ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––
MAI THỊ THANH THỦY
NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
PHÁT TRIỂN MỘT SỐ GIỐNG LÚA LAI
TẠI TUYÊN QUANG
CHUYÊN NGÀNH: TRỒNG TRỌT
MÃ SỐ: 60 62 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG HẢI
GS.TS. NGUYẾN THẾ ĐẶNG
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––
MAI THỊ THANH THỦY
NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
PHÁT TRIỂN MỘT SỐ GIỐNG LÚA LAI
TẠI TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực, chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông
tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả
Mai Thị Thanh Thuỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ của Ban Giám hiệu, Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, Trại thực nghiệm Trường Trung học Kinh tế kỹ thuật Tuyên Quang,
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tuyên Quang, Trung tâm Khuyến
nông Tuyên Quang, các thầy giáo, cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
1. TS. Hoàng Hải và GS.TS. Nguyễn Thế Đặng - Đại học Thái
Nguyên, thầy đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành Luận văn này.
2. Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Nông học và các thầy
giáo, cô giáo giảng dạy chuyên ngành Trường Đại học Nông Lâm, Đại học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
3. Viện nông hóa thổ nhưỡng, Phòng Kiểm nghiệm sản phẩm cây
trồng và phân bón (Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây
trồng và phân bón Quốc gia), Sở Nông nghiệp và PTNT Tuyên Quang,
Trại thực nghiệm Trường Trung học Kinh tế kỹ thuật Tuyên Quang, Trung
tâm Khuyến nông Tuyên Quang, Trạm Khuyến nông thị xã Tuyên Quang,
Trạm Khuyến nông huyện Yên Sơn, cấp uỷ, chính quyền và nhân dân phường
Ỷ La (Thị Xã Tuyên Quang), xã Mỹ Bằng (Yên Sơn), cùng bạn bè đồng
nghiệp và người thân đã quan tâm giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mai Thị Thanh Thuỷ
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
ĐVT
Đơn vị tính
Đ/c
Đối chứng
BVTV
Bảo vệ thực vật
TGST
Thời gian sinh trưởng
NSLT
Năng suất lý thuyết
NSTT
Năng suất thực thu
FAO
Tổ chức Nông nghiệp và lương thực Thế giới
ICRISAT
Viện Nghiên cứu Cây trồng cạn Á nhiệt đới
IRRI
Viện nghiên cứu lúa Quốc tế
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, trong những năm qua nền
nông nghiệp của nước ta đã có những bước phát triển nhanh, liên tục và đạt
được những thành tựu to lớn. Đặc biệt, kết quả sản xuất lương thực đã góp
phần quan trọng vào ổn định chính trị, phát triển kinh tế và từng bước nâng
cao đời sống của nhân dân.
Trước năm 1986, nước ta là một quốc gia thiếu lương thực triền miên,
nhưng từ năm 1989 đến nay, mặc dù hằng năm dân số tăng thêm gần 1,4 triệu
người, an ninh lương thực của Việt Nam đã tương đối ổn định. Trong nhiều
năm qua, Việt Nam đã trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu
gạo. Những thành tựu trên là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, bao gồm đổi
mới cơ chế chính sách cùng các giải pháp quan trọng khác như tập trung đầu
tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp (thuỷ lợi, giao thông, điện,
phân bón...) áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu mùa
vụ..., trong đó sử dụng các giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt là yếu
tố quan trọng góp phần vào thành tựu chung của phát triển sản xuất nông
nghiệp nước ta trong thời gian qua. Yếu tố đóng góp của khoa học và công
nghệ cho việc nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của nông sản
Việt Nam ngày càng được khẳng định rõ nét trong thời kỳ đổi mới.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, sản xuất lúa gạo luôn là vấn đề quan
trọng, gắn bó mật thiết với nhiều hộ nông dân và địa phương. Với 70% dân số
sống ở nông thôn, gắn liền với truyền thống và tập quán sản xuất lương thực,
mà lúa gạo là chủ yếu chiếm tới gần 90% sản lượng lương thực. Trong những
năm gần đây, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp thì câu hỏi lớn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
nhất đối với các nhà hoạch định chính sách và đặc biệt là nhiều hộ nông dân
làm thế nào để tăng năng suất lúa ngang tầm với các nước trong khu vực và
trên thế giới, đem lại thu nhập cao. Trả lời câu hỏi này vẫn đang là vấn đề nan
giải đối với nhiều địa phương. Thực tế cho thấy, nếu chỉ tập trung các giải pháp
giúp nông dân giải quyết vấn đề về thì hiệu quả thường thấp và không bền
vững. Vấn đề quan trọng hiện nay là cần kết hợp vừa giúp nông dân giải quyết
vấn đề chính sách, vừa giúp tháo gỡ các khó khăn kỹ thuật sản xuất, về thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
Vì vậy, bên cạnh việc tìm ra các giống lúa mới cho năng suất cao, chất
lượng tốt, là việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật phù hợp với từng tiểu
vùng khí hậu. Quy hoạch các vùng sản xuất lúa với trình độ thâm canh cao,
phát triển bền vững các giống lúa, đồng thời nghiên cứu và xác lập được hệ
thống thị trường tiêu thụ ổn định, như vậy sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng đất
và giúp cho nông dân có thêm cơ sở để phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập,
cải thiện cuộc sống. Do đó, việc nghiên cứu, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật
vào sản xuất nhằm đáp ứng được nhu cầu của thị trường là vấn đề cần thiết.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi, có tổng diện tích tự nhiên là
5.860km2. Dân số năm 2009 là 725.000 người, với 22 dân tộc anh em cùng
sinh sống (Cục Thống kê Tuyên Quang, 2009)[6]. Hằng năm, diện tích gieo
cấy lúa của tỉnh Tuyên Quang khoảng 45.000 ha, vụ xuân 19.500 ha, vụ mùa
25.500 ha. Trong đó, lúa lai chiếm gần 55% diện tích gieo cấy, các giống lúa
lai chính là Tạp giao 1 (Shán ưu 63), Nhị ưu 63, Nhị ưu 838, Bác ưu 903, diện
tích còn lại được gieo cấy bằng các giống lúa thuần chủ yếu là Khang dân 18,
IRI 352 và một số ít diện tích HT1… Năm 2009, năng suất lúa trung bình của
tỉnh đã đạt 57,3 tạ/ha, lương thực bình quân đầu người đạt 430 kg/người/năm.
Với diện tích tuy không lớn, đứng thứ bốn mươi bốn so với cả nước và đứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
thứ năm trong vùng trung miền núi phía Bắc. Cho đến nay Tuyên Quang vẫn
chưa có một quy trình kỹ thuật nào cụ thể cho sản xuất lúa, đặc biệt là lúa lai,
hầu hết các giống lúa đang gieo cấy hiện nay đều sản xuất hiện nay đều theo
quy trình cũ, dẫn đến thu nhập của người trồng lúa chưa được cải thiện nhiều,
trong khi nhu cầu sản xuất ngày càng cao của thị trường trong tỉnh đang đòi
hỏi có kỹ thuật cao hơn để nâng cao đời sống của bà con nông dân. Do đó, để
nghiên cứu biện pháp kỹ thuật phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh, đồng
thời khuyến cáo cho nông dân là yêu cầu hết sức cần thiết đối với sản xuất
nông nghiệp của tỉnh Tuyên Quang hiện nay. Xuất phát từ lý do trên, chúng
tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật phát triển một số
giống lúa lai tại Tuyên Quang“.
1.2. Mục tiêu, yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển, năng suất và khả
năng chống chịu của một số giống lúa lai. Chọn ra được giống lúa lai có khả
năng thích nghi và cho năng suất cao để gieo trồng tại Tuyên Quang.
- Nghiên cứu mức phân bón, mật độ cấy thích hợp để hoàn chỉnh quy
trình kỹ thuật sản xuất cho giống lúa lai sản xuất tại Tuyên Quang.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số
giống lúa lai.
- Xác định được mức phân bón, mật độ cấy thích hợp cho giống lúa lai.
- Xây dựng mô hình trình diễn biện pháp kỹ thuật triển vọng nhất trong
vụ mùa 2009, từ đó là cơ sở để khuyến cáo mở rộng diện tích gieo cấy ở vụ
xuân 2010 và các vụ tiếp theo.
- So sánh hiệu quả kinh tế của công thức phân bón với công thức đối chứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
- Góp phần xác định cơ sở khoa học cho việc xây dựng quy trình kỹ
thuật sản xuất cho giống lúa lai, giúp sản xuất tránh được thiệt hại do sử dụng
biện pháp kỹ thuật không phù hợp.
- Việc đưa thêm vào sản xuất biện pháp kỹ thuật sẽ cải thiện được quy
trình sản xuất lúa tại địa phương.
- Là địa bàn cho học viên thực hành, thực tập. Chính những học viên đó
là những tuyên truyền viên tại các cơ sở, hộ gia đình nơi học viên sinh sống.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Lựa chọn được giống lúa lai có năng suất cao nhất, công thức phân
bón tiên tiến nhất, mật độ cấy thích hợp nhất góp phần mở rộng diện tích
nhằm giúp bà con nông dân vừa có thể tiết kiệm được một lượng phân bón
quý giá, vừa đạt được một mùa vụ bội thu.
- Thay đổi khuyến cáo phân bón cho lúa ở các địa phương đều tương tự
giống nhau và dùng cho cả vùng rộng lớn, không sát với điều kiện thực tế của
từng tiểu vùng, từng cánh đồng. Thay vào đó là quy trình phân bón mới phù
hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội vừa thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, vừa là nhân tố làm ổn định an ninh
lương thực và bảo vệ môi trường sinh thái trên địa bàn.
- Việc ứng dụng thành công quy trình bón phân cho lúa, không những
đáp ứng được nhu thâm canh ngày càng cao hiện nay của người dân địa
phương, mà còn hạn chế sự lãng phí phân bón và đạt được năng suất như
mong muốn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học
Lúa gạo là nguồn lương thực quan trọng của khoảng 3 tỷ người trên thế
giới. Trong khi dân số thế giới tiếp tục tăng thì diện tích đất dùng cho trồng
lúa không những không tăng mà còn đang bị suy giảm. Do đó, vấn đề lương
thực được đặt ra như mối đe dọa đến an ninh và ổn định của thế giới trong
tương lai. Theo dự đoán của các chuyên gia dân số học, nếu dân số thế giới
tiếp tục tăng trong vòng 20 năm tới thì sản lượng lúa gạo phải tăng 80% mới
đáp ứng đủ nhu cầu sống còn của số dân mới.
Thực tế trong những năm qua, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn
trong việc nâng cao sản lượng lương thực để vừa cung cấp đủ lương thực cho
nhân dân trong nước, vừa góp phần cùng cộng đồng quốc tế đảm bảo an ninh
lương thực toàn cầu.
Giống lúa có vai trò quan trọng trong việc sản xuất lương thực, là tiền
đề để nâng cao năng suất và sản lượng gạo, góp phần quan trọng trong việc
tăng thu nhập cho người trồng lúa, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực.
Công tác giống được chú trọng phát triển cùng với các biện pháp kỹ thuật và
khả năng đầu tư sẽ làm cho nền nông nghiệp nước ta phát triển nhanh chóng
cả về số lượng và chất lượng nông sản.
Giống lúa mới được coi là tốt nhất phải có độ thuần cao, thể hiện đầy đủ
các yếu tố di truyền của giống đó, khả năng chống chịu tốt với điều kiện ngoại
cảnh bất thuận của từng vùng khí hậu, đồng thời chịu thâm canh, kháng sâu bệnh
hại, cho năng suất cao, phẩm chất tốt và ổn định qua nhiều thế hệ. Muốn phát
huy tiềm năng năng suất của giống tốt đó phải sử dụng chúng hợp lý, phù hợp
với đất đai, điều kiện khí hậu, kinh tế, xã hội của từng vùng sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
Các giống khác nhau phải có khả năng phản ứng với điều kiện sinh thái ở
mỗi vùng khác nhau. Xác định được giống đó tốt cho từng vùng sản xuất nông
nghiệp là việc làm cần thiết và đòi hỏi có thời gian. Một giống mới trước khi đưa
vào sản xuất trên diện rộng thì giống đó phải được trồng trước những vùng sinh
thái khác nhau. Việc làm đầu tiên là đánh giá tính khác biệt, độ đồng đều, tính ổn
định, khả năng thích ứng, khả năng chống chịu sâu bệnh cũng như điều kiện bất
thuận và khả năng cho năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế của giống đó.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Tuyên Quang là tỉnh miền núi có tiểu vùng khí hậu mang đặc điểm
chung của khí hậu miền núi phía Bắc, có hai mùa rõ rệt. Hệ thống thuỷ lợi
tương đối hoàn chỉnh, giao thông khá thuận lợi, trình độ dân trí ngày được
nâng cao, khả năng tiếp cận, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất khá nhanh, thuận lợi cho việc phát triển vùng chuyên canh sản xuất các
giống lúa chất lượng cao tham gia vào thị trường. Những năm gần đây, sản
xuất nông nghiệp tại Tuyên Quang tăng trưởng rõ nét cả về số lượng cũng
như chất lượng, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo. Với diện tích tuy
không lớn, nhưng do làm tốt việc cải tiến các khâu kỹ thuật từ áp dụng các
tiến bộ kỹ thuật thâm canh mới về giống, bón phân cân đối, sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật hợp lý, đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi…nên năng suất lúa
của Tuyên Quang đã có những bước tiến đáng kể. Sản lượng lương thực năm
2009 đạt 32,9 vạn tấn. Do ứng dụng nhanh các giải pháp kỹ thuật đã góp phần
đưa năng suất lúa tăng từ 37,02tạ/ ha năm 1996 lên 57,3 tạ/ha năm 2009,
lương thực bình quân đầu người tăng từ 231kg/ người năm 1996 lên 430kg/
người năm 2009 (Sở Nông nghiệp và PTNT Tuyên Quang, 2010)[22].
Với chủ trương mở rộng diện tích gieo cấy lúa lai và cải tiến bộ
giống lúa thuần nên năng suất lúa trung bình của tỉnh Tuyên Quang đã tăng
nhanh, từ đó góp phần quan trọng trong việc tăng nhanh sản lượng lương
thực của tỉnh. Năm 1996, diện tích gieo cấy lúa lai của tỉnh mới chiếm 15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
% tổng diện tích, đến năm 2009 diện tích gieo cấy lúa lai đã tăng lên 57,85
% diện tích toàn tỉnh.
Nhìn chung so với cả nước, năng suất lúa của tỉnh Tuyên Quang
khá cao, năm 2009 năng suất lúa bình quân của tỉnh đạt 57,3 tạ/ha. Tuy
nhiên theo định hướng phát triển nông nghiệp của Tỉnh Tuyên Quang đến
năm 2015 của tỉnh là ngoài việc ổn định diện tích gieo cấy lúa, đảm bảo
an ninh lương thực trên địa bàn cần đưa nhanh các giống lúa lai có năng
suất cao và chất lượng, nâng cao sản lượng lúa để đảm bảo tập trung cho
chương trình an ninh lương thực trên địa bàn toàn Tỉnh. Do vậy việc
nghiên cứu và tìm ra biện pháp kỹ thuật phù hợp cho phát triển cây lúa,
đặc biệt là lúa lai là một việc làm cần thiết và phù hợp với định hướng
phát nền nông nghiệp bền vững của Quốc gia.
1.2. Tình hình sản xuất lúa trên Thế giới và trong nƣớc
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa và tiêu thụ gạo trên Thế giới
Lúa là một trong những cây ngũ cốc có lịch sử lâu đời, trải qua một quá
trình biến đổi và chọn lọc từ cây lúa dại thành cây lúa ngày nay.
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Thế giới
giai đoạn 1961 - 2007
Năm
Diện tích
(Triệu ha )
Năng suất
(Tạ/ha)
Sản lƣợng
(Triệu tấn)
1961
1970
1980
1990
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
115,50
133,10
144,67
146,98
154,11
151,97
147,69
149,20
151,02
153,78
156,30
18,7
23,8
27,4
35,3
38,9
39,4
39,1
39,1
40,3
40,2
41,21
215,98
316,77
396,39
518,83
599,48
598,76
577,46
583,37
608,61
618,19
644,11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
2007
156,95
41,50
651,34
Nguồn: FAOSTAT, 2008 [29]
Hiện nay, trên thế giới có 114 nước trồng lúa và phân bố ở tất cả các châu
lục, trong đó, châu Phi có 41 nước trồng lúa, châu Á có 30 nước, Bắc Trung Mỹ
có 14 nước, Nam Mỹ có 13 nước, châu Âu có 11 nước, châu Đại Dương có 5
nước. Tổng diện tích thu hoạch là 156,9 triệu ha, năng suất lúa bình quân đạt
41,5 tạ/ha. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo vẫn tập trung chủ yếu ở các nước châu Á
nơi chiếm tới 90% diện tích gieo trồng cũng như lượng sản xuất ra. Trong đó Ấn
Độ là nước có diện tích thu hoạch lúa lớn nhất (khoảng 43 triệu ha), tiếp đến là
Trung Quốc khoảng 29 triệu ha (FAOSTAT, 2008) [29].
Vào cuối thế kỷ XX và đầu những năm của thế kỷ XXI, do nhận thức
được những tác động không có lợi của phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hoá
học nên người ta có xu hướng hạn chế sử dụng các chất hoá học tổng hợp trong
thâm canh lúa, chú trọng chỉ tiêu chất lượng hơn là số lượng làm cho năng suất
lúa có xu hướng chững lại hoặc tăng không đáng kể. Tuy nhiên, ở những nước
có nền khoa học kỹ thuật và kinh tế phát triển, năng suất lúa vẫn cao hơn.
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của 10 nước
có sản lượng lúa hàng đầu Thế giới năm 2007
Tên nƣớc
Diện tích
Năng suất
Sản lƣợng
(Triệu ha)
(Tạ/ha)
(Triệu tấn)
Trung Quốc
29,49
63,41
186,99
Ấn Độ
44,00
32,07
141,10
Inđônêxia
12,16
46,89
57,01
Băngladesh
11,20
38,84
43,50
Việt Nam
7,30
49,81
36,36
Thái Lan
10,36
26,91
27,87
Philippin
4,25
37,64
15,99
Braxin
2,90
38,20
11,07
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
Nhật Bản
1,67
65,37
10,91
Myanma
0,82
39,76
3,26
Nguồn: FAO STAT, 2008 [29]
Trong 10 nước trồng lúa (bảng 1.2) có sản lượng nhiều nhất Thế giới,
đã có 9 nước nằm ở châu Á, chỉ có một đại diện của châu Mỹ đó là Braxin
(Nam Mỹ). Trung Quốc và Nhật Bản là 2 nước có năng suất cao vượt trội, đạt
63,41 tạ/ha (Trung Quốc) và 65,37 tạ/ha (Nhật Bản). Điều đó có thể lý giải là
vì Trung Quốc là nước đi đầu trong lĩnh vực phát triển lúa lai và người dân
nước này có tinh thần lao động cần cù, có trình độ thâm canh cao. Còn Nhật
Bản là nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao, đầu tư lớn (Nguyễn Hữu Hồng,
1993) [13]. Việt Nam là nước có năng suất lúa cao đứng hàng thứ 3 trong 10
nước trồng lúa chính, đạt 49,81 tạ/ha. Thái Lan tuy là nước xuất khẩu gạo
đứng hàng đầu thế giới trong nhiều năm liên tục, song năng suất chỉ đạt 26,91
tạ/ha, bởi vì Thái Lan chú trọng nhiều hơn đến canh tác các giống lúa dài
ngày, chất lượng cao (Bùi Huy Đáp, 1999) [10].
Theo dự báo của các nhà khoa học thì sản lượng lúa sẽ tăng chậm và có
xu hướng chững lại vì diện tích trồng lúa ngày càng thu hẹp do tốc độ đô thị
hoá gia tăng. Giá lúa tăng chậm trong khi đó giá vật tư đầu vào tăng cao
không khuyến khích nông dân trồng lúa, hệ số sử dụng đất ruộng khó có thể
tăng cao hơn nữa, nông dân chuyển diện tích trồng lúa sang trồng các cây
khác và nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả kinh tế cao hơn hoặc chuyển sang
trồng các giống lúa có chất lượng cao mặc dù năng suất thấp hơn.
Theo Bộ Nông nghiệp & PTNT (Bộ Nông nghiệp và PTNN, 2008) [3],
thị trường xuất nhập khẩu gạo trên Thế giới trong thời gian gần đây như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
- Xuất khẩu: Giai đoạn 1995 - 2004, lượng gạo xuất khẩu trên Thế giới
hàng năm khoảng 23 - 25 triệu tấn/năm (chiếm trên 6% tổng sản lượng gạo),
bình quân tăng 3%/năm. Năm 2007, mức xuất khẩu gạo đạt mức 30,2 triệu tấn
(tăng 3,4% so với năm 2006). Châu Á chiếm 77% lượng gạo xuất khẩu của
Thế giới. Có trên 20 nước tham gia xuất khẩu gạo, trong đó 7 nước xuất khẩu
gạo chủ lực gồm: Thái Lan, Việt Nam, Mỹ, Ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc,
Myanma chiếm 85% tổng khối lượng gạo xuất khẩu trên toàn Thế giới.
- Nhập khẩu: Hiện nay có khoảng 80 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu
gạo, trong đó chủ lực là các nước thuộc châu Á như: Philippin, Inđônêxia,
Banglades; khu vực châu Phi, Trung Đông và một số các nước thuộc khu vực
Trung Mỹ nhập khẩu lượng gạo khá lớn.
- Giá gạo thị trường Thế giới: Giai đoạn 1995-2000 diễn biến trong
khoảng 220 - 250 USD/tấn (loại 25% tấm); giai đoạn 2001-2005 giá gạo thế
giới xuống thấp dao động trong khoảng 160 - 200 USD/tấn. Từ 2006 trở lại
đây giá gạo liên tục tăng, đặc biệt vào cuối 2007 đầu năm 2008 giá gạo tăng
kỷ lục do nguồn cung bị hạn chế, giá gạo giao dịch trên thị trường thế giới đã
đạt trong khoảng 800 - 1.000 USD/tấn. Hiện nay giá gạo đã giảm xuống còn
khoảng 450 - 500 USD/tấn FBO loại 5% tấm. Theo dự báo giá gạo sẽ tăng
trong thời gian tới.
Dự báo tình hình sản xuất và tiêu thụ gạo trên thế giới đến năm 2020
(Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2008) [3]:
- Trong 10 năm tới, sản xuất lúa gạo trên Thế giới tăng chậm do hạn
chế việc mở rộng diện tích gieo cấy, một số nước có diện tích lúa lớn có xu
hướng giảm và năng suất lúa kém ổn định khi phải chịu ảnh hưởng của thiên
tai, dịch bệnh và giá vật tư, phân bón tăng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
+ Diện tích sản xuất lúa: Trong 10 năm tới, dự báo diện tích trồng lúa
sẽ không có khả năng tăng nhiều và ở mức khoảng 151,5 triệu ha. Hầu hết các
nước châu Á đều không có hoặc có rất ít khả năng mở rộng diện tích đất trồng
lúa. Một số nước như Thái Lan, Inđônêxia, Tiểu vùng Sahara của châu Phi có
thể mở rộng một phần diện tích trồng lúa nhưng cũng chỉ bù vào phần diện
tích đất lúa sẽ bị thu hẹp của các nước có diện tích lớn như Trung Quốc, Ấn
Độ do thiếu nguồn nước và nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích khác. Mặt
khác, theo dự báo biến đổi khí hậu và nguy cơ mực nước biển dâng cao sẽ dẫn
đến một phần diện tích đất nông nghiệp vùng ven biển, chủ yếu là đất trồng
lúa sẽ bị ngập hoặc nhiễm mặn.
+ Về sản lượng gạo: Nếu không có những đột biến về thiên tai và sâu
bệnh hại trên quy mô lớn, sản lượng gạo tăng bình quân khoảng 0,6%/năm,
đạt mức khoảng 440,2 triệu tấn vào năm 2017. Yếu tố để tăng sản lượng gạo
trong 10 năm tới chủ yếu là tăng năng suất dựa trên cơ sở phát triển thủy lợi,
áp dụng giống tốt và cải tiến kỹ thuật canh tác lúa. Tuy nhiên, việc thâm canh
tăng năng suất lúa phụ thuộc nhiều vào nỗ lực của Chính phủ các nước trong
việc đầu tư phát triển thủy lợi, sản xuất và cung ứng đủ nguồn phân bón, vật
tư sản xuất khác.
- Tiêu dùng gạo trên thế giới tiếp tục tăng do tăng dân số, đặc biệt ở
châu Á, châu Phi là khu vực sử dụng nhiều lúa gạo, khu vực Tây bán cầu và
Trung Đông tăng mức tiêu thụ gạo trên đầu người.
+ Nhu cầu gạo trong 10 năm tới của Thế giới tăng bình quân 0,6%/ năm
và dự kiến tổng mức tiêu dùng gạo khoảng 441,2 triệu tấn năm 2017, trong đó:
Gạo dùng làm lương thực khoảng 406,8 triệu tấn (92,2%), gạo dữ trữ có xu
hướng giảm chỉ còn khoảng 72,7 triệu tấn và giảm 4,5 triệu tấn so với hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
+ Trong giai đoạn 2007 - 2017, tiêu dùng gạo thế giới tăng phần lớn là
do nhu cầu nhập khẩu tăng ở Ấn Độ, Inđônêxia, Bangladesh, Philippin và Tiểu
vùng Sahara của châu Phi (chiếm khoảng 2/3 mức tăng cầu toàn thế giới), một
số nước Tây bán cầu tăng lượng gạo nhập khẩu như: Braxin, Cu Ba.
- Nhiều quốc gia xuất khẩu gạo lớn sẽ giảm lượng gạo xuất khẩu,
trong khi nhu cầu nhập khẩu gạo tăng, nguồn cung thị trường gạo sẽ thiếu
hụt so với cầu, giá gạo trên thị trường Thế giới giữ ở mức khá cao. Dự báo
lượng gạo thương mại trên Thế giới trong thập kỷ tới sẽ tăng bình quân
2,4%/ năm và sẽ đạt mức 35 triệu tấn vào năm 2017. Tuy nhiên, trước nguy
cơ khủng hoảng lương thực toàn cầu, để đảm bảo an ninh lương thực trong
nước, một số nước như Trung Quốc, Ấn độ, Pakistan, Mỹ... giảm lượng
gạo xuất khẩu, trong khi nhiều nước tăng lượng nhập khẩu như Philippin,
Inđônêxia, Bangladesh và Tiểu vùng Sahara của châu Phi, Trung Đông,
một số nước Tây bán cầu thiếu hụt nguồn cung sẽ làm cho giá gạo thế giới
duy trì giữ ở mức cao trong trung và dài hạn.
Phát biểu với các nhà lãnh đạo Thế giới tại Hội nghị thượng đỉnh lương
thực vào tháng 6 năm 2008 ở Rome (Italia), Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban
Ki-Moon cho rằng: Lương thực của Thế giới cần phải tăng thêm 50% vào năm
2030 mới đáp ứng được nhu cầu sử dụng lương thực do dân số gia tăng [9].
1.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lúa trong nước
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, lượng bức xạ mặt
trời cao và đất đai phù hợp nên có thể trồng được nhiều vụ lúa trong năm và
với nhiều giống lúa khác nhau. Sản xuất lúa gắn liền với sự phát triển nông
nghiệp, theo tài liệu khảo cổ học cho thấy lúa được trồng ở nước ta cách đây
2.000 - 3.000 năm trước Công nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
Hiện nay, Việt Nam là một nước trồng lúa trọng điểm trên Thế giới,
người Việt Nam vẫn thường tự hào về nền văn minh lúa nước của đất nước
mình. Từ xa xưa, cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu, có ý nghĩa quan
trọng trong đời sống của người dân Việt Nam (Bùi Huy Đáp, 1999)[10]. Suốt
từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng thấy người dân trồng lúa, song diện tích tập
trung chủ yếu ở hai vùng châu thổ lớn đó là Đồng bằng sông Hồng và Đồng
bằng sông Cửu Long. Quá trình khai hoang, phục hoá, hệ thống tưới tiêu được
đầu tư, nâng cấp, cùng với việc thâm canh tăng vụ đã đưa tổng diện tích lúa thu
hoạch của nước ta từ 4,74 triệu ha năm 1961 lên 7,67 triệu ha năm 2000, sau đó
giảm dần xuống còn 7,34 triệu ha vào năm 2003 (Nguyễn Thị Lẫm và cộng sự
2003)[17]. Cùng thời gian đó, năng suất và sản lượng lúa cũng tăng lên rõ rệt
nhờ vào công cuộc cải cách về chính sách, chọn tạo giống lúa và ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật về phân bón, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh một cánh
hợp lý, đồng bộ. Tính từ năm 1961 đến năm 2005, năng suất lúa của nước ta đã
tăng lên 2,8 lần. Giai đoạn tăng cao nhất là từ thập kỷ 80 đến nay. Điều này gắn
liền với các tiến bộ mới trong thâm canh tăng năng suất lúa được ứng dụng
rộng rãi, trong thời gian này và điều quan trọng hơn là việc chuyển đổi cơ chế
quản lý, từ hợp tác xã sang tư nhân hoá (khoán 10), lấy hộ gia đình là đơn vị
kinh tế tự chủ đã khuyến khích người nông dân đầu tư, thâm canh sản xuất lúa.
Sản lượng lúa của Việt Nam cũng vì thế mà tăng liên tục từ 9,0 triệu tấn năm
1961 lên 38,7 triệu tấn năm 2008. Từ một nước thiếu ăn, phải nhập khẩu gần 2
triệu tấn gạo/năm trước đây, Việt Nam đã vươn lên giải quyết an ninh lương
thực cho hơn 80 triệu dân, ngoài ra còn xuất khẩu một lượng gạo lớn ra thị
trường Thế giới. Những năm gần đây, nước ta luôn đứng hàng thứ 2 trên thế
giới (sau Thái Lan) về lượng gạo xuất khẩu (đạt 5,25 triệu tấn năm 2005) và sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
ổn định vào những năm tiếp theo. Đây là thành công lớn trong công tác chỉ đạo
và phát triển sản xuất lúa của Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
Bảng 1.3. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam
giai đoạn 1961 đến 2008
1961
Diện tích
(triệu ha)
4,74
Năng suất
(tạ/ha)
19,0
Sản lƣợng
(triệu tấn)
9,00
1970
4,72
21,5
10,17
1980
5,60
20,8
11,65
1990
6,04
31,81
19,2
1991
6,30
31,13
19,6
1992
6,48
33,34
21,6
1993
6,56
34,81
22,8
1994
6,60
35,66
23,5
1995
6,77
36,90
25,0
1996
7,00
37,69
26,4
1997
7,10
38,77
27,5
1998
7,36
39,59
29,1
1999
7,65
41,02
31,4
2000
7,67
42,43
32,5
2001
7,49
42,85
32,1
2002
7,50
45,90
34,4
2003
7,45
46,39
34,6
2004
7,45
48,55
36,1
2005
7,33
48,89
35,8
2006
7,32
48,94
35,8
2007
7,30
49,81
36,3
2008
7,41
52,22
38,7
Năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -