Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sô...

Tài liệu Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông

.PDF
265
173
134

Mô tả:

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CỤC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP BỘ NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG NỘI DUNG QUY HOẠCH TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG Chủ nhiệm đề tài: TS. NGUYỄN LÊ TUẤN 7460 23/7/2009 HÀ NỘI – 2009 BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CỤC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC ¶¶¶ BTNMT CQLTNN BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG NỘI DUNG QUY HOẠCH TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG TS. NGUYỄN LÊ TUẤN HÀ NỘI, 2009 BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CỤC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC ¶¶¶ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG NỘI DUNG QUY HOẠCH TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG Chỉ số phân loại: Số đăng ký: Chỉ số lưu trữ: Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Lê Tuấn Các cộng tác viên chính: KS. Nguyễn Sĩ Khôi Cục Quản lý tài nguyên nước KS. Nguyễn Vũ Trung Cục Quản lý tài nguyên nước ThS. Nguyễn Thị Việt Hồng Cục Quản lý tài nguyên nước KS. Lương Quang Phục Cục Quản lý tài nguyên nước TS. Nguyễn Tuấn Quang Cục Quản lý tài nguyên nước TS. Ngô Lê Long Trường ĐH Thủy lợi Hà Nội Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Chủ nhiệm đề tài Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Thủ trưởng cơ quan chủ trì Nguyễn Lê Tuấn Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Chủ tịch Hội đồng đánh giá chính thức Lê Bắc Huỳnh Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Thủ trưởng cơ quan quản lý đề tài TL. BỘ TRƯỞNG VỤ TRƯỞNG VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PGS. TS. Ngô Trọng Thuận Nguyễn Đắc Đồng BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC XÂY DỰNG NỘI DUNG QUY HOẠCH TỔNG HỢP TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG Chỉ số phân loại: Số đăng ký: Chỉ số lưu trữ: Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Lê Tuấn Các cộng tác viên: KS. Nguyễn Sĩ Khôi Cục Quản lý tài nguyên nước KS. Nguyễn Vũ Trung Cục Quản lý tài nguyên nước ThS. Nguyễn Thị Việt Hồng Cục Quản lý tài nguyên nước KS. Lương Quang Phục Cục Quản lý tài nguyên nước TS. Nguyễn Tuấn Quang Cục Quản lý tài nguyên nước TS. Ngô Lê Long Trường ĐH Thủy lợi Hà Nội Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Chủ nhiệm đề tài Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Thủ trưởng cơ quan chủ trì Nguyễn Lê Tuấn Lê Bắc Huỳnh Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Chủ tịch Hội đồng đánh giá chính thức Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Thủ trưởng cơ quan quản lý đề tài TL. BỘ TRƯỞNG VỤ TRƯỞNG VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PGS. TS. Ngô Trọng Thuận Nguyễn Đắc Đồng MỞ ĐẦU Quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông là cơ sở quan trọng, là công cụ thiết yếu trong quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Kinh nghiệm quốc tế cũng như Việt Nam cho thấy việc chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước giữa các đối tượng và mục đích sử dụng tài nguyên nước, phát triển tài nguyên nước cùng với bảo vệ tài nguyên nước, phòng, tránh, giảm thiểu thiệt hại do nước gây ra thường được xem xét, quyết định theo đơn vị lưu vực sông. Cũng chính ở cấp độ lưu vực sông, các vấn đề đang được quan tâm về môi trường, về nước cho sinh hoạt đô thị và nông thôn, tưới tiêu, công nghiệp, phát điện v.v... mới có thể đánh giá được một cách toàn diện, đầy đủ, tương ứng với thuộc tính biến đổi mạnh theo không gian và thời gian của các đặc trưng về tài nguyên nước trên lưu vực sông. Để tiến hành quản lý tổng hợp lưu vực sông trên cơ sở hài hòa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường theo các nguyên tắc của phát triển bền vững, cần phải có bước đi thích hợp với điều kiện của Việt Nam. Nguyên tắc “sử dụng tổng hợp, quản lý thống nhất tài nguyên nước”, tuy đã được đưa vào Luật Tài nguyên nước nhưng trên thực tế chưa được áp dụng triệt để. Những lợi ích theo ngành, theo địa phương vẫn chi phối mạnh các quyết định liên quan đến tài nguyên nước; phát triển tài nguyên nước chưa đi đôi với các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nước; các công cụ chính sách, tài chính chưa thực sự phát huy tác dụng trong công tác quản lý... Tài nguyên nước trên các lưu vực sông tiếp tục tiềm ẩn nguy cơ suy thoái, cạn kiệt; nhiều mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nảy sinh có lúc, có nơi rất gay gắt. Thực tế đó đòi hỏi cần nhanh chóng triển khai quản lý tổng hợp lưu vực sông, trong đó, quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông là cở sở quan trọng hàng đầu. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhất là quy hoạch có liên quan đến tài nguyên nước trước đây, quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông là một quá trình lâu dài và phức tạp, cần phải đi từ tổng thể đến chi tiết, từ những vấn đề lớn, có tính chiến lược đối với tài nguyên nước trên lưu vực sông đến những giải pháp, biện pháp quản lý cụ thể; từ nhiệm vụ xác định các mục tiêu, các vấn đề ưu tiên và giải pháp tổng thể về bảo vệ, khai thác, phát triển và sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống, giảm thiểu các tác hại do nước gây ra và bảo vệ môi trường có liên quan đến tài nguyên nước lưu vực sông đến nhiệm vụ xác định các quy tắc, các hoạt động, hành động cụ thể nhằm quản lý tổng hợp và bền vững tài nguyên nước lưu vực sông. Lưu vực sông là một thực thể rất phức tạp trong đó diễn ra đầy đủ các quá trình thành phần trong chu trình vận động của nước trong tự nhiên. Lưu vực sông cũng là nơi diễn ra các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, các hoạt động phát triển lưu vực hết sức đa dạng. Từ đó, có thể thấy các kiến thức, nhận thức, cơ sở khoa học đóng vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình xây dựng quy hoạch. Hơn nữa, khi xây dựng các quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông, về cơ bản, cần dựa trên những mối quan hệ đa diện của tất cả các quá trình thành phần trong chu trình của nước trên lưu vực sông. Kiến thức khoa học cần thiết là kiến thức đa ngành, kể cả khoa học tự nhiên (thủy văn, môi trường, địa chất thủy văn, thủy lực học...) và khoa học xã hội (kinh tế, tài chính, xã hội học....). Do đó, 3 việc nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng trình tự và nội dung quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông phù hợp với bối cảnh thực tế của Việt Nam là hết sức cần thiết. Đề tài có mục tiêu: “Xây dựng luận cứ khoa học để xác định trình tự và nội dung lập quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông, phục vụ công tác quản lý tài nguyên nước các lưu vực sông trong cả nước”. Để đáp ứng mục tiêu này, đề tài có những nội dung nghiên cứu chủ yếu sau đây: - Tổng quan về phương pháp luận quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông và tình hình lập, thực hiện quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông; - Nghiên cứu cơ sở khoa học về các loại hình/cấp độ quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông; xác định các loại quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông; các nội dung liên quan đến lập nhiệm vụ quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông. - Nghiên cứu cơ sở khoa học của các nội dung liên quan đến phân bổ, chia sẻ tài nguyên nước lưu vực sông. - Nghiên cứu cơ sở khoa học của các nội dung liên quan đến bảo vệ tài nguyên nước lưu vực sông. - Nghiên cứu cơ sở khoa học của các nội dung liên quan đến phòng, chống và giảm thiểu tác hại do nước gây ra. - Các vấn đề khoa học – công nghệ có liên quan đến lập quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông và kiểm chứng các kết quả nghiên cứu đối với lưu vực sông Ba. Trong quá trình thực hiện, đề tài đã được sự quan tâm, giúp đỡ có hiệu quả của Vụ Khoa học - Công nghệ, Vụ Kế hoạch - Tài chính; sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Cục Quản lý tài nguyên nước, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan có liên quan và các cộng tác viên, các đồng nghiệp. Đặc biệt là sự phối hợp, đóng góp ý kiến và giúp đỡ các đồng nghiệp của Cục Quản lý tài nguyên nước trong quá trình xây dựng, dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản pháp quy kỹ thuật phục vụ công tác quản lý tài nguyên nước trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, mới chỉ trong những năm gần đây, quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông theo cách tiếp cận nhằm quản lý tổng hợp, bền vững tài nguyên nước là vấn đề được đặt ra một cách thường xuyên và cấp bách hơn. Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông đề cập đến nhiều nội dung, kiến thức còn rất mới mẻ, phức tạp đối với chủ nhiệm đề tài. Hơn nữa, đây là vấn đề có liên quan đến nhiều ngành khoa học, nhiều lĩnh vực khác nhau. Với mong muốn đóng góp một phần kết quả nghiên cứu vào công tác quản lý tài nguyên nước nhưng do khả năng và hiểu biết còn hạn chế, các kết quả của đề tài không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Chủ nhiệm đề tài mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các đồng nghiệp, các nhà khoa học, quản lý quan tâm tới vấn đề này. 4 CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ QUY HOẠCH TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG - CÁC LOẠI QUY HOẠCH TÀI NGUYÊN NƯỚC I. Khái niệm quy hoạch tài nguyên nước I.1 Sự cần thiết phải xây dựng quy hoạch tài nguyên nước Quy hoạch là quá trình nghiên cứu các giải pháp, biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề, đáp ứng các yêu cầu hoặc đề xuất các hoạt động để bảo đảm đạt được những mục tiêu đề ra. Quá trình quy hoạch có tính dự báo và luôn hướng tới mục tiêu sử dụng tối ưu các nguồn lực hiện có. Trong Hội nghị của Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển bền vững ở Rio de Janeiro, các nhà lãnh đạo của thế giới đã tán thành khái niệm “phát triển bền vững” thông qua việc phê duyệt Tuyên bố Rio, một bản tuyên bố gồm 27 nguyên tắc làm cơ sở cho sự phát triển bền vững, bao gồm cách tiếp cận thận trọng đối với các vấn đề về môi trường, xã hội và kinh tế. Các nguyên tắc được này đã được đưa vào tài liệu “Chương trình nghị sự 21”, một kế hoạch hành động toàn diện để hỗ trợ các nước thực hiện phát triển bền vững. Chương 18 của Chương trình nghị sự 21 đề cập tới “Bảo vệ chất lượng và cung cấp các nguồn nước ngọt: Áp dụng các cách tiếp cận tổng hợp tới quản lý phát triển và sử dụng các nguồn tài nguyên nước”. Trong chương này, Chương trình cũng nêu rõ: “Mức độ đóng góp của phát triển các nguồn nước vào năng suất lao động và phúc lợi xã hội thường không được đánh giá mặc dù tất cả các hoạt động xã hội và kinh tế đều dựa rất nhiều vào việc cung cấp và chất lượng của nước ngọt. Khi dân số và các hoạt động kinh tế tăng lên, nhiều quốc gia đã nhanh chóng tiến đến tình trạng khan hiếm nước hoặc bị đối mặt với các giới hạn của sự phát triển kinh tế. Nhu cầu đối với nước tăng lên nhanh chóng, trong đó 70-80% cần cho tưới tiêu, dưới 20% là cho công nghiệp và chỉ có 6% cho tiêu dùng của hộ gia đình. Quản lý toàn diện nước ngọt như một nguồn tài nguyên có hạn, dễ bị tổn thương và việc lồng ghép các kế hoạch và chương trình về nước của ngành vào khung khổ của chính sách kinh tế và xã hội quốc gia, có tầm quan trọng hết sức lớn lao cho hành động trong thập niên 90 và sau thập niên 90. Tuy nhiên, tình trạng phân tán trách nhiệm giữa các cơ quan ngành đối với phát triển các nguồn nước được chứng minh là một trở lực đối với việc thúc đẩy quản lý tổng hợp nguồn nước, thậm chí còn lớn hơn so với dự kiến; cần có cơ chế thực hiện và phối hợp hiệu quả”. Vì vậy, có thể nói, việc điều hòa giữa phát triển kinh tế và xã hội, bảo vệ môi trường với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên là rất cấp thiết. I.2 Khái niệm và mục tiêu tổng quát của quy hoạch tài nguyên nước Cũng xuất phát từ khái niệm phát triển bền vững, khái niệm quy hoạch tài nguyên nước cũng đã được đưa ra thảo luận từ lâu. Hiện nay, nhiều tài liệu [37, 49] thống nhất khái niệm quy hoạch tài nguyên nước như sau: Quy hoạch tài nguyên nước là quá trình đánh giá, xác định các yêu cầu trước mắt và lâu dài đối với tài nguyên nước và xác định các giải pháp, biện pháp, cách thức phù hợp nhất về kỹ 5 thuật, kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường để đáp ứng các yêu cầu đó. Quy hoạch tài nguyên nước có mục tiêu tổng quát là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước và các vùng lãnh thổ, cải thiện chất lượng môi trường tự nhiên, tạo ra các ảnh hưởng tích cực về mặt xã hội (giảm tỷ lệ đói nghèo, cải thiện điều kiện vệ sinh nước ăn uống, sinh hoạt...). I.3 Đơn vị cơ sở để tiến hành lập quy hoạch và quản lý tài nguyên nước - lưu vực sông Trong tự nhiên, nước vận động theo lưu vực sông, không phân chia theo địa giới hành chính. Mọi hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước cũng như các tác động của nó đều diễn ra trên quy mô lưu vực. Do đó, việc quy hoạch và quản lý tài nguyên nước phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp và thống nhất trên cơ sở lưu vực sông. Luật Tài nguyên nước đã quy định nguyên tắc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải theo quy hoạch lưu vực sông đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; bảo đảm tính hệ thống của lưu vực sông, không chia cắt theo địa giới hành chính (khoản 1 Điều 5). Luật Tài nguyên nước cũng quy định quy hoạch lưu vực sông là quy hoạch về bảo vệ, khai thác, sử dụng nguồn nước, phát triển tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trong lưu vực sông (khoản 16 Điều 3). Do vậy, trên quan điểm khoa học và những căn cứ pháp lý, lưu vực sông là đơn vị cơ sở để tiến hành lập quy hoạch tài nguyên nước. Kinh nghiệm quốc tế cũng như Việt Nam cho thấy việc chia sẻ, phân bổ tài nguyên nước giữa các đối tượng và mục đích sử dụng tài nguyên nước, phát triển tài nguyên nước cùng với bảo vệ tài nguyên nước, phòng, tránh, giảm thiểu thiệt hại do nước gây ra thường được xem xét, quyết định theo đơn vị lưu vực sông. Cũng chính ở mức độ lưu vực sông, các vấn đề đang được quan tâm về môi trường, về nước cho sinh hoạt đô thị và nông thôn, tưới tiêu, công nghiệp, phát điện v.v... mới có thể được đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ, tương ứng với thuộc tính biến đổi mạnh theo không gian và thời gian của các đặc trưng tài nguyên nước trên các lưu vực sông. Nhiều nhà quản lý, nghiên cứu về tài nguyên nước trên thế giới hiện nay cho rằng quy hoạch và quản lý lưu vực sông, nếu được thực thi thành công, là cơ chế tổng hợp mạnh nhất, hiệu quả nhất để quản lý tài nguyên nước. Cơ chế này vừa bảo đảm nguyên tắc quản lý tài nguyên nước “trên cơ sở lưu vực sông, không chia cắt theo địa giới hành chính”, vừa tạo ra cơ sở để tiến hành đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng trong các quyết sách về tài nguyên nước cũng như để tiến hành tổng hợp các khía cạnh khác nhau của quản lý tài nguyên nước với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và xóa đói, giảm nghèo trên lưu vực sông. II. Tổng quan về công tác quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông II.1 Trên thế giới Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông là một quá trình thực hiện các hoạt động liên quan đến nhiều vấn đề về khoa học và công nghệ. Do vậy, khó có thể đưa ra một tổng quan chung cho các vấn đề này trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, 6 liên quan đến trình tự, nội dung quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông (theo cách tiếp cận hợp lý với điều kiện Việt Nam hiện nay như đã trình bày), có thể kể ra một số hoạt động, công trình nghiên cứu tiêu biểu ở nước ngoài: - Tháng 2 năm 1983, Tổng thống Mỹ lúc đó là Ronald Reagan đã ký ban hành “Các nguyên tắc về kinh tế và môi trường đối với các nghiên cứu triển khai về nước và tài nguyên đất có liên quan” (Economic and Environmental Principles for Water and Related Land Resources Implementation Studies). Trên cơ sở các nguyên tắc này, Hội đồng Quốc gia Tài nguyên nước của Hoa Kỳ đã ban hành các hướng dẫn, phục vụ việc xây dựng và quản lý quy hoạch. Nhằm cụ thể hơn các công việc cần tiến hành, tháng 4 năm 2002, lực lượng công binh Hoa Kỳ đã biên soạn, cập nhật sổ tay hướng dẫn quy hoạch (Planning Guidance Notebook), trong đó đưa ra 6 bước tiến hành xây dựng các quy hoạch nói chung, bao gồm: + Xác định các vấn đề, các cơ hội; + Tiến hành điều tra và dự báo các điều kiện; + Xây dựng các phương án đáp ứng mục tiêu đặt ra; + Đánh giá từng phương án; + So sánh các phương án; + Lựa chọn phương án tối ưu. Tài liệu này cũng đưa ra những nội dung chủ yếu của từng bước đối với quy hoạch tài nguyên nước. - Ở Úc, để tiến hành quản lý lưu vực sông Murray - Darling (diện tích trên 1 triệu km2 nằm trên phần lãnh thổ thuộc các bang New South Wales, Victoria, Queenland, South Australia), chiến lược quản lý lưu vực sông được chuẩn bị và phê duyệt trước tiên, sau đó các quy hoạch sẽ được xây dựng, phê duyệt và thực hiện, bao gồm: quy hoạch bảo vệ tài nguyên nước và chất lượng nước; quy hoạch chia sẻ, phân bổ nguồn nước; quy hoạch phòng, chống, giảm thiểu tác hại của xâm nhập mặn... Văn bản chiến lược tổng thể được mang tên: Chính sách quản lý tổng hợp lưu vực (The Integrated Catchment Management Policy - ICM Policy) được Hội đồng các Bộ trưởng lưu vực Murray - Darling và Ủy ban Tư vấn cộng đồng đưa ra tháng 6 năm 2001 sau khi tham vấn rộng rãi với các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành và cộng đồng dân cư trong và ngoài lưu vực. Văn bản này là khung khổ cho công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên của lưu vực sông trong giai đoạn 2001 – 2010. Văn bản bao gồm các mục tiêu, xác định các giá trị và nguyên tắc cơ bản để hướng dẫn cộng đồng, các cơ quan thuộc Chính phủ cũng như các ngành khác nhau theo mục tiêu cải thiện chất lượng, bảo tồn và hạn chế các sức ép đối với tài nguyên thiên nhiên của lưu vực sông. Văn bản chính sách này cũng đưa ra khung thời gian và các mục đích về chất lượng nước, về việc chia sẻ nước, sức khỏe của các hệ sinh thái sông và đa dạng sinh học trên cạn cần đạt được theo khung thời gian đó. Một vấn đề mấu chốt khác trong văn bản chính sách này là việc xây dựng và tăng cường năng lực cho các bên liên quan nhằm thực thi nhiệm vụ của mình, phát triển cơ sở tri thức cũng như việc trao đổi các kiến thức giữa các 7 bên liên quan trong việc xây dựng, thực hiện và đánh giá quy hoạch lưu vực sông, liên kết giữa quy hoạch lưu vực với quy hoạch sử dụng đất, phân rõ vai trò, trách nhiệm cũng như bổn phận của từng bên ở tất cả các cấp độ quản lý. Các quy hoạch nhằm cụ thể hóa văn bản chính sách và thực thi văn bản này, trong nhiều trường hợp đối với các vấn đề cụ thể của lưu vực sông Murray – Darling, được coi là các chiến lược cụ thể, ví dụ, Chiến lược quản lý mặn lưu vực (tháng 8 năm 2001), Chiến lược khôi phục quần thể cá của lưu vực sông (tháng 5 năm 2003), chiến lược quản lý các bãi lũ lưu vực sông Murray – Darling (tháng 8 năm 2003)... Tiếp theo các chiến lược cụ thể là các dự án, chương trình đã và đang được thực hiện. Ví dụ, dự án “Quản lý dòng chảy môi trường và mục tiêu chất lượng nước đối với sông Murray”, chương trình “Nguy cơ rủi ro đối với các nguồn nước được chia sẻ”, sáng kiến “Sông Murray sống động”, các hội thảo chuyên đề dành cho những người trẻ tuổi và vấn đề quản lý tổng hợp,bền vững lưu vực sông Murray – Darling... [34] - Tại các nước châu Âu, cụ thể là các nước trong Cộng đồng châu Âu, hoạt động quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông tuân theo chỉ thị khung về nước (Water Framework Directive) số 2000/60/EC. Điều 13 của chỉ thị quy định về quy hoạch (chính xác hơn là kế hoạch) quản lý các lưu vực sông. Những nội dung cần thiết đối với bản quy hoạch này bao gồm: + Mô tả tổng quan về các đặc điểm của lưu vực sông (đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội, đặc điểm nguồn nước...); + Tóm tắt các áp lực chính và các tác động quan trọng của các hoạt động của con người tới tài nguyên nước trong lưu vực sông; + Xác định và lập bản đồ các vùng cần bảo vệ trong lưu vực sông; + Xác định hệ thống giám sát tài nguyên nước; + Xác định các mục tiêu môi trường của lưu vực sông; + Xây dựng các phương án quy hoạch; + Chi tiết hóa phương án quy hoạch cho một số tiểu vùng hay đối với vấn đề cụ thể của lưu vực sông; + Tham vấn cộng đồng về phương án quy hoạch; + Giải pháp thực hiện quy hoạch. Một số vấn đề có liên quan đến công tác điều tra, khảo sát kỹ thuật phục vụ lập quy hoạch đối với các loại hình nguồn nước cũng đã được quy định, tuy mới chỉ ở mức độ khung, mang tính khái quát. Một số nhận xét: - Phương pháp tiếp cận trong quản lý lưu vực sông luôn được thực hiện theo quan điểm hệ thống, đi từ tổng thể đến chi tiết. Quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông nhằm cụ thể, chi tiết hóa các chiến lược quản lý lưu vực sông. Quy hoạch được xác định là một quá trình lặp đi lặp lại để đạt được mục tiêu quản lý. Các nội dung chính trong quy hoạch tài nguyên nước được xác định một cách mạch lạc, trong đó nhấn mạnh vào sự tham gia và đồng thuận rộng rãi của các đối tượng bị 8 tác động, ảnh hưởng của quy hoạch. Trên cơ sở đó, nâng cao tính toàn diện, tổng thể trong quá trình xây dựng quy hoạch và tính khả thi khi thực hiện quy hoạch. - Bảo vệ tài nguyên nước, bảo tồn các giá trị của nước đối với con người và môi trường là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong nội dung quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông. Nội dung này được lồng ghép chặt chẽ khi xây dựng các phương án quy hoạch khai thác, sử dụng và phát triển tài nguyên nước. - Quy hoạch tài nguyên nước không đơn thuần tập trung vào việc đề xuất các dự án, công trình về tài nguyên nước mà còn chú trọng đặc biệt đến việc hoàn thiện thể chế, chính sách cùng với các biện pháp, giải pháp phi công trình trong việc bảo vệ tài nguyên nước, phân bổ, chia sẻ nguồn nước và phòng, chống, giảm thiểu tác hại do nước gây ra. Nói một cách khác, quy hoạch không chỉ là bước nghiên cứu để đưa ra những công trình, dự án cụ thể để khai thác, sử dụng nguồn nước như quan điểm trước đây (quy hoạch phục vụ các ngành) mà là công cụ chủ yếu để hoạch định chính sách, xây dựng thể chế, thiết lập những nguyên tắc cơ bản phục vụ quản lý tài nguyên nước trên quan điểm tổng hợp, bền vững, liên ngành và liên vùng. II.2 Ở Việt Nam Ngày 28 tháng 10 năm 1995, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi (trước đây) ra quyết định số 167 QĐ/KHTL về việc ban hành tiêu chuẩn ngành “Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước – Các quy định chủ yếu”. Tiêu chuẩn ngành này của Bộ Thủy lợi có mã số 14 TCN 87 – 1995; được áp dụng cho việc lập mới hoặc bổ sung quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước ở một lưu vực sông, một vùng kinh tế, liên lưu vực hoặc toàn quốc. Quy hoạch sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước quy định trong tiêu chuẩn này được gọi tắt là quy hoạch thủy lợi, tùy theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu vì nhiệm vụ của quy hoạch thủy lợi, điều kiện tự nhiên, quy hoạch thủy lợi cụ thể gồm toàn bộ hoặc một số quy hoạch chuyên ngành sau: - Quy hoạch thủy nông (tưới tiêu, cải tạo đất bằng biện pháp thủy lợi); - Quy hoạch cấp thoát nước cho sinh hoạt, công nghiệp: - Quy hoạch thủy điện; - Quy hoạch giao thông thủy; - Quy hoạch nuôi trồng thủy sản; - Quy hoạch phục vụ an dưỡng – du lịch – giải trí; - Quy hoạch phòng chống lũ; - Quy hoạch bảo vệ phòng chống ô nhiễm nguồn nước; - Quy hoạch bảo vệ phòng chống cạn kiệt nguồn nước. Ngoài những quy định chung, tiêu chuẩn còn quy định về thành phần, nội dung và bước lập quy hoạch thủy lợi; quy định về các tài liệu cơ bản; quy định về quản lý quy hoạch. Tiêu chuẩn ngành 14 TCN 87 – 1995 là một văn bản pháp quy kỹ thuật đã được sử dụng có hiệu quả trong các hoạt động quy hoạch phát triển 9 thủy lợi trong thời gian qua. Tuy nhiên, tiêu chuẩn 14 TCN 87 – 1995 đã bộc lộ một số bất cập: - Tiêu chuẩn được ban hành khi Luật Tài nguyên nước chưa ra đời, hành lang pháp lý cho công tác quản lý tài nguyên nước chưa được hình thành; các hoạt động bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống, giảm thiểu tác tác hại do nước gây ra cũng chưa được xác định rõ. Nhìn chung, phương châm chủ yếu của quy hoạch thủy lợi theo tiêu chuẩn ngành 14 TCN 87 – 1995 là tạo nguồn và phòng chống lũ lụt bằng các biện pháp công trình (cụ thể: quy định tại khoản 1.9 của tiêu chuẩn). Khi tiến hành xây dựng tiêu chuẩn ngành về quy hoạch thủy lợi, quan điểm “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” chưa được xác định một cách rõ nét; - Mối liên hệ giữa các quy hoạch chuyên ngành trong quy hoạch thủy lợi (quy định tại khoản 1.3 của tiêu chuẩn) còn mờ nhạt và dẫn đến việc quy định tiến hành một loạt các quy hoạch chuyên ngành trong quy hoạch thủy lợi ít mang tính khả thi. Thực tế, có thể nói, đến hiện nay quy hoạch thủy điện đã được thực hiện gần xong, quy hoạch phát triển công nghiệp cũng đã đang được thực hiện (cùng với các yêu cầu cấp nước công nghiệp), quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đã được xây dựng và đang chờ phê duyệt, hầu hết các công trình tạo nguồn phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp đã được quy hoạch và đang dần được thực hiện... Việc bảo đảm tính thống nhất trong các quy hoạch chuyên ngành với nhau và với quy hoạch thủy lợi chưa được đề cập và thiếu chế tài để điều chỉnh. Việc coi môi trường cũng là một đối tượng khai thác, sử dụng nước chưa được đề cập trong tiêu chuẩn. Do đó, một số hoạt động rất cần thiết của công tác quản lý tài nguyên nước như điều hòa, phân bổ nguồn nước trên lưu vực sông; cấp phép khai thác sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; các kế hoạch kiểm kê, điều tra cơ bản tài nguyên nước; hoạt động bảo vệ tài nguyên nước... phù hợp với điều kiện hiện tại của lưu vực sông chưa được làm rõ trong các quy định tại tiêu chuẩn 14 TCN 87 – 1995. - Về mặt kỹ thuật, tiêu chuẩn 14 TCN 87 – 1995 áp dụng cho lưu vực sông và vùng kinh tế nhưng những khác biệt khi tiến hành lập quy hoạch thủy lợi cho các đơn vị không gian này chưa được làm rõ. Mặt khác, những thành tựu khoa học, công nghệ nói chung, trong lĩnh vực tài nguyên nước nói riêng trong thời gian qua chưa được cập nhật, bổ sung khi xây dựng những quy định của tiêu chuẩn 14 TCN 87 – 1995. Tóm lại, những quy định của tiêu chuẩn 14 TCN 87 – 1995 cần phải tiếp tục cập nhật, nghiên cứu, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các nguyên tắc và nội dung của quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên các lưu vực sông; bảo đảm định hướng phát triển bển vững của đất nước. Liên quan đến công tác quy hoạch tài nguyên nước có thể kể ra một số quy hoạch chuyên ngành như Quy hoạch trị thủy và khai thác hệ thống sông Hồng (1964); Luận chứng kinh tế kỹ thuật công trình đa mục tiêu Hòa Bình (được nhà nước duyệt năm 1973); Nghiên cứu về phát triển và quản lý tài nguyên nước toàn 10 quốc tại nước CHXHCN Việt Nam (Hoàn thành năm 2003 do Bộ NN và PTNT thực hiện dưới sự giúp đỡ của Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản) Nghiên cứu quy hoạch thủy điện quốc gia (Hoàn thành năm 2007 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tập đoàn Điện lực Việt Nam thực hiện với sự giúp đỡ của Cơ quan hợp tác phát triển của Na Uy, Thụy Điển)... Các nghiên cứu quy hoạch trên đây là những nguồn tư liệu, thông tin tham khảo bổ ích trong việc định hướng các nội dung cần thiết cho những bước đi phù hợp của quá trình quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng các quy hoạch mới tập trung vào giải quyết những khía cạnh cụ thể của tài nguyên nước như phát triển tài nguyên nước hay phòng chống lũ lụt. Cách tiếp cận trong các quy hoạch đó chưa bảo đảm đầy đủ sự đồng bộ và nhất quán từ tổng thể đến chi tiết. Không thể đưa ra các giải pháp hay phương án phát triển tài nguyên nước nếu chưa tập trung làm rõ những vấn đề về chiến lược, về tầm nhìn đối với lưu vực sông; việc phòng, chống, giảm thiểu tác hại gây ra cũng không thể không dựa trên những giải pháp tổng hợp công trình và phi công trình, từng bước hài hòa, thích nghi với tự nhiên... Trong giai đoạn hiện nay, khi các vấn đề môi trường nước, về suy thoái, cạn kiệt nguồn nước đang trở nên ngày càng gay gắt, ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các thực thể xã hội, nhân văn, kinh tế trên lưu vực sông thì việc bảo vệ tài nguyên nước, việc tăng cường bảo vệ để phát triển tài nguyên nước, việc triển khai các giải pháp đồng bộ và tổng hợp trong quản lý nguồn nước các lưu vực sông là một đòi hỏi có tính thời sự. Cùng với sự những thành tựu về khoa học công nghệ, về sự chuyển dịch mạnh mẽ sang nền kinh tế tri thức của Việt Nam, quá trình quy hoạch tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông cần thiết phải có đổi mới cơ bản về chất. III. Tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước, ô nhiễm nguồn nước, các thiên tai liên quan đến nước ở Việt Nam III.1 Tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên nước Tài nguyên nước là tư liệu thiết yếu cho nhiều ngành kinh tế. Phần này trình bày những nét chung nhất về hiện trạng và nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên nước của một số ngành kinh tế - xã hội có liên quan chặt chẽ với tài nguyên nước. III.1.1 Cấp nước sinh hoạt a) Cấp nước đô thị Với hơn 600 đô thị, hiện nay toàn quốc có trên 300 nhà máy nước để phục vụ sinh hoạt và sản xuất của các thành phố, thị xã tỉnh lỵ và thị xã trực thuộc tỉnh với tổng công suất thiết kế đạt khoảng 5,0 triệu m3 nước/ngày đêm. Đối với các đô thị là thị xã nhỏ, thị trấn huyện lỵ mới chỉ có khoảng 25% có hệ thống cấp nước tập trung với tổng công suất cấp nước đạt khoảng 550.000 m3/ ngày. Nguồn nước cấp cho đô thị chủ yếu là nguồn nước mặt (chiếm tỷ lệ khoảng 2/3 tổng số nhà máy), chủ yếu lấy từ hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, sông Thu Bồn, sông Đồng Nai... là nơi tập trung các đô thị lớn. Tuy tất cả các đô thị đều được cấp nước nhưng tỷ lệ dân số được cấp nước còn thấp (khoảng 70%) và lượng nước được cấp cũng thấp hơn tiêu chuẩn định lượng cần thiết, trung bình chỉ đạt 40-50 11 lít/ngày/người, đạt 40-50% tiêu chuẩn cần thiết. Tại các độ đô thị loại đặc biệt như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số đô thị loại I và loại II, tỷ lệ được cấp nước đạt gần 80% với tiêu chuẩn cấp nước từ 100 - 120 lít/người/ngày. Theo định hướng cấp nước đô thị đến năm 2020 được phê duyệt tại Quyết định số 63/1998/QĐ-TTg ngày 18/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ, mục tiêu cấp nước đô thị đến năm 2020 là nâng cao chất lượng phục vụ cấp nước cho sản xuất và dân sinh tại các đô thị, phấn đấu 100% dân số đô thị được cấp nước sạch với tiêu chuẩn 120 - 150 lít/người/ngày; đối với các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, phấn đấu đạt tiêu chuẩn 180 - 200 lít/người/ngày; Chỉ tiêu cấp nước đô thị trong từng giai đoạn như sau: đối với các đô thị loại đặc biệt là 165 lít/người/ngày vào năm 2010, 180 - 200 lít/người/ngày vào năm 2020; đô thị loại I là 150 lít/người/ngày vào năm 2010, 165 lít/người/ngày vào năm 2020; các đô thị còn lại là 120 lít/người/ngày vào năm 2010, 150 lít/người/ngày vào năm 2020; các thị trấn thị tứ là 80 - 100 lít/người/ngày vào năm 2010, 120 lít/người/ngày vào năm 2020. Nhu cầu cấp nước cho các đô thị trên toàn quốc là 8,9 triệu m3/ngày vào năm 2010 và 15,94 triệu m3/ngày vào năm 2020. Trong đó, nhu cầu nước tăng mạnh ở lưu vực sông Hồng - Thái Bình (ước tính là 45 triệu m3/tháng), lưu vực sông Đồng Nai (ước tính là 36,8 triệu m3/tháng) và vùng đồng bằng sông Cửu Long (ước tính là 26,8 triệu m3/tháng) vào năm 2010. Các lưu vực có nhu cầu nước cấp cho đô thị khá lớn là sông Cả, sông Mã, sông Vũ Gia - Thu Bồn, sông Ba và sông Srêpôk. Hiện nay, các vấn đề chính đối với cấp nước đô thị là: - Hầu hết các doanh nghiệp cấp nước đô thị là các doanh nghiệp nhà nước với cơ sở hạ tầng của ngành được nhà nước đầu tư xây dựng. Công tác quản lý vận hành, bảo dưỡng các hệ thống cấp nước được giao cho các xí nghiệp hoặc công ty cấp nước ở các tỉnh, thành phố đảm trách… Các hệ thống cấp nước nhìn chung đã được xây dựng từ lâu, cải tạo, sửa chữa chắp vá xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều hệ thống cấp nước tuy mới được xây dựng nhưng chưa đồng bộ, việc xây dựng nhà máy cấp nước chưa gắn liền với việc xây dựng mạng lưới phân phối nước. Hậu quả là hiện nay, lượng nước thất thoát chiếm tới 30 - 50%. - Chưa có cơ chế định giá nước một cách hợp lý nên doanh thu về nước sạch hiện không đủ bù đắp chi phí sản xuất, chưa kể việc bảo dưỡng, cải tạo, nâng cấp hệ thống cấp nước. Vì vậy hầu hết các doanh nghiệp cấp nước chưa có khả năng tự chủ về tài chính trong sản xuất kinh doanh, nhà nước phải bù lỗ; chưa hình thành được ý thức sử dụng nước tiết kiệm trong cộng đồng dân cư đô thị. b) Cấp nước nông thôn Theo báo cáo của Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn thì tính đến năm cuối 2005 tổng số cư dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt gần 40 triệu người, tăng thêm 23 triệu người so với năm 1998, bình quân tăng 4,3%/năm, nâng tỷ lệ dân số nông thôn được cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến cuối năm 2005 lên 62%. Bốn vùng có tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt cao hơn 60% là: Đồng bằng 12 sông Hồng (66%), Đông Nam Bộ (68%), Đồng bằng sông Cửu Long (66%) và Bắc Trung Bộ (61%). Các cùng còn lại đều đạt tỷ lệ thấp hơn 60% Chiến lược Quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 104/2000/QĐ-TTg ngày 25 tháng 8 năm 2000 với mục tiêu là đến năm 2010, 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh với tiêu chuẩn cấp nước 60 lít/người/ngày và mục tiêu đến năm 2020 thì tất cả dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia với số lượng ít nhất là 60 lít/người/ngày. Ngày 11 tháng 12 năm 2006, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 277/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2006 - 2010. Mục tiêu cấp nước của Chương trình là bảo đảm đến năm 2010, 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 50% sử dụng nước sạch đạt Tiêu chuẩn 09/2005/QĐ-BYT ngày 11 tháng 3 năm 2005 của Bộ Y tế với số lượng 60 lít nước/người/ngày. Theo Chiến lược quốc gia cấp nước sạch - vệ sinh môi trường nông thôn, dân số nông thôn đến năm 2010 là 61,7 triệu người và năm 2020 là 56,0 triệu người. Nhu cầu cấp nước nông thôn tương ứng sẽ là 1,14 tỷ m3/năm vào năm 2010, và 1,23 tỷ m3/năm vào năm 2020. Về nguồn nước cấp cho sinh hoạt nông thôn được lấy từ hai nguồn nước chính là nước mặt và nước ngầm. Nước mặt được lấy chủ yếu từ nước sông, kênh hoặc hồ chứa. Nguồn nước mặt có ưu điểm chính là độ khoáng hoá thấp, thành phần hoá học phần lớn đáp ứng được yêu cầu cấp nước sinh hoạt, có khả năng cấp nước quy mô lớn. Nhưng có nhược điểm lớn là độ đục và thành phần vi sinh lớn, chất lượng nước không ổn định, dễ bị nhiễm bẩn do các hoạt động của con người; ở các vùng ven biển nước mặt còn bị nhiễm mặn; giá thành nước thương phẩm sẽ cao do phải tiến hành xử lý. Ngược lại, nguồn nước ngầm có ưu điểm là chất lượng nước tốt hơn, ổn định theo thời gian, hàm lượng vi sinh thấp, độ đục thấp, khó bị nhiễm bẩn, khai thác thuận tiện, kinh tế. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của nước ngầm ở nước ta là hàm lượng sắt tương đối cao, một số thành phần hoá học khác cũng tương đối cao, như Magan, Clo (ở ven biển), Bicacbonat (vùng núi), pH thấp ở đồng bằng sông Cửu Long; tại nhiều địa phương, nước ngầm đã có dấu hiệu bị ô nhiễm thạch tín; một số vùng nguồn nước ngầm hạn chế khó đáp ứng cho yêu cầu cấp nước lớn. Nhìn chung, cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt ở nông thôn không giống nhau giữa các vùng. Các vùng khó khăn nhất thường là miền núi, các địa phương ven biển và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo tập quán, người dân địa phương thường tận dụng tất cả các nguồn nước từ giếng đào, giếng khoan, sử dụng nước ao hồ không qua xử lý hoặc nước mưa, các hệ thống cấp nước máy chưa được phổ biến. Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư cho hoạt động cấp nước nông thôn được huy động từ nhiều nguồn khác nhau để thực hiện chương trình cấp nước sạch 13 nông thôn, chủ yếu từ các nguồn: ngân sách nhà nước, vốn vay, viện trợ không hoàn lại của quốc tế, vốn huy động trong dân. Nhiều mô hình đầu tư và tổ chức quản lý cấp nước sạch nông thôn đã và đang được triển khai như mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm, mô hình tư nhân bỏ vốn xây dựng quản lý, khai thác kinh doanh, dịch vụ cung cấp nước sạch, mô hình hợp tác xã cổ phần cung cấp nước sạch. Tuy nhiên, cũng giống như cấp nước đô thị, các giải pháp như đẩy mạnh xã hội hóa cấp nước nông thôn, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho cấp nước và hình thành thị trường cấp nước; tăng cường công tác thông tin - giáo dục - truyền thông và huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư; đẩy mạnh xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch; đầu tư đồng bộ về khoa học, công nghệ; tăng cường việc quản lý, xây dựng, khai thác và bảo vệ công trình... cần được tiến hành. III.1.2 Cấp nước cho nông nghiệp Nông nghiệp là ngành sử dụng nước nhiều nhất ở nước ta. Lượng nước sử dụng cho trồng trọt và chăn nuôi năm 2005 chiếm khoảng 82% tổng lượng nước tiêu thụ của các ngành kinh tế - xã hội và đời sống. Dự tính tỷ lệ nước sử dụng cho nông nghiệp sẽ giảm dần trong tương lai nhưng về trị số tổng lượng nước dùng cho nông nghiệp vẫn tăng. Nguồn nước chính sử dụng cho nông nghiệp là nước mặt; tại một số vùng trồng nhiều cây công nghiệp như cà phê, hồ tiêu... sử dụng nước ngầm để tưới vào thời kỳ mùa cạn. Nhìn chung, sử dụng nước ngầm cho sản xuất nông nghiệp hiện nay còn ở quy mô hộ gia đình. Tổng lượng nước tiêu thụ cho sản xuất nông nghiệp trong năm 2005 khoảng trên 66 tỷ m3. Theo tính toán tại dự thảo “Chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2020” của Bộ NN và PTNT, nhu cầu nước cho trồng trọt và chăn nuôi là 75,64 tỷ m3 vào năm 2010 và gần 84 tỷ m3 vào năm 2020. Các vùng có nhu cầu nước cho nông nghiệp lớn vào năm 2010 là đồng bằng sông Cửu Long (1.326 m3/s), lưu vực sông Hồng - Thái Bình (595,5 m3/s), Đồng Nai (137,1 m3/s), Mã (69,0 m3/s), Ba (56,8 m3/s), Cả (55,9 m3/s)... Về cơ sở hạ tầng cấp nước cho nông nghiệp, đến nay cả nước có 75 hệ thống thủy lợi lớn, 800 hồ đập loại lớn và vừa, hơn 3.500 hồ có dung tích trên 1 triệu m3 nước và đập cao trên 10 m, hơn 5.000 cống tưới, tiêu lớn, trên 10.000 trạm bơm lớn và vừa có tổng công suất bơm 24,8 triệu m3/h, hàng vạn công trình thủy lợi vừa và nhỏ. Các hệ thống có tổng năng lực tưới trực tiếp cho 3,45 triệu ha, tạo nguồn cấp nước cho 1,13 triệu ha, tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn 1,6 triệu ha đất canh tác nông nghiệp. Diện tích lúa, rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày được tưới không ngừng tăng lên qua từng thời kỳ. Một số vấn đề đặt ra đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho nông nghiệp là: - Việc cấp nước nhằm bảo đảm mục tiêu an ninh lương thực là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cần phải tăng cường hiệu quả của việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho nông nghiệp và điều chỉnh phù hợp với định hướng chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế của nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Việc đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sử dụng tiết kiệm nước là rất cần thiết. - Hiện nay, nhiều công trình thuỷ lợi đang vận hành dưới công suất thiết kế. 14 Năng lực trữ nước của nhiều hồ chứa nước, nhất là các hồ chứa nhỏ đã bị giảm đáng kể, một phần do tổn thất lớn, một phần do phải trữ nước ở mức thấp dưới mức thiết kế để đảm bảo an toàn cho công trình. Cơ sở hạ tầng phân phối nước sau công trình đầu mối bị xuống cấp khá nhiều. Tổn thất nước trong quá trình trữ và phân phối của nhiều hệ thống công trình thủy lợi còn ở mức cao. Việc thu thủy lợi phí và vấn đề hạch toán đối với các công ty quản lý và khai thác công trình thủy lợi nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ tưới tiêu nông nghiệp, bảo đảm phù hợp với nền kinh tế thị trường còn chậm và thiếu đồng bộ. Do đó hiệu quả sử dụng nước chưa cao. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, với những chính sách mới trong quản lý đất nông nghiệp như “dồn điền, dải thửa”, hiệu quả sử dụng nước và công trình thủy lợi có thể tăng lên đáng kể. - Những bất cập trong việc điều hòa, phân phối nguồn nước, nhất là trong thời kỳ mùa cạn cùng với nhiều nguyên khách quan khác đã gây ra những đợt hạn hán, thiếu nước gay gắt kéo dài tại nhiều vùng trên cả nước, làm cho sản xuất nông nghiệp ngày càng thiếu chủ động. Vấn đề kiểm soát việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật chưa được quan tâm đúng mức. III.1.3 Sử dụng nước cho phát điện Với một mạng lưới sông suối khá dày đặc và lượng mưa hàng năm khoảng 2000 mm, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để phát triển thủy điện. Tiềm năng lý thuyết thuỷ điện Việt Nam xác định khoảng 300 tỷ KWh, tiềm năng kỹ thuật xác định khoảng 123 tỷ KWh tương đương với tổng công suất lắp máy khoảng 31.000 MW. Tiềm năng kinh tế - kỹ thuật xác định khoảng 75 - 80 tỷ KWh, tương đương với tổng công suất lắp máy khoảng 18.000 – 20.000 MW. Một phần không nhỏ trong trữ năng kinh tế - kỹ thuật nêu trên là các thuỷ điện vừa và nhỏ trên các sông nhánh. Đối với các nhà máy thủy điện lớn và vừa: Hiện nay, tổng công suất lắp máy các nhà máy đang vận hành là 4.198 MW, gồm 11 nhà máy thuỷ điện lớn là Hoà Bình (1.920 MW), Yaly (720 MW), Trị An (400 MW), Hàm Thuận (300 MW), Đa Mi (175 MW), Đa Nhim (160 MW), Thác Mơ (150 MW), Thác Bà (120 MW), Cần Đơn (78 MW), Sông Hinh (70 MW), Vĩnh Sơn (66 MW), Tuyên Quang (342 MW) trên sông Gâm, Đại Ninh (300 MW) trên sông Đồng Nai và các nhà máy thuỷ điện nhỏ hơn với tổng công suất lắp máy là 51 MW. Hiện tại, các hồ chứa thủy điện lớn và vừa có tổng dung tích chứa khoảng trên 19 tỷ m3. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã khởi công xây dựng 20 nhà máy thuỷ điện để đưa vào vận hành những năm 2010 - 2012 với tổng công suất lắp máy 6.768 MW, trong đó có những công trình lớn như Sơn La (2.400 MW), Huội Quảng (520 MW) trên sông Đà, Sê San 4 (360 MW) trên sông Sê San, Bản Vẽ (320 MW) trên sông Cả,... Tổng dung tích nước của các hồ này khoảng 23 tỷ m3. Đối với thủy điện nhỏ: Theo quy hoạch thuỷ điện nhỏ toàn quốc được Bộ Công nghiệp phê duyệt năm 2005 thì số dự án thuỷ điện nhỏ có công suất từ khoảng 1 MW đến 30 MW ở 31 tỉnh có trên 300 nhà máy với tổng công suất lắp máy khoảng 2.000 - 2.500 MW, tương ứng với điện lượng trung bình hàng năm khoảng 8 - 10 tỷ KWh. Các địa phương có nhiều thủy điện nhỏ bao gồm Lào Cai, 15 Lâm Đồng, Yên Bái, Nghệ An, Sơn La, Gia Lai, Quảng Nam. Ngoài ra, về thuỷ điện tích năng, các kết quả nghiên cứu bước đầu đã kiến nghị 10 công trình có tính khả thi ở thời điểm hiện tại, với tổng công suất khoảng 10.000 MW. Như vậy, nếu các nhà máy thủy điện đi vào vận hành đúng tiến độ thì cho đến năm 2020, khoảng 87% tiềm năng kinh tế - kỹ thuật của thủy điện Việt Nam đã được khai thác. Đối với các nhà máy nhiệt điện, ước tính lượng nước sử dụng khoảng 2,7 tỷ m tại thời điểm năm 2005 với tổng công suất lắp máy của các nhà máy nhiệt điện là 6.593 MW. Theo kế hoạch phát triển điện lực Việt Nam, vào năm 2010 tổng công suất của các nhà máy nhiệt điện là 16.000 MW, chiếm 62% tổng công suất lắp máy của các nhà máy điện. Nhiều nhà máy nhiệt điện sẽ được xây dựng mới hoặc nâng cấp như nhiệt điện Quảng Ninh, Mông Dương, Cà Mau, Uông Bí, Ô Môn, Bà Rịa - Vũng Tàu... Như vậy, ước tính sơ bộ lượng nước sử dụng cho các nhà máy nhiệt điện sẽ là 6,6 tỷ m3 vào năm 2010. 3 Với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu về điện tăng khá mạnh, vào khoảng 16% năm từ nay đến 2010. Việc xây dựng thêm các nhà máy điện, cải tạo, nâng cấp các nhà máy điện đã có là tất yếu. Các nhà máy thủy điện nói chung đều có ảnh hưởng lớn đến chế độ nguồn nước sông ngòi. Một mặt, phát triển thủy điện tạo ra các điều kiện thuận lợi để điều hòa dòng chảy, trữ nước trong mùa lũ và cung cấp bổ sung cho các mục đích sử dụng trong mùa cạn. Mặt khác, các hồ chứa thủy điện cũng gây những tác động không nhỏ đến chế độ dòng chảy, chất lượng nước và các hệ thủy sinh ở cả thượng lưu và hạ lưu. Nhằm bảo đảm công suất phát điện, hiện nay việc vận hành nhiều hồ chứa thủy điện chưa đáp ứng được mục tiêu hài hòa giữa các lợi ích như chống lũ, cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu nông nghiệp, cải thiện điều kiện môi trường, đẩy mặn... ở vùng hạ lưu. Đối với các nhà máy nhiệt điện cũng cần một lượng nước khá lớn để làm mát trong quá trình sản xuất. Lượng nước làm mát này nếu không được quản lý, kiểm soát chặt chẽ sẽ gây nhiều tác động bất lợi đến tài nguyên, môi trường nước khi được trả về nguồn. III.I.4 Cấp nước cho công nghiệp Căn cứ giá trị sản lượng các sản phẩm công nghiệp năm 2005, có thể ước tính lượng nước tiêu thụ của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều nước như nhiệt điện, sản xuất thép (không tính sản phẩm cán, đúc), sản xuất phân đạm, sản xuất xút clo, bia, chế biến thủy sản, dệt nhuộm, khai thác (than và apatit) của nước ta là 3,54 triệu m3 nước. Trong đó, trên 86% lượng nước sử dụng cho công nghiệp lấy từ nguồn nước mặt, khoảng 11% từ nước ngầm và chưa đầy 1,2% là nước biển (sản xuất muối). Sử dụng nước trong công nghiệp hiện đang chiếm khoảng 6,5% tổng lượng nước khai thác, sử dụng. Tại các khu công nghiệp tập trung, dựa trên tiêu chuẩn sử dụng nước 60 m3/ha và mức lấp đầy các khu công nghiệp ở từng vùng, lượng nước sử dụng cho các khu công nghiệp tập trung trên toàn quốc năm 2005 là 507 triệu m3. Số lượng các khu 16 công nghiệp, cụm công nghiệp địa phương đang hoạt động trong cả nước (chưa kể vùng Đông Bắc) hiện nay là 204 với tổng diện tích là 6.050 ha và mức lấp đầy trung bình là 44%. Như vậy, lượng nước tiêu thụ năm 2005 của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp địa phương khoảng 164 triệu m3. Tại các làng nghề tiểu thủ công nghiệp, ước tính mức tiêu thụ nước năm 2005 cho các hoạt động tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề của cả nước đạt khoảng 215 triệu m3/năm, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng có lượng nước sử dụng lớn nhất trong cả nước, khoảng 132 triệu m3. Về nhu cầu nước cho công nghiệp: Theo Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp đạt mức tăng trưởng bình quân 15 - 16%/năm giai đoạn 2006 – 2010, tỷ trọng của công nghiệp và xây dựng trong GDP đạt 43 - 44% (riêng công nghiệp 37 - 38%) năm 2010. Duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp ở mức trên 10,2%/năm giai đoạn 2006 - 2010 và trên 10,3%/năm giai đoạn sau 2010. Với chỉ tiêu tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp khoảng 15,5 %, có thể ước tính được mức tiêu thụ nước cho công nghiệp đến năm 2010 là 7,28 tỷ m3 và đến năm 2020 là 30,75 tỷ m3. Yêu cầu về chất lượng nước của các ngành công nghiệp khác nhau cũng rất khác nhau. Một số ngành công nghiệp, nước phải được xử lý bảo đảm các yêu cầu, tiêu chuẩn về mặt vật lý và hóa học trước khi đưa vào sử dụng, đặc biệt là đối với công nghiệp thực phẩm, sản xuất giấy và dệt nhuộm. III.1.5 Nước cho giao thông thủy nội địa Giao thông thuỷ nội địa đóng vai trò quan trọng trong phát triển ngành giao thông vận tải ở Việt Nam nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước. Theo tiêu chuẩn phân cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải năm 2005 thì kích thước đường thủy loại 1 đối với sông là: độ sâu từ 3.3 đến 3.7 m, độ rộng từ 60 - 125 m; loại 2 là: độ sâu từ 2.5 đến 3.3 m, độ rộng 55 đến 115 m. Hiện nay, tại khu vực miền Bắc đã đưa vào quản lý, đầu tư khai thác 2.676 km trên tổng số 4.500 km sông kênh có khả năng khai thác vận tải, đạt tỷ lệ hơn 65 %. Ở vùng đồng bằng Nam Bộ, hệ thống kênh sông có khả năng vận tải cũng khá lớn với tổng chiều dài các tuyến là 3.083 km. Hiện tại, khối lượng vận tải đường sông của khu vực miền Bắc khoảng 24,4 triệu tấn, miền Trung khoảng 4,3 triệu tấn và miền Nam khoảng 30,4 triệu tấn. Theo dự báo đến năm 2010, nhu cầu vận tải đường sông của khu vực miền Bắc là 35 triệu tấn, miền Trung là 6 triệu tấn và miền Nam là 42 triệu tấn. Hiện trạng các tuyến chính tại khu vực miền Bắc và miền Nam đang là cấp 3 (tuy nhiên có nhiều phân đoạn đạt cấp 2 hoặc cấp 1). Ngày 3 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 166/2000/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải đường sông Việt Nam đến năm 2020, trong đó nêu rõ việc tập trung nâng cấp, cải tạo các luồng tuyến chính, trọng tâm là đưa vào cấp các tuyến sau: 17 - Các tuyến đạt tiêu chuẩn cấp 1: Cửa Đáy - Ninh Bình, Lạch Giang - Hà Nội, sông Tiền, sông Hậu; - Các tuyến đạt tiêu chuẩn cấp 2: từ Việt Trì, Hà Nội, Ninh Bình đi Hải Phòng, Quảng Ninh qua sông Đuống và sông Luộc; - Các tuyến đạt tiêu chuẩn cấp 3: từ thành phố Hồ Chí Minh đi Cà Mau (qua kênh Xà No), đi Kiên Lương (qua kênh Rạch Giá và qua kênh Tháp Mười Tứ giác Long Xuyên); - Các tuyến khác tận dụng điều kiện thiên nhiên kết hợp với cải tạo luồng để đạt tiêu chuẩn tuyến sông cấp 3 hoặc cấp 4. Các vấn đề về tài nguyên nước liên quan trực tiếp đến giao thông vận tải đường thủy nội địa là: - Hiện nay số liệu về nhu cầu sử dụng nước của ngành vận tải đường sông chưa được tính toán cụ thể nhưng trong tương lai nhu cầu này sẽ tăng mạnh, thể hiện ở hai khía cạnh: tăng lưu lượng trong mùa khô để tăng độ sâu vận tải đồng thời giảm nhỏ lưu lượng trong mùa lũ để hạn chế tác hại tới vận tải thuỷ. Trong mùa khô, độ sâu dòng chảy cần tăng từ 0.5 tới 0.8 m ở miền Bắc và từ 0.4 tới 0.6 m ở miền Nam để bảo đảm hiệu quả trong vận tải thuỷ. Tại một số thời điểm thiếu nước trong mùa cạn thời gian vừa qua, các phương tiện tàu thuyền vận tải đường thủy nội địa trên sông Hồng chỉ hoạt động ở mức 50% tới 60% tải trọng tối đa do hệ thống kênh sông không đảm bảo độ sâu vận tải. Ngoài ra, còn rất nhiều loại xà lan và tàu không thể hoạt động được. - Do đặc điểm hàm lượng bùn cát trong nước sông ngòi Việt Nam khá cao, các tuyến đường thủy chính luôn phải đầu tư nạo vét, cải tạo, chỉnh trị luồng lạch, xử lý bãi cạn... Việc chỉnh trị này lại liên quan đến nhiều ngành như thủy lợi, đê điều cũng bị hạn chế nhiều trong triển khai thực hiện. Các khu vực vận tải thủy chủ yếu là miền Bắc và miền Nam còn nhiều vị trí có tĩnh không cầu thấp. Hướng vận tải thường ngược hướng dòng chảy thường xuyên, nhất là ở miền Bắc, lại chưa tạo được nguồn hàng hai chiều thích hợp nên hiệu suất vận tải chưa cao. - Việc khai thác quá mức các vùng thượng lưu và vận hành các hồ chứa nước thủy lợi, thủy điện làm ảnh hưởng trực tiếp tới mực nước cũng như biến đổi luồng vận tải là các vấn đề chính để duy trì giao thông thuỷ trên các dòng sông. Công tác cập nhật thủy đạc trên các tuyến vận tải chính hiện nay còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng các yêu cầu quản lý và điều hành vận tải đường thủy nội địa. An toàn giao thông đường thủy chưa được quan tâm đầu tư và kiểm soát chặt chẽ. Giao thông vận tải đường thủy nội địa được coi là loại hình ít gây ô nhiễm môi trường nhưng thực tế hiện nay cho thấy cần tăng cường giám sát, kiểm tra việc xả nước thải, chất thải vào nguồn nước trong hoạt động này. III.1.6 Cấp nước cho thủy sản Thủy sản là một trong những ngành sản xuất được ưu tiên phát triển nhằm mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Nuôi trồng thuỷ sản trong thời gian qua có tốc độ phát triển nhanh (tăng 4 - 5%/ năm), góp phần thay đổi cơ cấu kinh 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan