Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu các giá trị văn hóa tín ngưỡng ở phía tây hà nội ( hà tây cũ) nhằm ph...

Tài liệu Nghiên cứu các giá trị văn hóa tín ngưỡng ở phía tây hà nội ( hà tây cũ) nhằm phát triển du lịch

.PDF
131
273
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƢƠNG SỸ TÂM NGHIÊN CỨU CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TÍN NGƢỠNG Ở PHÍA TÂY HÀ NỘI (HÀ TÂY CŨ) NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH Hà Nội, 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƢƠNG SỸ TÂM NGHIÊN CỨU CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TÍN NGƢỠNG Ở PHÍA TÂY HÀ NỘI (HÀ TÂY CŨ) NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH Chuyên ngành: Du lịch (Chương trình đào tạo thí điểm) LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRÙNG KHÁNH Hà Nội, 2014 MỤC LỤC Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG VÀ DU LỊCH VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG 1.1 Khái quát về tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng 1.1.1 Khái niệm tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng 1.1.2 Cơ sở hình thành tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng 1.1.3 Các hình thức biểu hiện của tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng 1.1.4 Điều kiện hình thành, tồn tại và phát triển của Văn hóa tín ngưỡng. 1.2 Khái quát về du lịch văn hóa tín ngưỡng. 1.2.1 Khái niệm về loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng. 1.2.2 Vai trò, đặc điểm của Du lịch văn hóa tín ngưỡng. 1.2.3 Điều kiện phát triển loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng. 1.2.4 Các hình thức Du lịch văn hóa tín ngưỡng. 1.3 Kinh nghiệm phát triển Du lịch văn hóa tín ngưỡng của một số địa phương tại Việt Nam. 1.3.1 Kinh nghiệm phát triển Du lịch văn hóa tín ngưỡng tại Phú Thọ 1.3.2 Kinh nghiệm phát triển Du lịch văn hóa tín ngưỡng tại Nam Định Chương II: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG TẠI CÁC HUYỆN PHÍA TÂY HÀ NỘI (TỈNH HÀ TÂY CŨ) 2.1 Tiềm năng và điều kiện phát triển Du lịch Văn hóa tín ngưỡng tại khu vực phía Tây Hà Nội (Hà Tây cũ). 2.1.1 Tài nguyên, nguồn lực Du lịch văn hóa tín ngưỡng 2.1.2 Nhu cầu khách du lịch. 2.1.3 Đường lối, chủ trương. Chính sách của Đảng và Nhà Nước về tôn giáo, tín ngưỡng. 2.2 Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía Tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ). 2.2.1 Các sản phẩm du lịch văn hóa tín ngưỡng đặc trưng. 2.2.2 Đặc điểm thị trường khách du lịch văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ). 2.2.3 Các hoạt động chính của khách du lịch văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ). 2.3 Đánh giá chung về thực trạng quản lý và khai thác Du lịch Văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía Tây Hà Nội. 2.3.1 Kết quả tích cực – ưu điểm 1 11 11 11 15 17 23 27 27 30 33 37 41 51 53 45 45 45 56 57 58 59 71 74 75 75 2.3.2 Tồn tại, hạn chế. 2.3.3 Nguyên nhân tồn tại, hạn chế. Chương 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ VÀ KHAI THÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG TẠI CÁC HUYỆN PHÍA TÂY HÀ NỘI (TỈNH HÀ TÂY CŨ) 3.1 Đặc điểm, xu hướng phát triển loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng tại Việt Nam. 3.1.1 Đặc điểm 3.1.2 Xu hướng 3.2 Định hướng phát triển các loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng của Hà Nội đến năm 2020. 3.3 Giải pháp tăng cường quản lý và khai thác loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng tại khu vực phía Tây Hà Nội (Hà Tây cũ) đến năm 2020. 3.3.1 Áp dụng linh hoạt các bài học kinh nghiệm của các địa phương vào thực tiễn khu vực phía Tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ). 3.3.2 Các giải pháp cụ thể 3.3.2.1 Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với khách du lịch Văn hóa tín ngưỡng. 3.3.2.2 Xây dựng và tạo hành làng pháp lý cho phát triển loại hình Du lịch văn hóa tín ngưỡng. 3.3.2.3 Phát triển du lịch văn hóa tín ngưỡng một cách bền vững nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. 3.3.2.5 Phát triển bộ máy, đội ngũ quản lý văn hóa, lễ hội, tài nguyên. 3.3.2.6 nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 3.3.2.7 Quy hoạch hạ tầng, quản lý hoạt động dịch vụ và cơ sở vật chất kỹ thuật tại các điểm đến Du lịch văn hóa tín ngưỡng. 3.3.2.8 Xây dựng cơ chế phối hợp các chủ thể để xây dựng sản phẩm Du lịch văn hóa phù hợp Kết luận 2 79 82 86 86 86 87 88 92 92 94 94 95 97 101 102 104 106 109 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT  GS: Giáo sư  GS.TS: Giáo sư – Tiến sỹ.  CLB: Câu lạc bộ  TCDL: Tổng cục Du lịch.  T.P HCM: thành phố Hồ Chí Minh  UNWTO: United Nations of World Travel Organization Tổ chức du lịch thế giới  VH-TT&DL: Văn hóa – Thể thao và Du lịch.  WLO: World Labor Organization Tổ chức lao động thế giới. Danh mục từ tiếng Anh:  Accessible, approach: khả năng tiếp cận  Intangible: phi vật thể.  Site: điểm tham quan, điểm đến trong chuyến du lịch.  Tangible: vật thể  Tourguide: hướng dẫn viên  Tour: chuyến du lịch. 3 DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH STT BẢNG HÌNH TÊN BẢNG HÌNH 1 35 Bảng 1.1 2 Biểu 2.1 3 TRANG Bảng 2.1 Tỷ lệ tôn giáo – tín ngưỡng theo dân số Động cơ khách du lịch đến điểm tín 60 ngưỡng Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch ở tỉnh Hà Tây (cũ) 4 76 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Ngày này, du lịch đã và đang trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến trên các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn mang lại nhiều lợi ích không chỉ về mặt kinh tế mà còn những lợi ích về mặt xã hội như tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phân phối lại thu nhập và khai thác tốt các nguồn tài nguyên còn ở dạng tiềm năng. Xu thế phát triển du lịch ngày nay là phát triển du lịch văn hóa, khi mà các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên ngày càng cạn kiệt và bị khai thác quá tải. Nguồn tài nguyên du lịch văn hóa được chú trọng khai thác bởi ngoài việc thỏa mãn tốt nhu cầu của khách du lịch, chúng còn là nguồn tài nguyên du lịch luôn được bổ sung, tái tạo do sự sáng tạo vô tận của xã hội loài người. Tinh Hà Tây cũ là một khu vực địa lý rộng lớn và giầu tiềm năng du lịch, đặc biệt phong phú là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn. Sau khi sáp nhập vào Hà Nội (cũ) đã có những bước chuyển biến và hội nhập trong tình hình mới. Tuy nhiên, một số nguồn tài nguyên du lịch là thế mạnh của Hà Tây cũ đã không còn được duy trì vị thế vốn có trong định hướng, quy hoạch phát triển du lịch của Thủ đô, từ đó dẫn đến sự lãng phí tài nguyên. Mặt khác có sự ngắt quãng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù mang định hướng tài nguyên trong chiến lược phát triển ngành của địa phương. Đây là lý do chính tác giả lựa chọn nghiên cứu tiềm năng khai thác những giá trị văn hóa tín ngưỡng nhằm phát triển du lịch, một nguồn tài nguyên chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong hệ thống tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh Hà Tây (cũ) để làm đối tượng nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình với hy vọng phần nào làm cho 5 nguồn tài nguyên đó được khai thác một cách có hiệu quả và đúng vị thế vốn có của nó trong sự phát triển du lịch trong thực tiễn. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: Trong thời gian gần đây, du lịch văn hóa nói chung, du lịch tín ngưỡng nói riêng nhận được rất nhiều sự quan tâm của Nhà Nước, ngành Văn hóa – Thể thao – Du lịch và các công ty lữ hành. Loại hình du lịch này không những đáp ứng xu thế phát triển du lịch hiện đại mà còn khai thác được tối đa tiềm năng phát triển của nguồn tài nguyên du lịch, phù hợp với đặc điểm tự nhiên văn hóa của đất nước. Chính vì lý do đó, việc xây dựng khung lý thuyết và nghiên cứu thực địa về du lịch văn hóa tín ngưỡng đang đặt ra một yêu cầu bức thiết đối với các tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, đối tượng du lịch khai thác văn hóa tín ngưỡng thường chỉ được quan tâm dưới góc độ rộng; các đề tài nghiên cứu cụ thể về du lịch văn hóa tín ngưỡng xuất hiện với tần xuất thấp, chủ yếu được đưa vào các đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng hơn là du lịch văn hóa và du lịch tâm linh (khai thác văn hóa tín ngưỡng và các tôn giáo lớn) Hiện nay có nhiều đề tài nghiên cứu về du lịch tâm linh, trong đó đáng chú ý là một số đề tài như Nghiên cứu loại hình du lịch tâm linh ở Việt Nam do T.S Nguyễn Trùng Khánh thực hiện. Đề tài này có nhiều đóng góp trong việc phân loại du lịch tâm linh trên cơ sở nguồn tài nguyên và động cơ du lịch, đồng thời xây dựng được cơ sở lý thuyết trên phương diện du lịch cho những nghiên cứu chi tiết hơn như nghiên cứu phát triển du lịch gắn với Phật giáo, tín ngưỡng dân gian… . Đề tài Nghiên cứu phát triển du lịch tâm linh tỉnh Nam Định do TH.S Nguyễn Thị Thu Duyên thực hiện đi sâu vào phân tích tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch tâm linh gắn với nguồn tài nguyên du lịch văn hóa của tỉnh Nam Định và đưa ra các nhóm giải pháp về mặt quản 6 lý Nhà Nước, quy hoạch không gian du lịch. Đề tài Nghiên cứu các điều kiện phát triển du lịch Thiền (Zen tour) ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Thùy Lan nghiên cứu nhánh du lịch tâm linh khai thác Phật giáo, phân tích chi tiết môi trường vĩ mô và vi mô của du lịch Thiền. Đây là luận văn nghiên cứu vấn đề tương đối hẹp, tuy nhiên những cơ sở lý luận tác giả đưa ra gợi mở khá nhiều hướng nghiên cứu cho các sản phẩm du lịch văn hóa gắn với tín ngưỡng và tôn giáo khác vốn rất đa dạng ở Việt Nam. Luận văn Khai thác văn hóa Phật giáo Khmer phục vụ phát triển du lịch tỉnh Trà Vinh của tác giả Hà Thế Linh lấy đối tượng nghiên cứu tương đối khác biệt là Phật giáo của nhóm dân tộc thiểu số Khmer. Luận văn phân tích được những tồn tại và triển vọng phát triển du lịch tâm linh ở Trà Vinh và đưa ra những giải pháp nhằm khai thác loại hình du lịch này phát triển một cách bền vững trong tương lai. Ngoài những luận văn trên còn một số luận văn tốt nghiệp lấy đối tượng nghiên cứu là nhóm du lịch văn hóa tâm linh – tín ngưỡng như Du lịch tâm linh Phật giáo ba tỉnh Nam Định – Thái Bình – Ninh Bình, đề tài Giải pháp phát triển du lịch Phật giáo khu vực Hà Nội mở rộng… Các đề tài nghiên cứu này thường đánh giá khái quát du lịch tâm linh trên một địa bàn nhất định; đánh giá thực trạng trên cơ sở khảo sát, kế thừa tài liệu và đưa ra những giải pháp ngắn hạn, dài hạn nhằm phát triển du lịch gắn với tôn giáo và tín ngưỡng. Tuy nhiên, do có sự chưa thống nhất cụ thể về khái niệm du lịch tâm linh, các luận văn này thường ít chú ý đến văn hóa tín ngưỡng, một trong hai đối tượng chính trong hoạt động khai thác loại hình du lịch tâm linh đầy triển vọng ở Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu thường là đạo Phật, một loại hình tôn giáo - văn hóa tâm linh phổ biến và thâm nhập sâu rộng vào đời sống văn hóa – xã hội ở nước ta. Trong khi đó, đứng trên phương diện quan điểm của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, du lịch tâm linh bao gồm cả tôn giáo – tín ngưỡng dân gian và những biểu hiện vật thể, phi vật thể gắn liền với chúng. 7 Về du lịch tâm linh ở Hà Nội, một số đề tài nghiên cứu về du lịch tôn giáo – tín ngưỡng đã được tiến hành trên địa bàn Hà Nội, điển hình là luận văn Tìm hiểu hoạt động du lịch văn hoá tâm linh của người Hà Nội (khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa của tác giả Đoàn Thị Thùy Trang. Đây là luận văn được thực hiện tương đối công phu, có khảo sát xã hội học trên thực địa và có số liệu tương đối chính xác về nhân khẩu học, đối tượng tiến hành du lịch, động cơ và doanh thu du lịch. Một số luận văn, tiểu luận, bài báo khác lấy đối tượng là các hình thức tôn giáo – tín ngưỡng điển hình và các điểm di tích văn hóa cụ thể ví du lịch như đình làng, tục thờ mẫu,đền thờ (đền Và, Đình Tường Phiêu)… làm trọng tâm nghiên cứu. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về du lịch tâm linh chưa nhiều và chưa đề cập đầy đủ các khía cạnh của du lịch tâm linh. Qua đánh giá tài liệu, những chuyên đề, đề tài nghiên cứu chuyên sâu về tín ngưỡng trong mối quan hệ với hoạt động du lịch ở Hà Tây (cũ), một tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch văn hóa phong phú có thể phát triển du lịch tâm linh gắn với tín ngưỡng ở đồng bằng sông Hồng lại hầu như chưa có. Đây là một trong những khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa phát triển du lịch tâm linh bởi Hà Tây cũ là một trong những khu vực địa lý có bề dầy văn hóa – lịch sử và số lượng di tích gắn với tôn giáo – tín ngưỡng rất lớn trên phạm vi cả nước trước khi được sáp nhập cùng với Hà Nội. Tình trạng sáp nhập tạo ra cơ hội mới cho thành phố Hà Nội trong phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa. Tuy nhiên cũng có nhiều thách thức trong ưu tiên đầu tư trọng điểm vào sản phẩm du lịch, tận dụng những thành tựu đã đạt được và khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực du lịch của cả Hà Nội (cũ) và Hà Tây (cũ). Đây chính là lý do tác giả chọn đề tài làm luận văn tốt nghiệp của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8 3.1. Mục đích Luận văn được thực hiện với mục đích nghiên cứu, đánh giá, nguồn tài nguyên du lịch là tín ngưỡng cả trên phương diện vật thể và phi vật thể, thực hiện phân tích thực trạng khai thác các nguồn tài nguyên đó trong phạm vi hoạt động du lịch từ đó đưa ra những giải phát nhằm góp phần thúc đẩy loại hình du lịch này phát triển. 3.2 Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu. luận văn phải đảm bảo các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu hệ thống nguồn tài nguyên dựa trên các giá trị tín ngưỡng ở địa bàn Hà Tây (cũ) và những tiềm năng khai thác phát triển du lịch của nguồn tài nguyên này. - Phân tích thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch trong phạm vi du lịch khai thác các giá trị tín ngưỡng. - Đánh giá môi trường vĩ mô, môi trường vi mô của đối tượng nghiên cứu từ đó rút ra những giải pháp để làm cho hoạt động du lịch phát triển có hiệu quả hơn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn hóa gắn với tín ngưỡng cả trên phương diện phi vật thể và hữu thể trên địa bàn Hà Tây cũ trong mối quan hệ với phát triển hoạt động du lịch. 4.2 Phạm vi nghiên cứu 9 - Phạm vi không gian: toàn bộ địa phận tỉnh Hà Tây cũ, nhấn mạnh đến phân chia khu vực phát triển du lịch trong quy hoạch phát triển du lịch của tỉnh Hà Tây cũ và Hà Nội mới hiện nay. - Phạm vi thời gian: sử dụng các liệu thống kê trong ngành du lịch, văn hóa từ năm 1998 đến năm 2012 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: 5.1 Phương pháp phân tích tổng hợp: Nghiên cứu thu thập tài liệu từ các công trình nghiên cứu trước để tổng hợp, phân tích và đưa ra những đánh giá phù hợp với đối tượng nghiên cứu. 5.2 Phương pháp quan sát: Quan sát các cơ sở tín ngưỡng nhằm khái quát và cụ thể hóa thực trạng tại các điểm tín ngưỡng, thu thập thong tin từ người dân địa phương. 6. Bố cục của đề tài: Ngoài phần mở đầu, mục lục, luận văn bao gồm ba chương: Chương I: Những vấn đề chung về văn hóa tín ngưỡng và du lịch văn hóa tín ngưỡng. Chương II: Tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía Tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ) trong quá trình phát triển du lịch Chương III: Giải pháp tăng cường quản lý và khai thác loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ) 10 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA TÍN NGƢỠNG VÀ DU LỊCH VĂN HÓA TÍN NGƢỠNG 1.1 Khái quát về tín ngƣỡng và văn hóa tín ngƣỡng 1.1.1 Khái niệm tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng 1.1.1.1 Khái niệm tín ngưỡng Tín ngưỡng thường được đặt trong mối quan hệ với tôn giáo hoặc được nhìn nhận dưới góc độ hệ tư tưởng, triết học, khoa học hiện đại. Trong công trình Văn hóa nguyên thủy, Tylor E. B cho rằng: “Cần đặc biệt chú ý là những tín ngưỡng và tập quán khác nhau đều có những nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh nguyên thủy, như thể chúng đã thực sự mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh phức tạp, chúng trở thành sản phẩm của sự ngu dốt hơn là của nhà triết học và tồn tại như những tàn tích của cái cũ hơn là những sản phẩm của đời sau, khi chuyển từ sức sống đầy đủ sang trạng thái tàn tích.” [2, tr.939]. Định nghĩa này cho rằng tín ngưỡng có nguồn gốc từ thuyết vật linh nguyên thủy, (ví dụ như Shaman giáo hoặc thuyết vạn vật hữu linh). Theo quan điểm chủ quan của tác giả Tylor, tín ngưỡng là sản phẩm có từ thời kỳ nhận thức của con người còn tăm tối, chưa đạt được đến trình độ nhận thức triết học, khoa học như thời hiện đại và trong thời kỳ hiện đại chúng chỉ tồn tại dưới dạng tàn tích của ý thức sơ khai. Trang bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia tiếng Anh định nghĩa từ “popular belief” (thường được các dịch giả Việt Nam coi là khái niệm tín ngưỡng) được diễn giải: “ là một lĩnh vực nhánh của các ngành khoa học xã hội, như lịch sử và nhân chủng học, thứ (nhánh này) kiểm chứng, xem xét những niềm tin tâm linh mà chúng phát triển không độc lập khỏi tôn giáo (tương tự tôn giáo), nhưng vẫn nằm ngoài các tổ chức tôn giáo đã được hình thành. Những khía cạnh sùng bái thường thấy, văn hóa dân gian có tính lịch sử và những hình thức mê tín dị đoan có tính chất lịch sử (để lại) là một bộ phận của những chủ đề được tìm hiểu” [30,]. Định nghĩa này xem xét tín ngưỡng như là một đối tượng 11 nghiên cứu của ngành khoa học xã hội. Nhìn chung đề cập đến văn hóa dân gian, mê tín dị đoan, sự sùng bái tự nhiên và coi chúng là một bộ phận không tách rời với tôn giáo. Ở Việt Nam tín ngưỡng cũng có nhiều định nghĩa khác nhau. Định nghĩa đến từ các tác giả trong nước thường đứng trên phương diện văn hóa. Tín ngưỡng được xem là một di sản của văn hóa dân tộc, là một hiện tượng xã hội có tính chất lịch sử theo lát cắt đồng đại. Hệ thống định nghĩa của các tác giả trong nước xác định tín ngưỡng trong mối quan hệ với tôn giáo và định vị những giá trị truyền thống tồn tại trong đó. Từ điển Hán Việt do tác giả Thiều Chửu biên soạn định nghĩa: “tín” là niềm tin vào một cái gì đó, “ngưỡng” hàm nghĩa là kính mến, kính trọng bậc bề trên. Theo cách lý giải về mặt ngôn từ, “tín ngưỡng” có thể hiểu là một niềm tin, sự tôn sùng hướng thượng đối với các lực lượng siêu nhiên đứng trên quyền năng của con người. Giáo sư Ngô Đức Thịnh định nghĩa: “Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng.” [16, tr.16]. Như vậy, tín ngưỡng theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu văn hóa có đặc điểm chung là xem xét tín ngưỡng trong mối quan hệ với tôn giáo trong đó hai khái niệm này có sự tương đồng là hệ thống các niềm tin của con người vào lực lượng siêu nhiên để giải thích thế giới và mang lại sự bình an cho cá nhân, cộng đồng. Khác biệt giữa chúng là khá rõ: - Tôn giáo là một hình thái ý thức có tổ chức tương đối chặt chẽ, có hệ thống giáo lý được quy chuẩn thành văn bản, có một cộng đồng cùng tuân thủ các nguyên tắc thực hành nghi lễ xoay quanh trung tâm của nó là giáo đường, có một hệ thống văn bản kinh sách và giáo luật. Mỗi loại hình tôn giáo thường có một giáo chủ cụ thể. 12 - Tín ngưỡng không có những hình thức đó, nếu có thì rất mờ nhạt, mang tính địa phương, tùy thuộc vào mỗi vị thần được tôn vinh ở mỗi cộng đồng.Vì vậy quá trình thực hành nghi lễ tín ngưỡng không ổn định. Về mặt pháp quy, Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo năm 2004 định nghĩa, hoạt động tín ngưỡng “… là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức, xã hội”. Từ những định nghĩa và khái niệm trên, trong luận văn này, tín ngưỡng được hiểu là một sản phẩm văn hóa được hình thành trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với xã hội, mối quan hệ giữa con người với chính bản thân mình. Tín ngưỡng bao gồm hệ thống niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên hoặc các vị nhân thần và cho rằng những đối tượng đó có ảnh hưởng lớn hoặc chi phối đến cuộc sống con người. Tín ngưỡng mang nhiều yếu tố tâm lý thuộc phạm vi tinh thần (tính thiêng). Tín ngưỡng được hình thành từ lâu đời và lưu truyền qua nhiều thế hệ và đã trở thành truyền thống. 1.1.1.2 Văn hóa tín ngưỡng Giáo sư Ngô Đức Thịnh đã lập luận trong cuốn Tín ngưỡng và Văn hóa tín ngưỡng: “Tương ứng với các cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng như Phật giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Nho giáo, đạo Mẫu… đều có các dạng thức văn hoá tương ứng: văn hoá Phật giáo, văn hoá Kitô giáo, văn hoá Nho giáo, văn hoá Hồi giáo, văn hoá đạo Mẫu… Bản thân các tôn giáo tín ngưỡng đã là một hình thức văn hoá đặc thù. Đấy là chưa kể, trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi tôn giáo tín ngưỡng bao giờ cũng sản sinh, tích hợp trong nó những hiện tượng, những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật”. Như vậy, theo quan điểm của G.S tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng là hai đối tượng “song trùng” luôn tồn tại và phát triển cùng với nhau. Trong thực tế, văn hóa tín ngưỡng được hình thành dựa trên những niềm tin và con người sử dụng những phương tiện khác nhau nhằm biểu 13 thị lòng tin đó. Các phương tiện đó được thể hiện qua những công trình vật chất, các nghi lễ, lễ hội, những nguyên tắc, những biểu tượng cụ thể… Những biểu hiện đó được hiểu là văn hóa tín ngưỡng. Để lấy ví dụ cho lập luận trên, G.S Ngô Đức Thịnh đã lấy “đạo Mẫu” làm điển hình: “Từ nhân lõi tôn giáo tín ngưỡng này, đạo Mẫu đã sản sinh và tích hợp nhiều yếu tố, giá trị văn hoá: văn học đạo Mẫu, diễn xướng đạo Mẫu (âm nhạc, múa, hát chầu văn, sân khấu), kiến trúc và nghệ thuật trang trí, lễ hội và sinh hoạt cộng đồng gắn với đạo Mẫu” Ngô Đức Thịnh (chủ biên) 2001. [Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam. HN: Nxb Khoa học xã hội.]. Nhà nghiên cứu Patrick B. Mullen cũng đồng quan điểm với G.S Ngô Đức Thịnh: “Tín ngưỡng dân gian không chỉ tồn tại ở dạng trừu tượng mà nó còn tồn tại trong thực tiễn và các ứng xử thực tế. Xin nhắc lại, văn hoá dân gian không chỉ là sự phản ánh một thế giới quan văn hoá trừu tượng, mà nó còn tồn tại trong cuộc sống hằng ngày như là một phương tiện sáng tạo văn hoá” [Folklore thế giới - Một số công trình nghiên cứu cơ bản Ngô Đức Thịnh - Frank Proschan, NXB Khoa học Xã hội 2005, Hà Nội, tr.280]. Ý kiến này minh họa cho quan điểm của giáo sư Ngô Đức Thịnh, nhìn chung coi văn hóa tín ngưỡng là phần “hình thức” và niềm tin của con người chính là phần “linh hồn” cốt lõi của tín ngưỡng. Niềm tin vào lực lượng siêu nhiên và văn hóa tín ngưỡng chính là hai bộ phận chính cấu thành lên tín ngưỡng cũng như sự phổ biến của chúng trong xã hội loài người. Trong quá trình nghiên cứu tài liệu các công trình nghiên cứu về văn hóa, tôn giáo – tín ngưỡng; tác giả nhận thấy các nhà nghiên cứu thường không đưa ra định nghĩa cụ thể về văn hóa tín ngưỡng. Nguyên nhân có thể do sự phức tạp trong định nghĩa Văn hóa (có tới 164 định nghĩa về văn hóa) và nhiều quan điểm khác nhau về tín ngưỡng. Các nhà nghiên cứu về tín ngưỡng thường chỉ lý giải và những đưa ra lập luận logic về sự tồn tại văn hóa tín ngưỡng trong xã hội nhằm tránh những tranh luận không cần thiết về mặt tên gọi, ngôn ngữ. 14 Trong luận văn này, văn hóa tín ngưỡng được hiểu theo cách giải thích của Giáo Sư Ngô Đức Thịnh. 1.1.2 Cơ sở hình thành tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng Đối chiếu tín ngưỡng với tôn giáo và xác định sự khác biệt giữa chúng là một công việc cần thiết trong việc xác định cơ sở hình thành tín ngưỡng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo do các nhà nghiên cứu xem xét lại các khái niệm khác nhau giữa quan điểm về tôn giáo – tín ngưỡng của cách phân loại văn hóa Đông - Tây. Nhìn chung các quan điểm về tôn giáo – tín ngưỡng cho rằng điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn tôn giáo. Tín ngưỡng không có tổ chức chặt chẽ và có giáo đường như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì thường là không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo. Một số nhà nghiên cứu xem tín ngưỡng là một loại “tôn giáo sơ khai, tôn giáo nguyên thủy”. Với vai trò là cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái "siêu nhiên" (hay nói gọn lại là "cái thiêng") - cái đối lập với cái "trần tục", cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Niềm tin vào "cái thiêng" thuộc về bản chất con người, nó ra đời và tồn tại, phát triển cùng với con người và loài người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm... Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức đời sống cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức theo những tập tục được lan truyền từ đời này sang đời khác (phong tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin 15 tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng. Từ tự phát lên tự giác theo con đường quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, thánh đường… tín ngưỡng trở thành tôn giáo. Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, các tín ngưỡng dân gian chưa chuyển được thành tôn giáo theo đúng nghĩa của nó - đó là những mầm mống của những tôn giáo như thế - đó là Ông Bà, đạo Mẫu. Phải đợi khi các tôn giáo thế giới như Phật, Đạo, Kitô giáo… đã được du nhập và đến thời điểm giao lưu với phương Tây, các tôn giáo dân tộc như: Cao Đài, Hòa Hảo mới xuất hiện” [13, tr. 263]. Như vậy cơ sở hình thành tín ngưỡng, như đã được chỉ ra trong định nghĩa của E.B Taylor (phần định nghĩa tín ngưỡng) và G.S Trần Ngọc Thêm là được hình thành khi nhận thức của con người chưa được hoàn thiện và phát triển như hiện tại; tín ngưỡng xuất hiện khi triết học và khoa học chưa cung cấp đầy đủ tri thức về thế giới, về con người và vị trí của con người trong thế giới đó. Nhận thức sơ khai về các hiện tượng tự nhiên, xã hội vẫn còn sơ đẳng, mang đậm tính huyền thoại dẫn đến việc thiêng hóa và tôn thờ. Trải qua thời gian và lớp lăng kính di truyền văn hóa, hiện nay tín ngưỡng đã trở thành một hình thức văn hóa – văn hóa tín ngưỡng tồn tại lâu bền trong xã hội loài người. Nếu chỉ nhìn nhận dưới góc độ triết học, khoa học; tín ngưỡng và đôi khi tôn giáo chỉ đơn thuần là một biểu hiện nhận thức lạc hậu của con người, không phù hợp với quan điểm duy vật của hệ tư tưởng Marxist. Tuy nhiên đứng dưới lăng kính văn hóa, tín ngưỡng là những di sản văn hóa biểu lộ đặc trưng tri thức truyền thống, thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của những thế hệ trước; phần nào còn tồn tại trong tâm thức của xã hội hiện đại. Đặc biệt khi trở thành văn hóa tín ngưỡng, giá trị của chúng còn mang tính bảo tồn và duy trì đường vạch nối giữa quá khứ - hiện tại, giữa các thế hệ đi trước - thế hệ hiện tại – thế hệ tương lai, góp phần định hình lên bản sắc các nền văn hóa. 1.1.3 Các hình thức biểu hiện của tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng 16 - Tín ngưỡng vạn vật hữu linh: Từ thời cổ đại đã xuất hiện học thuyết nói về linh hồn, đó là thuyết vật linh (Animism). Theo thuyết này thì tất cả mọi loài, mọi thứ trên trái dất từ con người đến con thú, những vật vô tri vô giác như cỏ cây , đất đá cũng đều có linh hồn . Quan niệm này tồn tại trong dân gian qua các câu nói, viết : " Hồn thiêng sông núi " “Hồn nước "...Tuy nhiên tùy theo phong tục tập quán mỗi quốc gia mà sự định nghĩa và tin tưởng có vài khác biệt, điểm quan trọng nhất trong niềm tin đó là con người tin tưởng rằng vạn vật đều có linh hồn bất diệt, kể cả con người. Đối với các nhà triết học cổ đại như Platon, Pythagore, Hereclite, Empedocles, Aristote Epicure ...họ đều có nghiên cứu và đề cập nhiều đến linh hồn và coi linh hồn như là một thể quan trọng trong sự chuyển hóa đời sống . Về sau có Ploton, Descarts, Pascan, Schopenhauer, Ralph Waldo Emerson, Prederic Wlliam Henry Myers...tiếp nối sự nghiên cứu tìm hiểu cũng như tin tưởng vào sự hiện hữu của Linh hồn. Người Việt Nam, theo truyền thống quan niệm rằng cơ thể con người gồm 3 thể thống nhất : - Thể xác - là phần cơ thể hữu hình, bao gồm lục phủ, ngũ tạng, hệ kinh lạc và các giác quan. - Thể vía - là phần cơ thể 1/2 hữu hình , 1/2 vô hình. Mắt thường không thể nhìn thấy được nhưng có thể cảm nhận được vì thể vía chính là phần sinh nhiệt của cơ thể sống. Trong quá trình sống, các tế bào không ngừng trao đổi chất, mà chúng ta biết các phản ứng hóa học trong quá trình trao đổi chất đều sinh nhiệt . - Thể hồn ( Hay còn gọi là Linh hồn ) là một khái niệm để chỉ một biểu tượng mơ hồ, ảo ảnh của một cá thể động vật cao cấp, chủ yếu là con người và một số loại cây cổ thụ đã chết, nhưng vẫn hiện diện tính thiêng, kính cẩn, luôn thường trực trong tâm trí con người; mà nhiều khi do chính tâm lý thương nhớ, tôn vinh của người sống tạo ra. 17 Ba bộ phận này khác nhau trong cách hiểu của người Việt, nếu thiếu một trong ba số chúng, con người không thể sống được hoặc ít nhất cũng bị bệnh tật, tai ách. Đặc thù của tín ngưỡng vạn vật hữu linh là nhấn mạnh đến sự hiện hữu linh hồn ở mọi sự vật, hiện tượng trong toàn bộ giới tự nhiên chứ không chỉ có trong đời sống văn hóa tâm linh, tư tưởng con người. Do đó xuất hiện những hình thức tín ngưỡng cụ thể gắn với một hay nhiều đối tượng cụ thể. - Tín ngưỡng thờ thần mặt trời: Từ thời nguyên thủy, mặt trời được tôn vinh là vị thần linh thiêng. Mặt trời mang lại cho con người ánh sáng, niềm tin, hơi ấm và xua đuổi đêm tối, tà khí, hồi sinh sự sống. Trong các trống đồng cổ của người Việt, biểu tượng mặt trời luôn nằm vị trí trung tâm trên bề mặt và con người, muông thú được chạm khắc xung quanh biểu tượng ngôi sao nhiều cánh đó. Mặc dù là một hình thức tín ngưỡng cổ xưa nhưng hiện nay hình thức tín ngưỡng này vẫn còn hiện hữu trong một số nghi lễ truyền thống trong sinh hoạt làng xã ở Việt Nam do đặc tính di truyền văn hóa của xã hội loài người. - Tín ngưỡng thờ đá: Đá được suy tôn kể từ khi con người biết sử dụng công cụ lao động chế tác từ đá thời nguyên thủy. Là một công cụ lao động mang lại hiệu quả cao, cộng với việc sử dụng các hòn đá đập vào nhau, con người có thể tạo ra lửa. Đá được coi là có sức mạnh siêu nhiên, được con người tôn thờ và được coi là vật thiêng, dùng để trấn áp các lực lượng đen tối nên được cắm quanh mộ người chết (người Mường cổ). Một số địa phương cất hòn đá vào điểm thờ tự công cộng như đình, miếu. Người Việt – Mường tạc tượng chó đá để trấn áp tà khí. Ngày nay, tín ngưỡng thờ đá còn biểu hiện qua việc thiêng hóa những nhũ đá trong các hang động có gắn liền với điểm di tích tôn giáo và tín ngưỡng. - Tín ngưỡng thờ cây: Con người cho rằng mọi cây cổ thụ đều có linh hồn, đặc biệt những cây cổ thụ có vị trí nơi vắng vẻ thường là nơi cư trú của những linh hồn lang thang không nơi nương tựa. Xúc phạm đến cây cổ thụ là động đến 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan