Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu bệnh tiêu chảy ở trẻ dưới 5 tuổi và kiến thức, hành vi của các bà mẹ ...

Tài liệu Nghiên cứu bệnh tiêu chảy ở trẻ dưới 5 tuổi và kiến thức, hành vi của các bà mẹ tại xã ba trinh, huyện kế sách, sóc trăng

.PDF
62
482
133

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y-DƢỢC TRƢƠNG THANH PHƢƠNG NGHI£N CøU BÖNH TI£U CH¶Y ë TRÎ D¦íI 5 TUæI Vµ KIÕN THøC C¸C Bµ MÑ T¹I X· BA TRINH, HUYÖN KÕ S¸CH - SãC TR¡NG N¡M 2009 LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP I Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG HUẾ - NĂM 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y-DƢỢC TRƢƠNG THANH PHƢƠNG NGHI£N CøU BÖNH TI£U CH¶Y ë TRÎ D¦íI 5 TUæI Vµ KIÕN THøC C¸C Bµ MÑ T¹I X· BA TRINH, HUYÖN KÕ S¸CH - SãC TR¡NG N¡M 2009 LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP I Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số: CK 60 72 76 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS.TS. TRẦN THỊ MINH DIỄM HUẾ - NĂM 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Trƣơng Thanh Phƣơng KÝ HIỆU VIẾT TẮT AIDS : Acquired Immcene Deficiency Syndrome CDD : Chương trình phòng chống tiêu chảy (Control program of Diarrhhoeal Diseases) ETEC : Enterotoxigenic Escherichia coli HVS : Hợp vệ sinh KHVS : Không hợp vệ sinh NCBSM : Nuôi con bằng sữa mẹ ORS : Oresol TCYTTG : Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization) THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông UBND : Ủy ban nhân dân 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tiêu chảy ở trẻ em là một vấn đề sức khoẻ đang được quan tâm rộng rãi trên Thế giới, bệnh đã lôi cuốn nhiều đến sự chú ý của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học, nhà y học, bởi đó là nguyên nhân gây bệnh tật và tử vong cho trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và nhiều công trình nghiên cứu điều tra ở Châu Á, Châu Phi và châu Mỹ La Tinh cho thấy, ở các nước đang phát triển hàng năm có trên 750 triệu trường hợp tiêu chảy, trong đó 500 triệu là trẻ em dưới 5 tuổi. Tử vong do tiêu chảy hang năm từ 3-6 triệu trẻ em, có 80% trong số này là trẻ em dưới 2 tuổi [35], [36]. Trong những năm gần đây ở Việt Nam tình hình bệnh tiêu chảy có chiều hướng gia tăng. Đáng chú ý là các tỉnh phía Bắc, dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm được phát hiện ngày 23/10/2007, bắt đầu ở Hà Nội và chính thức được công bố thành dịch từ ngày 31/10/2007. Hiện dịch đã lây lan đến 7 tỉnh thành như Hà Tây, Hải phòng, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hưng Yên và Thái Bình. Theo Thứ Trưởng Trịnh Quân Huấn có rất nhiều nguyên nhân gây tiêu chảy cấp, đa số là do nhiễm khuẩn, nhiễm độc từ thức ăn như nhiễm khuẩn lỵ, Escherie coli, vi khuẩn tả với 1 đến 1,2 triệu ca mỗi năm trên cả nước. Theo thống kê của Bộ Y tế năm 1996, mười bệnh gây chết nhiều nhất tại các bệnh viện chủ yếu là bệnh nhiễm trùng, trong đó tiêu chảy đứng hàng thứ hai với tỷ lệ chết 3,92/100.000 dân [35], [36]. Theo thông báo dịch năm 2003 [24], năm 2004 [25], năm 2005 [26], [27], năm 2006 [28], tiêu chảy vẫn là một tronh các bệnh truyền nhiễm số người mắc cao nhất. Ở tỉnh Sóc Trăng có 24.255 ca mắc, Riêng huyện Kế Sách theo báo cáo của Trung tâm Y tế dự phòng huyện năm 2008 có 2.513 không có trường hợp tử vong do tiêu chảy. Tuy nhiên, trong thực tế số liệu này phản ảnh chưa đầy đủ tỷ lệ mắc trong cộng đồng. Do các bà mẹ lựa chọn dịch vụ y tế nên còn nhiều trường hợp trẻ tiêu chảy không được báo cáo. Ngoài vấn đề tỷ lệ mắc và tử vong cao bệnh tiêu chảy còn là nguyên nhân hàng đầu gây suy dinh dưỡng, chậm phát 2 triển về tinh thần, thể chất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập của các bệnh nhiễm trùng khác. Các phương pháp điều trị tiêu chảy đơn giản và hiệu quả có thể làm giảm rõ rệt số lượng tử vong do tiêu chảy đồng thời làm giảm sự nhập viện không cần thiết của hầu hết các trường hợp [46], [47]. Các phương pháp này ngày càng được phổ biến rộng hơn tại cộng đồng đã đóng góp thành công đáng kể vào việc khống chế các bệnh tiêu chảy, làm giảm tỉ lệ mắc, giảm tỷ lệ tử vong do tiêu chảy gây ra. Hành vi sức khỏe có giá trị rất lớn đến việc giảm tỷ lệ mắc và chết của một bệnh. Việc điều trị một bệnh chỉ được giải quyết một cách triệt để khi gia đình, đặc biệt là các bà mẹ nhận ra những gì cần phải làm để thay đổi hành vi sức khỏe có hại do chính mình gây ra [23]. Muốn thực hiện có hiệu quả công tác phòng bệnh tiêu chảy cho trẻ em tại một cộng đồng thì phải tìm hiểu các kiến thức và hành vi của các bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi liên quan đến tỉ lệ mắc tiêu chảy của cộng đồng đó. Tại Sóc Trăng, mặc dù chương trình phòng chống bệnh tiêu chảy Quốc gia (CDD) đã được triển khai trong nhiều năm nay, nhưng thời gian qua tình hình mắc bệnh tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi còn khá phổ biến trong cộng đồng do việc thực hiện biện pháp phòng bệnh chưa thật kỹ lưỡng, do tập quán thói quen, sự hiểu biết, môi trường sống, các yếu tố khách quan… Vì vậy, sự hiểu biết của cộng đồng về các biện pháp phòng bệnh tiêu chảy là rất quan trọng. Vấn đề đặt ra là tìm xem yếu tố nào ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêu chảy, mức độ tác động ra sau, yếu tố nào là đặc thù riêng của địa phương nghiên cứu. Vì vậy,chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu bệnh tiêu chảy ở trẻ dƣới 5 tuổi và kiến thức, hành vi của các bà mẹ tại xã Ba Trinh, huyện Kế Sách, Sóc Trăng ”. Với các mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ bệnh tiêu chảy ở trẻ dưới 5 tuổi tại xã Ba Trinh, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. 2. Tìm hiểu kiến thức, thái độ, hành vi của các bà mẹ về bệnh tiêu chảy. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. TIÊU CHẢY TRẺ EM 1.1.1. Định nghĩa bệnh tiêu chảy. Tiêu chảy là hiện tượng đi cầu nhiều lần trong ngày, chủ yếu là phân lỏng hay nước [18]. Độ rắn mềm của phân do thành phần nước trong phân quyết định: Phân có 85% nước gọi là nhão; phân có 88% nước gọi là lỏng: phân có 90% nước gọi là lỏng như nước [8],[18]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), tiêu chảy được định nghĩa là "đi ngoài phân lỏng hoặc tóe nước trên 3 lần trong 24 giờ, phân lỏng là phân không thành khuôn" [43]. Số lương phân được bài tiết ra ngoài bình thường mỗi ngày thay đổi tùy theo chế độ ăn, tuổi của từng cá thể. Khi có tiêu chảy, phân chứa nhiều nước hơn bình thường gọi là phân nước hay phân lỏng. Trong những trường hợp lỵ trực khuẩn phân có thể chứa máu [30],[32],[36]. Tuy nhiên rất khó đưa ra một định nghĩa chính xác về bệnh tiêu chảy, bởi vì số lần tiêu chảy, khối lượng phân phụ thuộc nhiều vào chế độ ăn uống và thay đổi tập quán của mỗi vùng khác nhau. Các bà mẹ còn có thể dùng các từ ngữ khác nhau để mô tả tiêu chảy. Điều lưu ý là đối với trẻ bú mẹ thường đi mỗi ngày một vài lần phân nhão thì không thể xem là tiêu chảy, đối với những trẻ này, xác định tiêu chảy thực tế là phải dựa vào tăng số lần hoặc tăng mức độ lỏng của phân mà các bà mẹ cho là không bình thường. Mối nguy hiểm chính của tiêu chảy là tử vong và suy dinh dưỡng [48]. Tử vong do tiêu chảy hầu hết thường gây ra bởi vì mất một lượng lớn muối và nước từ cơ thể [46]. Những biến chứng do tiêu chảy thường gặp là suy dinh dưỡng [8]. Khi trẻ bị tiêu chảy, đôi khi kèm nôn mửa. Trẻ ăn ít đi và khả năng 4 hấp thu các chất dinh dưỡng bị giảm so với nhu cầu dinh dưỡng của trẻ, chính những yếu tố đó góp phần làm cho trẻ bị suy dinh dưỡng và bệnh cảnh lâm sàng càng trở nên phức tạp hơn, tạo thành một vòng xoắn bệnh lý: suy dinh dưỡng - tiêu chảy - suy dinh dưỡng. Chưa kể việc các bà mẹ không nuôi dưỡng con của họ một cách bình thuờng khi chúng bị tiêu chảy, ngay cả những ngày sau khi tình trạng tiêu chảy của chúng được cải thiện. 1.1.2. Phân loại. Tiêu chảy được phân loại tùy thuộc vào thời gian của nó, một đợt tiêu chảy kéo dài ít hơn 2 tuần là tiêu chảy cấp. Theo Chu Văn Tường, tiêu chảy cấp tính ở trẻ em thường xảy ra dưới 05 ngày [42], tiêu chảy kéo dài 2 tuần còn gọi là tiêu chảy kéo dài [23]. Ngày nay, người ta xác định ba hội chứng lâm sàng khác nhau của tiêu chảy gồm: -Tiêu chảy phân lỏng cấp tính: gồm các trường hợp khởi bệnh cấp tính, kéo dài dưới 14 ngày - Hội chứng lỵ: gồm các trường hợp tiêu chảy phân có đàm máu. - Tiêu chảy kéo dài : gồm các trường hợp khởi đầu với tiêu chảy cấp tính rồi kéo dài trên 14 ngày. Nghiên cứu của Đào Mạnh Hùng tại Bệnh viện đa khoa Kon Tum cho thấy tiêu chảy phân lỏng cấp tính chiếm 47,29%; hội chứng lỵ chiếm 51,25%; tiêu chảy kéo dài chiếm 1,48% [23] 1.1.3. Dịch tễ học bệnh tiêu chảy - Các đường lây truyền Hầu hết các nhà nghiên cứu về bệnh sinh - dịch tễ học tiêu chảy cho rằng các tác nhân gây tiêu chảy điều chủ yếu và duy nhất truyền qua đường phân, 5 miệng thông qua thức ăn hoặc nước uống bị ô nhiễm hay lây do tiếp xúc trực tiếp với phân người bị bệnh tiêu chảy, hoặc qua trung gian truyền bệnh như ruồi, dán [5],[20]. Sự lan truyền trực tiếp có thể ngăn chặn được hay không là tùy thuộc vào sự cải thiệnvệ sinh cá nhân và gia đình [3],[4],[13],[20]. - Một số hành vi làm gia tăng sự lan truyền tác nhân gây bệnh tiêu chảy + Không nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 4- 6 tháng đầu tiên sau khi sinh. Theo Tổ chức Y tế Thế giới những trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ có nguy cơ mắc tiêu chảy gấp nhiều lần so với những trẻ được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn, nguy cơ tử vong do tiêu chảy ở những trẻ này cũng lớn hơn một cách đáng kể [43]. Trong y văn đã ghi rõ, vai trò của sữa mẹ rất quan trọng trong việc bảo vệ trẻ đối với bệnh tiêu chảy. Sữa mẹ có chứa globulin miễn dịch chủ yếu là IgA (95%), ngoài ra còn có IgM, IgG có tác dụng bảo vệ cơ thể chống nhiễm khuẩn các bệnh đường ruột và một số bệnh khác do siêu vi trùng gây ra [6]. + Tập quán cai sữa sớm: Cho trẻ bú sữa mẹ kéo dài sẽ làm giảm chỉ số mắc và mức độ trầm trọng của một số bệnh như lỵ và tả. + Cho trẻ bú sữa chai hoặc bình: Khi cho sữa vào một chai hoặc vào bình không sạch thì sẽ bị ô nhiễm, nếu trẻ không bú hết sữa trong bình thì sự ô nhiễm bởi mầm bệnh đường ruột khó rữa sạch và vi khuẩn sẽ phát triển. +Tập quán cho ăn sớm trước dặm 4 tháng tuổi: Cho ăn dặm quá sớm hay quá muộn hoặc ăn dặm không đúng cách, đều có thể dẫn đến tiêu chảy và suy dinh dưỡng. + Dùng nước uống đã bị nhiễm vi khuẩn đường ruột: Nước có thể bị nhiễm bẩn ngay tại nguồn của nó hoặc trong suốt quá trình dự trữ tại nhà. Sự ô nhiễm tại nhà do bảo quản hoặc sử dụng không hợp vệ sinh. Theo TCYTTG tỷ lệ mắc 6 tiêu chảy trên toàn thế giới khoảng 1 tỷ/ năm, trong đó chết 3,3 triệu/năm, có liên quan đến nước không an toàn và vệ sinh [46]. + Không rửa tay sau khi đi ngoài, sau khi xử lý phân, trước khi chuẩn bị thức ăn: Thói quen rửa tay là một hành vi tốt bảo vệ sức khỏe chung, đặc biệt có hiệu lực đối với việc phòng tiêu chảy. + Không xử lý phân một cách hợp vệ sinh: Nhiều bậc cha mẹ cho rằng phân trẻ em là không nguy hiểm, nhưng thực ra chúng chứa rất nhiều virus, vi khuẩn gây bệnh và phân súc vật cũng chứa nhiều vi sinh vật có thể truyền bệnh cho con người. - Tính cảm thụ: Một số yếu tố vật chủ làm tăng tính cảm thụ bệnh tiêu chảy: + Suy dinh dưỡng: Bệnh tiêu chảy và suy dinh dưỡng liên quan chặt chẽ với nhau nhất là đối với những trẻ suy dinh dưỡng nặng, những trẻ đó sự hồi phục niêm mạc ruột bị chậm trễ do thiếu vitamin, giảm sức đề kháng của cơ thể, mức độ trầm trọng kéo dài thì nguy cơ tử vong do tiêu chảy sẽ gia tăng đối với những trẻ bị suy dinh dưỡng. Và ngược lại điều này sẽ làm cho tình trạng suy dinh dưỡng trở nên trầm trọng thêm [46]. + Sởi: Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ở trẻ đang bị sởi hoặc mới khỏi bệnh sởi trong vòng 4 tuần thì mắc bệnh tiêu chảy nhiều hơn do trong thời gian này hệ thống miễn dịch của trẻ bị ảnh hưởng [2],[8],[13]. + Bệnh suy giảm miễn dịch: Trẻ bị bệnh suy giảm miễn dịch kéo dài như Human Immunodeficieney Virus (HIV) làm cho trẻ dễ mắc bệnh tiêu chảy [8]. Tiêu chảy xảy ra khoảng 30% sau khi dung kháng sinh hoặc bất kỳ thay đổi ở ruột trẻ [46] + Tuổi: Hầu hết tiêu chảy xảy ra trong hai năm đầu cuộc đời. Chỉ số mắc bệnh cao nhất là ở nhóm trẻ 6-11 tháng tuổi [35], [36]. Theo TCYTTG lứa tuổi này dễ mắc bệnh tiêu chảy vì thời kỳ này trẻ phải ăn thức ăn bổ sung, trong khi 7 đó các yếu tố bảo vệ chống tiêu chảy trong sữa mẹ lại giảm [43]. - Tính chất mùa: Sự khác biệt theo mùa được quan sát ở nhiều vùng khác nhau + Vùng khí hậu ôn đới, tiêu chảy thường do vi khuẩn bệnh xảy ra vào mùa nóng (mùa hè), + Vùng khí hậu lạnh thì ngược lại tiêu chảy thường do virus, đặc biệt là Rota virus lại xảy ra cao điểm vào mùa đông. + Ở những vùng nhiệt đới, tiêu chảy do Rota virus xảy ra quanh năm nhưng tăng vào các tháng - Các vụ dịch Tiêu chảy là bệnh phổ biến ở trẻ em trên nhiều nước và có thể ảnh hưởng nghiêm trọng lên tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của trẻ. Nó là bệnh có mặt ở khắp nơi trên Thế giới và liên quan đến môi truờng sống. Loài người đã từng gánh chịu những tổn thất to lớn do những vụ dịch và đại dịch tiêu chảy gây ra. Hai tác nhân gây bệnh đường ruột có thể gây thành dịch lớn và tử vong cao là Vibrio cholerae 01 và Shigella dysenteriae Týp1. Những vụ dịch xảy ra gần đây năm 1961 dịch xảy ra do Vibrio cholerae 01 ở Indonesia lan đến Châu Á, Trung Cận Đông và Châu Phi, một số nước châu Âu và Bắc Mỹ . Shigella dysenteriae Týp1 gây dịch lỵ lớn ở Trung Mỹ và gần đây ở Châu Phi và vùng Nam Á Các vụ dịch lan từ Ấn Độ đến các nước Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Đại Dương. Ngoài ra, còn có một số vụ dịch lỵ trực khuẩn ở Trung Mỹ, Trung Phi và Nam Phi. 1.1.4. Nguyên nhân của tiêu chảy - Rotavirus Chương trình CDD của TCYTTG đã nghiên cứu dài hạn (1987 – 1992) về nhiễm Rotavirut của trè em dưới 2 tuổi ở Achentina, Cộng Hòa Trung Phi, 8 Colombia, Hồng Kông, Ấn Độ cho thấy: Rotavirus gây tiêu chảy là nhiễm trùng phổ biến ở trẻ em dưới 1tuổi, chiếm 12-25% các trường hợp [42]. Nó là tác nhân quan trọng nhất gây tiêu chảy nặng và đe doạ tính mạng trẻ em dưới 2 tuổi trên toàn thế giới [45]. Ở các nước phát triển có 35-52% trẻ em bị tiêu chảy cấp do Rotavirus. Ở các nước đang phát triển Rotavirus là nguyên nhân phổ biến gây tiêu chảy cấp và tử vong cho trẻ em dưới 1 tuổi [43]. Khoảng 1/3 số trẻ dưới 2 tuổi bị ít nhất 1 đợt tiêu chảy do Rotavirus, nó có khả năng lây lan trực tiếp từ người . - ETEC (Enterotoxigenic Escherichia coli) ETEC chiếm 10-20% các trường hợp [46],[49] . Nó là tác nhân quan trọng gây tiêu chảy cấp phân toé nuớc cả trẻ em và người lớn tại các nước đang phát triển, ETEC lây lan chủ yếu qua nước và thực phẩm bị ô nhiễm [45] . - Shigella Shigella chiếm 5-15% các trường hợp [35]. Nó là tác nhân quan trọng nhất gây bệnh lỵ, đã đuợc tìm thấy trong khoảng 60% các đợt lỵ [17]. Shigella lây lan chủ yếu trực tiếp từ người. Hoàng Hữu Nam và cộng sự 1995 đã công bố kết quả về tình hình dịch tể học của bệnh lỵ trực trùng tại Thừa Thiên Huế với tỷ lệ mắc 4,5 đến 12,61/10000 dân, nhóm tuổi mắc cao nhất từ 0 đến 4 tuổi với 55,3 % [33]. - Campylobacter jejuni Campylobacter jejuni chiếm 10-15% các trường hợp [35]. Nó lây lan qua tiếp xúc phân, nước uống bẩn, dùng thực phẩm bị ô nhiễm. C.Jejuni có thể gây tiêu chảy tóe nước chiếm 2/3 trường hợp hoặc hội chứng lỵ chiếm 1/3 các trường hợp [32]. - Vibrio cholerae 01 Bệnh tả chiếm 5 - 10% ở những vùng lưu hành dịch [35]. Có hai typ sinh 9 vật và hai typ huyết thanh. V.Cholerae 01 gây tiêu chảy không qua xâm nhập mà qua trung gian độc tố tả, làm xuất tiết ồ ạt nước và điện giải ở ruột non. Tiêu chảy có thể nặng dẫn tới tình trạng mất nước và truỵ mạch trong vòng vài giờ nếu không bồi phụ nước và điện giải kịp thời, theo Lươmg Văn Đàm và Đinh Văn Hai. Trong vùng lưu hành dịch, trẻ em cũng bị tả nhiều như người lớn [10], [12],[19]. - Salmonella Salmonella (non typhoid) chiếm 1-5% các trường hợp [35]. Hầu hết nhiễm Salmonella không gây thương hàn là do lây từ súc vật nhiễm trùng hoặc các thức ăn đông vật đã bị ô nhiễm. Tiêu chảy do Salmonella thường là phân tóe nước, nhưng đôi khi cũng có biểu hiện như hội chứng lỵ [44] - Cryptosporidia (đơn bào) Cryptosporidia chiếm 5-15% các trường hợp [35]. Nó là một ký sinh trùng thuộc họ Coccidian gây bệnh ở trẻ nhỏ, ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch và nhiều loại gia súc [9]. - Không tìm thấy tác nhân gây bệnh Các trường hợp này chiếm 20 -30% [35]. Hiện nay một nguyên nhân tiêu chảy đang được công bố Cyclospra [9], là một loại ký sinh trùng gây tiêu chảy kéo dài, tỷ lệ mắc bệnh là 0,2 % trên tổng số dân nghiên cứu [9],[35]. 1.1.5. Điều trị tiêu chảy trẻ em + Điều trị tiêu chảy tại nhà Ngày nay, bệnh tiêu chảy tự nó không được xem như một bệnh mà là biểu hiện của một tình trạng rối loạn chức năng đường tiêu hoá, thường là do sự rối loạn tiết dịch và các chất điện giải quá mức vào lòng ruột như trong các trường hợp tiêu chảy do độc tố hay tiêu chảy do tăng áp lực thẩm thấu trong lòng ruột, sự tiết dịch vào lòng ruột có tác dụng tẩy sạch, đẩy độc tố, đưa tác nhân gây 10 bệnh ra ngoài. Vì vậy có tác dụng làm giảm bệnh. Các trường hợp tiêu chảy được chăm sóc tại nhà dựa theo 3 nguyên tắc mà Tổ chức Y tế Thế giới đã hướng dẫn như sau: + Cho trẻ uống nhiều dịch hơn bình thƣờng để phòng mất nƣớc. Trẻ bị tiêu chảy cần nhiều dịch hơn bình thường để bù lại lượng dịch bị mất qua phân và nôn. Thường có thể phòng được mất nước nếu cho uống đủ lượng dịch ngay khi trẻ mới bị tiêu chảy. Nhiều loại dịch tại nhà có thể cho trẻ uống nhằm xử trí sớm để phòng bệnh mất nước. Tại nhiều nước người ta khuyến cáo các loại dịch uống tại nhà khác nhau như: cháo nấu từ gạo hay các loại ngũ cốc, súp, hoặc cho uống nứơc trắng kèm bữa ăn, một số nước dùng dung dịch Oresol (ORS) như là một loại dung dịch pha chế tại nhà. Sữa mẹ được xem như là thức ăn để nuôi dưỡng trẻ nhưng nó cũng được coi như là dịch uống tại nhà rất quan trọng, cần cho trẻ bú càng nhiều càng tốt. Những trẻ đã được bù dịch ở cơ sở y tế thì ở nhà cần được tiếp tục uống ORS cho tới khi hết tiêu chảy. Trong mọi điều kiện, các loại dịch tại nhà cần đáp ứng được những yêu cầu chính sau: * Đảm bảo an toàn cho trẻ khi uống với khối lượng lớn. Không cho trẻ uống các loại nước ngọt, trà đường. * Dễ chấp nhận: dịch phải là loại mà các bà mẹ tin tưởng và chấp nhận cho trẻ uống với số lượng lớn và trẻ cũng phải quen. * Dễ pha chế: các chất pha chế phải quen thuộc với người dân, không đòi hỏi nhiều thao tác hay thời gian. * Có hiệu quả: dịch uống phải vừa an toàn,vừa hiệu quả và không đắt tiền. - Cho trẻ ăn nhiều thức ăn giàu dinh dƣỡng để phòng suy dinh dƣỡng. Khi trẻ tiêu chảy, cần tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ. Trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên 11 bị tiêu chảy cần cho ăn thức ăn mềm hoặc nửa đặc nửa lỏng. Các loại thức ăn này phải cung cấp ít nhất bằng nửa năng lượng của khẩu phần ăn. Cho ăn ít nhưng nhiều lần trong ngày thì tốt hơn cho ăn nhiều nhưng ít lần. Sau khi hết tiêu chảy, tiếp tục cho trẻ ăn thêm ít nhất một bữa mỗi ngày trong hai tuần, cho ăn những thức ăn giàu chất dinh dưỡng như đã cho ăn trong khi tiêu chảy. Trẻ suy dinh dưỡng, cần phải cho ăn chế độ ăn này trong thời gian dài hơn. - Các bà mẹ cần biết khi nào đƣa trẻ đến cơ sở y tế. Để thực hiện được điều này cần hướng dẫn người mẹ theo dõi biết tiêu chảy, mất nước đang nặng thêm hoặc những vấn đề nghiêm trọng khác. Các dấu hiệu cho biết tiêu chảy đang nặng hay mất nước đang tiến triển mà bà mẹ có thể nhận ra là: + Khi trẻ đi ngoài phân tóe nước. + Nôn liên tục. + Khát nước gia tăng, uống nước háo hức . + Trẻ ăn uống kém hơn bình thường. + Trẻ sốt cao. + Có máu trong phân. Như vậy cần phải đem trẻ đến cơ sở y tế để được điều trị. - Điều trị tiêu chảy trẻ em tại cơ sở y tế Bù dịch trong tiêu chảy Mục đích của bù dịch khi trong tiêu chảy là nhanh chóng bù lại sự thiếu hụt nước và điện giải đã mất cũng như sẽ mất thêm cho đến khi tiêu chảy ngừng hẳn [8],[18]. Biện pháp bù dịch được tiến hành kết hợp với việc sử dụng cả thuốc điều trị tiêu chảy trẻ một cách hợp lý [47]. + Bù dịch bằng đƣờng uống: Bù dịch bằng đường uống dựa trên nguyên 12 tắc hấp thu Natri cùng với nước và các chất điện giải khác của ruột tăng lên do sự hấp thu chủ động của một số chất như glucose [8],[18]. Để cho việc bù dịch bằng đường uống thành công thì nên cho uống thường xuyên nhưng với lượng nhỏ [14]. + Các loại dịch thường sử dụng: * Dung dịch ORS: là một hỗn hợp muối bù dịch bằng đường uống khi hoà tan trong nước. ORS được dùng để điều trị hàng triệu bệnh nhân tiêu chảy ở mọi lứa tuổi, do các nguyên nhân khác nhau và đã được chứng minh tính an toàn và hiệu quả của nó. Một số nước có chủ trương dùng ORS cho mọi trường hợp tới cơ sở y tế dù bệnh nhi có bị mất nước hay không. Dung dịch ORS là loại dịch bù bằng đường uống tốt nhất hiện nay. * Một số loại dung dịch tự pha khác: các dung dịch tự pha khác mặc dù không đảm bảo thích hợp như dung dịch ORS nhưng vẫn có tác dụng phòng mất nước bằng đường uống. Các dung dịch như la: súp, nước cháo, sữa chua hoặc nước trắng cũng sẽ có hiệu quả khi pha thêm một ít muối . + Bù dịch bằng đƣờng tĩnh mạch: trong những trường hợp mất nước nặng phải bù dịch bằng đường tĩnh mạch nhằm bồi phụ lại khối lượng tuần hoàn nhanh chóng và điều trị shock. Việc bù dịch bằng đường tĩnh mạch chỉ được thực hiện ở các cơ sở y tế [18], [48]. Dung dịch được xử dụng trong điều trị tiêu chảy là Ringer Lactat, Natriclorua 9%o, Dextrose 5%. Việc sử dụng thuốc trong điều trị. Nguyễn Anh Dũng, Đặng Đức Trạch nghiên cứu tình hình bệnh tiêu chảy tại khoa nhi các bệnh viện cho rằng: Đối với tiêu chảy do vi khuẩn hoạc ký sinh trùng việc sử dụng kháng sinh là rất hạn chế và phải cân nhắc cẩn thận [15]. Trong chương trình quốc gia phòng chống tiêu chảy của Tổ chức Y tế Thế 13 giới cho rằng: Không cần dùng thuốc cầm tiêu chảy và thuốc chống nôn cho trẻ em, vì nó không có tác dụng mà còn gây nguy hiểm [43],[47]. 1.2. PHÒNG BỆNH TIÊU CHẢY - Phòng ngừa lây lan mầm bệnh: Tác nhân gây bệnh tiêu chảy gồm nhiều loại khác nhau nhưng chúng đều lây theo đường phân – miệng qua thức ăn và nước uống bị ô nhiễm, một số biện pháp đang được khuyến cáo là: + Nuôi con bằng sữa mẹ, kéo dài thời gian cho bú ít nhất 18 đến 24 đến tháng. + Cho trẻ ăn bổ sung từ tháng 4 đến 6 tháng. + Chủng ngừa 6 bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là bệnh sởi. + Sử dụng nguồn nước sạch cho vệ sinh ăn uống. + Rửa tay trước khi chế biến thức ăn cho trẻ, tay sau khi đi tiêu và làm vệ sinh. + Xử lý phân an toàn, kể cả phân trẻ + Sử dụng hố xí hợp vệ sinh. 1.3. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA Xà BA TRINH Xã Ba Trinh thuộc vùng sâu của huyện Kế Sách, Sóc Trăng, xã có 7 ấp Dân số tự nhiên 13.365 khẩu . Phụ nữ có con dưới 5 tuổi 829 người Đại đa số nhân dân sống bằng nghề nông nghiệp, xã có hệ thống kênh rạch chằng chịt, giao thông chủ yếu bằng đường thủy. Hệ thống Y tế xã thuộc Uỷ ban nhân dân (UBND) xã Ba Trinh và chịu sự chỉ đạo chuyên môn của Phòng Y tế huyện Kế Sách. Trạm y tế gồm có 8 cán bộ biên chế, trong đó có đủ cơ cấu: Bác sĩ, y sĩ, điều dưỡng trung học, y sĩ y học cổ truyền, y sĩ cộng đồng, y sĩ sản nhi, nữ hộ 14 sinh và dược tá. Hệ thống mạng lưới xã gồm: 7 ấp có 12 tổ Y tế, 21 cộng tác viên y tế cộng đồng, trung bình mỗi tổ y tế hoặc cộng tác viên quản lý khoảng 100 hộ, mạng lưới này hoạt động rộng khắp trên địa bàn, nhằm tuyên truyền giáo dục sức khỏe cho nhân dân, thực hiện tốt các nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu. Xã đã được công nhận đạt Chuẩn Quốc gia về Y tế xã từ năm 2005 15 Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU Các bà mẹ có con dưới 5 tuổi đang sinh sống tại xã Ba Trinh, huyện Kế Sách- Sóc Trăng. 2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp điều tra ngang, mô tả trên mẫu ngẫu nhiên. 2.2.1. Cỡ mẫu Với một nghiên cứu mô tả cắt ngang, để xác định cỡ mẫu ta sử dụng công thức tính như sau: n= Z ² p(1  p) c² [22]. Với n: Số cặp bà mẹ và con dưới 5 tuổi Trong đó: p: là tỷ lệ dự đoán bà mẹ có hiểu biết đúng chưa xác định được.Vì vậy cho 50% (p=0,5) Z = 1.96 (với độ tin cậy 95%) c: sai số giữa quần thể tham gia nghiên cứu 5% (chọn sai số = 0,05) Áp dụng công thức ta có: (1,96)2 x 0,5 (1- 0,5) n= (0,05)2 = 384 Từ công thức trên ta tính ra được n = 384 Vậy cỡ mẫu chúng tôi khảo sát là 407 bà mẹ có con dưới 5 tuổi 16 2.2.2. Chọn mẫu Xã Ba Trinh có tất cả 7 ấp, mỗi ấp chúng tôi tuần tự các bước tiến hành như sau: - Lập danh sách liệt kê toàn bộ các bà mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi đưa vào mẫu nghiên cứu là 829 . - Đánh số thứ tự theo danh sách các bà mẹ có con dưới 5 tuổi theo số thứ tự từ 1 đến 829 tính ra khoảng cách mẫu là 2. - Chọn ấp trung tâm xã có số thứ tự đầu tiên bằng phương pháp bốc thăm ngẫu nhiên chẵn lẻ, và tiến hành phỏng vấn cho đến khi đủ 400 bà mẹ thì kết thúc phỏng vấn. 2.2.3. Phƣơng pháp thu thập thông tin Sử dụng bộ câu hỏi đã chuẩn bị trước để điều tra, phỏng vấn các bà mẹ về các thông tin, kiến thức có liên quan đến tiêu chảy, đồng thời quan sát các hành vi thực hành các kiến thức đó. Bảng điều tra cá nhân được thiết lập sẵn, gồm 3 phần: thông tin chung, kiến thức liên quan đến tiêu chảy và việc thực hành các kiến thức. Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp đối tượng và quan sát tại nhà, các thông tin thu được chúng tôi đánh dấu vào phiếu điều tra, hỏi đến đâu phải ghi vào phiếu điều tra đến đó để tránh nhầm lẫn hoặc bỏ sót. Điều tra viên được chọn là 2 y sĩ và 2 điều dưỡng trung học. Trước khi điều tra, tiến hành tập huấn hướng dẫn các kỹ thuật phỏng vấn, kỹ thuật quan sát cho các điều tra viên. Mỗi điều tra viên đảm trách khoảng 100 bà mẹ được chọn. Điều tra viên tiến hành điều tra theo danh sách các bà mẹ đã được chọn đưa vào mẫu nghiên cứu từ ngày 15/06/2009 đến ngày 30/06/2009. 2.2.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu Xử lý số liệu thu thập được bằng phần mềm SPSS.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất