tế học theo trường phái cơ cấu chủ trương rằng nhà phát triển kinh tế cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Trường phái cơ cấu còn cho rằng quan hệ kinh tế quốc tế (thập niên 1940 đến 1960) là quan hệ các nước đang phát triển cung cấp nguyên liệu thô, còn các nước phát triển cung cấp hàng hóa chế tạo. Vì vậy, các nước đang phát triển muốn phát triển nền công nghiệp trong nước phải dựa vào như cầu trong nước. Kết quả của lý thuyết nói trên về phát triển kinh tế đã làm ra đời chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển từ thập niên 1950. Từ thành công của Marshall sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà kinh tế học phát triển ở các nước phát triển cho rằng các nước đang phát triển có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế nếu họ nhận được nhiều vốn và nếu Nhà nước can thiệp hợp lý. Nhân vật tiêu biểu cho các nhà kinh tế này là Walt W. Rostow. Rostow cho rằng để trở thành một nước công nghiệp tiên tiến, cần phải trải qua bốn giai đoạn: (1) xã hội truyền thống; (2) chuẩn bị các tiền đề để cất cánh; (3) cất cánh; (4) trưởng thành; và (5) chuyển sang xã hội tiêu dùng quy mô lớn. Các nước đang phát triển ở vào các giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Muốn cất cánh, các nước đang phát triển cần phải thỏa mãn ba điều kiện, đó là: tăng tỷ lệ đầu tư lên không dưới 10% thu nhập quốc dân thông qua tăng tỷ lệ tiết kiệm hoặc nhận viện trợ của nước ngoài, có một hoặc một số ngành chế 15 tạo tăng trưởng nhanh chóng, và có một khung chính trị, xã hội, thể chế cho phép ngành kinh tế hiện đại phát triển. Rostow nhấn mạnh tốc độ phát triển mà không đề cập đến thay đổi cơ cấu ngành. Do đó, lý luận của Rostow hàm ý phát triển kinh tế chính là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong thập niên 1960 và thập niên 1970, các nhà kinh tế học Marxist mới (American Marxist) đưa ra lý thuyết phát triển phụ thuộc (dependent development). Thế giới chia làm hai nhóm: nhóm nước giàu và nhóm nước nghèo. Sự phát triển của nhóm nước nghèo là "sự phát triển phụ thuộc", theo đó sự phát triển này phụ thuộc vào vốn, thương mại và công nghệ mang đến từ các nước giàu. Các nước kém phát triển thường phụ thuộc vào các nước phát triển và bị bóc lột. Ngay trong một nước nghèo có thể có tầng lớp thống trị (bao gồm chính trị gia, quân nhân,...) có quan hệ khăng khít với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế bóc lột tầng lớp lao động trong nước. Vì vậy, các nước nghèo không nên đi theo con đường tư bản chủ nghĩa để phát triển kinh tế và không nên quan hệ kinh tế với các nước tư bản chủ nghĩa. Chủ trương này hàm ý phát triển kinh tế với nền kinh tế đóng cửa và tự cấp tự túc. Lý thuyết phát triển phụ thuộc sau đó phát triển hơn, đặc biệt là bởi các học giả từ Châu Mỹ La Tinh. Phát triển phụ thuộc nhiều khi là cần thiết, không tránh khỏi. Hầu hết các nước phát triển từ nghèo thành giàu như Australia, Canada, các nước Đông Á, một số nước Mỹ La tinh như Brazil, Argentina... đều phải dựa vào phát triển phụ thuộc. Tuy nhiên, kết cục các nước này cũng khác nhau, tùy theo các yếu tố khác, đặc biệt là năng lực lãnh đạo của nhà nước. Các nước như Hàn Quốc, Đài Loan,... bên cạnh dựa vào thương mại, công nghệ của nước ngoài (như Mỹ), còn có một nhà nước minh bạch, có năng lực quản lý. Vào thập niên 1980, kinh tế học tân cổ điển chủ trương rằng muốn phát triển kinh tế, các nước đang phát triển phải dựa vào thị trường chứ không phải vào sự can thiệp của nhà nước. Nói cách khác, họ đề cao phát triển kinh tế thân thiện với thị trường. Các biện pháp cần thực hiện là xóa bỏ những hạn chế thị trường, tư nhân hóa, tự do hóa thương mại, giảm đầu tư công cộng như một cách để giảm sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài khoản vốn, v.v... Một chương trình tổng hợp những biện pháp như vậy được gọi là Đồng thuận Washington. Lý luận tân cổ điển về phát triển kinh tế này được các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Nhóm Ngân hàng Thế giới tán thành. Ngoài ra còn có Lý thuyết phát 16 triển kinh tế lấy xã hội làm trung tâm; Lý thuyết phát triển kinh tế lấy con người làm trung tâm và lý thuyết phát triển bền vững. 2.1.3 Tính khách quan, tính xã hội của cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế Tính khách quan: do sự phát triển của lực lượng sản xuất, nên phân công lao động trong nền kinh tế xã hội biến đổi ngày càng sâu sắc. Hệ quả các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế được thay đổi sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế với tỉ lệ cân đối tương ứng với các bộ phận, tỉ lệ đó, từ đó đòi hỏi mô hình tăng trưởng kinh tế sẽ hình thành và vận động phù hợp. Mọi sự tác động của nhà nước vào cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế không tuân thủ qui luật khách quan thì sẽ có nguy cơ không thiết lập được cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế tối ưu. Thực tiễn quá trình thiết lập cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng. Tính chất lịch sử xã hội: sự biến đổi của cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi của các yếu tố về chính trị, xã hội của thế giới, của từng quốc gia, trong từng thời kỳ lịch sử, nhất là ảnh hưởng bởi chiến lược, tầm nhìn, mục tiêu và chính sách của nhà nước từng thời kỳ. Bởi vì cơ cấu kinh tế được hình thành còn để phục vụ cho các mục tiêu về chính trị-xã hội. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản xuất, bởi các đặc trưng văn hoá xã hội, bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc, bởi chính sách cụ thể của từng quốc gia. 2.1.4 Yếu tố ảnh hưởng cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất, thay đổi công nghệ, thiết bị, hình thành các ngành nghề mới, biến đổi lao động giản đơn thành lao động phức tạp, làm dịch chuyển từ ngành này sang ngành khác. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ phá vỡ mô hình kinh tế hiện hữu, hình thành một mô hình tăng trưởng kinh tế mới phù hợp hơn, thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhu cầu tiêu dùng của xã hội sẽ quyết định sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế các ngành, lĩnh vực, bộ phận trong toàn bộ nền kinh tế. Và ngược lại nếu như xã hội không có nhu cầu về sản phẩm hàng hóa một ngành nào đó, thì cơ cấu giữa các ngành sẽ không thay đổi. Thị trường và nhu cầu xã hội còn quy định chất lượng sản phẩm và dịch vụ, nên tác động trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của các ngành kinh tế, cơ sở kinh tế, tác động đến xu hướng phát triển và phân công lao động xã hội, đến vị trí, tỷ trọng các ngành, lĩnh vực trong cơ cấu của nền kinh tế quốc gia. 17 Xu thế toàn cầu hóa, thị trường thế giới thống nhất tạo điều kiện cho các quốc gia chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng toàn cầu. Sự biến động về chính trị, xã hội của một nước hay một số nước, nhất là nước lớn, sẽ tác động mạnh đến các hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ,…của các nước khác trên thế giới và khu vực. Do đó, thị trường và nguồn lực nước ngoài cũng thay đổi, buộc các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế nước mình ổn định và phát triển. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội là định hướng chung cho mọi thành phần, mọi doanh nghiệp trong cả nước, phấn đấu thực hiện dưới sự điều tiết của nhà nước thông qua hệ thống luật pháp và các quy định, thể chế chính sách của nhà nước. Sự điều tiết của nhà nước gián tiếp dẫn dắt các ngành, lĩnh vực và thành phần kinh tế phát triển, đảm bảo tính cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ và suy thoái kinh tế của các quốc gia lớn trên thế giới năm 2008 đến nay, đã tác động xấu đến kinh tế Việt Nam nói chung và Hậu Giang nói riêng, nhưng nó cũng mang lại nhiều nhân tố tích cực hay “động lực” cho việc tìm đến cơ hội như: phá vỡ cục bộ hay toàn cục cơ cấu kinh tế cũ, mô hình kinh tế đang vận hành, vì với cơ cấu kinh tế cũ và mô hình hiện hành không đảm bảo khả năng cạnh tranh, không đảm bảo kinh tế phát triển bền vững, không khai thác hiệu quả các tiềm lực. Nó giúp tái thiết mô hình kinh tế, cơ cấu kinh tế mới, trật tự kinh tế mới, tạo dựng nền móng vững chắc cho sự phát triển bền vững theo xu hướng toàn cầu hóa, có khả năng cạnh tranh. 2.1.5 Vai trò của Nhà nước đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế - Thiết lập và hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách có ảnh hưởng đến hình thành, hoàn thiện cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế. - Tạo lập và đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp phù hợp với yêu cầu của việc tạo lập cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng kinh tế. - Nhà nước tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi cho quá trình thiết lập, hoàn thiện cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế. - Nhà nước còn có vai trò kiểm tra, giám sát, điều chỉnh chúng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. 18 - Nhà nước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, y tế,... nhằm tạo điều kiện tốt cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế. 2.1.6 Cơ cấu và mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và tỉnh Hậu Giang 2.1.6.1 Cơ cấu và mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam Về mô hình tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam đã được nghị quyết Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ ba, Khóa XI xác định như sau: Về mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam: Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Đây là một cơ sở quan trọng nhất để xác định nội dung cốt lõi của mô hình tăng tưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hậu Giang. Vì thực chất mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế tỉnh là sự cụ thể hóa mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế của cả nước vào điều kiện cụ thể của tỉnh. 2.1.6.2 Mô hình tăng trưởng kinh tế Hậu Giang Trên cở sở lý thuyết đó, chúng tôi đồng tình với nhiều nhà khoa học cho rằng mô hình tăng trưởng kinh tế tỉnh Hậu Giang theo hướng cạnh tranh đến năm 2020 tầm nhìn 2025 là Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu dựa trên việc sử dụng hiệu quả 4 nhóm yếu tố chủ yếu: tài nguyên thiên nhiên - vốn đầu tư - nguồn lao động và khoa học & công nghệ, vừa mở rộng qui mô SXKD vừa đảm bảo nâng cao chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh. Tài nguyên thiên nhiên (Resources): là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất của tỉnh là đất đai, khoáng sản, rừng và nguồn nước,... Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để tăng trưởng kinh tế, nhất là tăng trưởng theo chiều rộng. Vì chúng tạo nên lợi 19 thế của tỉnh về các yếu sản xuất, có vai trò quan trọng trong tăng trưởng chiều rộng. Tuy vậy, dây chỉ là nhóm yếu tố ban đầu, chứ không phải duy nhật. Thí dụ Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao, nền kinh tế dựa trên đầu tư chiều sâu có sức cạnh tranh cao. Lao động: Trước đây, chúng ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn tài chính và được xác định bằng số lượng dân số, nguồn lao động của mỗi quốc gia, địa phương. Nhưng các mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực, đó là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế, những lao động có ý thức kỷ luật cao và có sức khỏe tốt. Vì vậy, vốn nhân lực có thể đầu tư thông qua giáo dục, đào tạo hay y tế. Thu nhập đem lại của loại vốn này phụ thuộc vào khả năng sở hữu của từng cá nhân. Vốn nhân lực có đặc điểm khác biệt tạo nên đặc trưng khi so với các nhân tố khác như: bản thân vốn nhân lực có thể tự sinh ra và tăng lên trong quá trình lao động. Khả năng này được hiểu là quá trình gia tăng kinh nghiệm của người lao động trong quá trình sản xuất làm năng suất lao động tăng lên. Mặt khác, vốn nhân lực có khả năng chia sẻ, chuyển giao mà không làm giảm đi nguồn lực ban đầu. Ví như, khi chia sẻ tri thức của người lao động này sang người lao động khác, không làm giảm tri thức của người đã chia sẻ. Đối với các nước tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng thì sự đóng góp của quy mô, số lượng lao động, giá lao động rẻ rất quan trọng. Nhưng số lượng lực lượng lao động đông đảo không phải là động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng nếu như quốc gia đó có vốn nhân lực thấp. Đặc biệt là các nước, các địa phương đang tăng trưởng, nơi mà lao động nông nghiệp-nông thôn còn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lực lượng lao động. Vốn: vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền của những tài sản nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta, cũng như các địa phương, do đang ở giai đoạn tăng trưởng chiều rộng nên sự đóng góp của vốn sản xuất kinh donah thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất tăng trưởng theo chiều rộng. Tuy vậy, tác động của yếu tố này đang có xu hướng giảm dần và 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan