Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu ảnh hưởng của một sè nhân tố sinh thái tới năng suất và chất lượng củ...

Tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của một sè nhân tố sinh thái tới năng suất và chất lượng của cây vải thiều

.PDF
84
580
110

Mô tả:

Nghiên cứu ảnh hưởng của một sè nhân tố sinh thái tới năng suất và chất lượng của cây vải thiều
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Lục Ngạn trước đây là vùng trung du, miền núi nghèo của Bắc Giang, người dân chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa, đến năm 1990 cây vải bắt đầu được du nhập về đây. Do điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp mà cây vải giúp nông dân ở vùng đồi đất trung du xoá đói, giảm nghèo, nhiều gia đình còn làm giàu từ cây vải nhờ làm kinh tế trang trại. Trước năm 1990, người dân ở Lục Ngạn trồng cây công nghiệp ngắn ngày chỉ thu nhập từ 3 - 4 triệu đồng/ha/năm. Nay nhờ trồng vải thiều thu nhập có thể đạt 20 30 triệu đồng/ha/năm. Từ việc phát triển kinh tế đồi vườn mà toàn huyện đã có hàng trăm hộ có thu nhập từ 20 - 90 triệu đồng/ năm và hàng trăm hộ có thu nhập từ 100 triệu đồng trở lên. Với 19.212 ha cây ăn quả, bình quân mỗi ha cây ăn quả đã tạo được việc làm ổn định cho Ýt nhất là 2 lao động chính mỗi năm, hàng năm huyện đã tạo được việc làm ổn định cho 38.424 lao động tại chỗ [34]. Không những thế, hàng năm Lục Ngạn còn thu hút và giải quyết cho hàng ngàn lao động, hàng vạn nhân công từ các tỉnh đồng bằng lên làm thuê cho các gia đình có trang trại. Với 19.212 hecta cây ăn quả, bình quân mỗi héc ta cây ăn quả đẫ tạo được việc làm ổn định cho 38.424 lao động tại chỗ [34]. Vải thiều là loài cây ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao (trong 100g nước Ðp cùi vải có chứa 11 - 14g đường; 0,4 - 0,9g axit hữu cơ, 34mg lân, 36mg vitamin C, ngoài ra còn có canxi, sắt, vitamin B1, B2,PP) [14]. Quả vải ngoài việc dùng để ăn tươi còn được chế biến thành đồ hộp và nhiều sản phẩm có giá trị khác như vải khô, nước vải... Hoa vải là nguồn cung cấp mật và phấn hoa cho ong với chất lượng cao. Gỗ vải chắc có vân mịn, chịu nước chống mục, là loại gỗ tốt để sản xuất đồ dùng trong nhà [13]. Theo Đường Hồng Dật thì vỏ quả, thân cây và rễ cây vải có nhiều tanin, vì vậy có thể dùng làm nguyên liệu chế biến các loại thuốc và dùng cho một số ngành 1 công nghiệp. Cùi vải, hạt vải, hoa vải, vỏ thân và rễ cây vải được dùng làm thuốc bồi dưỡng và chữa bệnh cho người trong đông y [7]. Vải là cây thường xanh quanh năm có tán tròn gọn ghẽ, có bộ rễ phát triển rộng, nên trồng vải có tác dụng phủ xanh đất trống đồi trọc, chống xói mòn, làm cây chắn gió, góp phần điều hoà không khí, mang lại nhiều ý nghĩa môi trường. Cây vải còn có ưu điểm là dễ trồng, dễ chăm sóc, không kén đất, có thể trồng trên đất chua, đất đồi dốc, có khả năng chịu úng chịu hạn tốt, khá thích nghi với điều kiện khí hậu có mùa đông lạnh ở miền Bắc nước ta [5]. Chính vì vậy mà giống vải ở nước ta rất phong phú. Nếu chia theo thời vụ thì có 3 nhóm: nhóm chín sớm, nhóm chính vụ và nhóm chín muộn. Còn nếu căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng và phẩm chất quả thì có 3 giống: vải chua, vải nhỡ, vải thiều. Cây vải chua mọc khoẻ, quả to, hạt to, quả có vị chua, là loại chín sớm (cuối tháng 4, đầu tháng 5). Cây vải nhỡ quả thường chín vào giữa tháng 5, đầu tháng 6, khi chín vỏ quả vẫn còn xanh, đỉnh quả màu tím đỏ, vị ngọt, Ýt chua (chính vụ). Cây vải thiều có tán cây hình tròn bán cầu, lá nhỏ, phiến lá dày, bóng. Quả vải có vị thơm ngon, hạt nhỏ, cùi dầy, không có vị chua, chát mà vỏ thì nhẵn và mỏng. Chính bởi vậy mà giống vải thiều được coi là "cây ăn quả đặc sản" và bán rất chạy trên thị trường. Hương vị thơm ngon tinh khiết của vải thiều đã thu hút được rất nhiều khách hàng trong và ngoài nước. Vải thiều thường chín vào đầu tháng 6 đến đầu tháng 7 (nhóm chín muộn). Mặc dù cùng là giống vải thiều nhưng trồng ở các tỉnh khác nhau sẽ cho năng suất và phẩm chất khác nhau. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng của một sè nhân tố sinh thái tới năng suất và chất lượng của cây vải thiều (litchichinensis Sonn)". 2. Mục đích nghiên cứu. 2 - Nghiên cứu sự ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái tới năng suất và chất lượng của giống vải thiều. Trên cơ sở đó xác định nhân tố sinh thái chính ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng của sản phẩm. - Giúp người nông dân hiểu được sự ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái tới năng suất và chất lượng quả từ đó có biện pháp chăm sóc cây phù hợp để nâng cao năng suất và chất lượng của cây vải thiều. 3. Nội dung nghiên cứu. - Ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái tới hình thái cây vải. - Sự ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái tới năng suất, chất lượng quả. - Thu thập số liệu về năng suất quả trong nhiều năm của khu vực nghiên cứu và kết hợp với kết quả nghiên cứu, trên cơ sở đó so sánh năng suất và chất lượng giống vải thiều Thanh Hà trồng ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Nguồn gốc cây vải thiều. Cây vải có nguồn gốc ở miền Nam Trung Quốc, theo các nghiên cứu, thì cây vải thiều được trồng ở Trung Quốc cách đây hơn 2100 năm. Năm 1059 sau công nguyên, Cai Xiang là người đầu tiên mô tả về sự xuất hiện của cây vải thiều [43]. Cây vải thuộc họ Bồ Hòn (Sapindaceae), đây là một họ lớn, có khoảng 1000 loài, phân bố rộng rãi ở các vùng cận nhiệt đới. Trung tâm chính về nguồn gốc cây vải thiều được xác định từ 23 - 27 độ vĩ Bắc thuộc các vùng cận nhiệt đới ở miền Nam Trung Quốc, miền Bắc Việt Nam và Malaysia. Cây vải được người Malaysia quan tâm lựa chọn và trồng vào khoảng 1500 năm Trước công nguyên. Trung Quốc là nước có lịch sử trồng vải thiều lâu đời nhất. Sau đó, đến cuối thế kỷ thứ XVII, vải thiều được chuyển từ Trung Quốc đến Burma (Myanmar) rồi tiếp đó được đưa đến trồng ở Ên Độ và Thái Lan (cách đây khoảng 100 năm). Năm 1870, vải thiều được các nhà thương gia Trung Quốc đưa đến trồng ở Madagascar và Mauritau, đến 1873 được trồng ở Hawai. Sau đó đến giữa những năm 1870 và 1880 vải thiều được đưa từ Ên Độ đến trồng ở Florida, California năm 1897. Cây vải thiều cũng được những người Trung Quốc nhập cư mang đến trồng ở nước Óc (Australia) năm 1954 ở Isarel những năm 1930 - 1940. Hiện nay, trên thế giới có hơn 20 quốc gia trồng vải, trong đó có Việt Nam [42]. 1.2. Tình hình trồng vải thiều ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Ở miền Nam Trung Quốc, vải là cây trồng chính từ năm 1980. Nghề trồng vải đã tạo ra một cơ hội lớn về việc làm cho người dân địa phương (khoảng 320.000 người có liên quan đến nghề này). Năm 1999, sản lượng vải thiều của Trung Quốc đạt khoảng 950.000 tấn/ 30.000 ha [43]. 4 Ở Ên Độ, vải là cây trồng chính ở các bang: Bihar, West Bangal và Uttar Pradesh. Nó cũng được trồng với quy mô hẹp hơn ở các bang như: Tripara, Oissa, Punjab, Himachal Pradesh, Assam và Nilgiri ở miền Nam. Hàng năm, Ên Độ cho sản lượng vải khoảng 429.000 tấn / 56.200 ha [42]. Thái Lan, đất nước thuộc vùng cận nhiệt đới, là nơi có khí hậu khá lý tưởng cho cây vải sinh trưởng, phát triển. Vải Thái Lan chủ yếu được trồng ở Chiang Mai, Chiang Rai, Samut Songkhran. Mỗi năm Thái Lan đạt sản lượng khoảng 85.000 tấn/22.200 ha [42]. Ở Băngladesh, cây vải được trồng ở các huyện: Dinajpur, Rangpur và Ragshahi. Năm 1998 với tổng diện tích trồng 4.750 ha, cây vải đã đem về cho đất nước tổng sản lượng quả là 12.755 tấn. Cây vải được đưa đến trồng ở Australia cách đây khoảng 60 năm. Nhưng đến năm 1975 thì cây vải thực được quan tâm và trồng chủ yếu để phục vụ thương mại. Hiện tại, có khoảng 350 hé trồng, với sản lượng hàng năm đạt khoảng 3.000 tấn. [42]. 1.3. Tình hình trồng vải ở Việt Nam. Theo các tài liệu và thư tịch cũ, ở Việt Nam cây vải được trồng cách đây khoảng 2000 năm [44]. Năm 1942, các nhà khoa học người Pháp đã tìm thấy giống vải hoang dại mọc dưới chân núi Ba Vì. Năm 1970, giáo sư Vũ Công và cộng sự của ông đã phát hiện nhiều cây vải mọc hoang dại ở Tam Đảo (tỉnh Vĩnh Phúc) và trong rõng Tuyên Hoá (tỉnh Quảng Bình) [45]. Khi điều tra cây ăn quả trong rừng một số tỉnh miền Bắc, miền Trung ông cũng gặp cây vải rừng. Khí hậu miền Bắc Việt Nam, với mùa đông ngắn, khô và hơi lạnh và mùa hè kéo dài, nóng với lượng mưa lớn và độ Èm cao, rất thÝch hợp cho sự phát triển của cây vải. Vì vậy, rất có thể miền Bắc nước ta cũng là quê hương của một số giống vải. Theo một số tài liệu ghi chép lại, giống vải thiều ở Việt Nam có nguồn gốc ở thôn Thuý Lâm, xã Thanh Sơn, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải 5 Dương. Cây vải này đã gần 200 tuổi, hiện đang sống khoẻ mạnh bình thường. Ngày 10 tháng 10 năm 1992 cây vải đó đã được Trung tâm hội làm vườn việt Nam công nhận là cây vải tổ. Trên bia đá dưới gốc cây vải tổ cũng khắc ghi tên cụ Hoàng Văn Cơm - người đã có công trồng cây giống đầu tiên trên mảnh đất Thanh Hà. Hiện nay cây vải tổ vẫn được ông Hoàng Văn Thu và con cháu chăm sóc. Mỗi một vụ cây vải tổ cho năng suất khoảng 200kg. Kích thước quả không to nhưng hạt thì nhỏ và chất lượng quả rất ngon. Hàng năm vào khoảng tháng 5, tháng 6 có rất nhiều đoàn khách về thăm quan và thưởng thức trái vải ở đây. Sau đó cây vải tổ được nhân giống rộng ra toàn huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương và các tỉnh ngoài như Bắc Giang, Quảng Ninh, Hà Tây, Lạng Sơn....Trong những năm gần đây, phong trào làm vườn và làm kinh tế trang trại phát triển mạnh. Bằng chứng là huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương từ những năm 1990 rất nhiều hộ gia đình lập vườn vải trên diện tích đất nông nghiệp. Hiện nay, trên toàn huyện gần như 100% diện tích đất canh tác là trồng vải. Còn ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang các gia đình rất chú trọng đầu tư trồng cây vải, vì cây vải là cây kinh tế chính. Theo số liệu phòng thống kê của huyện, năm 2005 tổng diện tích trồng vải là 19.192 ha, trong đó diện tích trồng mới là 5250 ha. Và còn nhiều tỉnh như: Thái Nguyên, Hoà Bình, Hà Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc,...cũng coi cây vải thiều như một cây chủ lực trong cơ cấu trồng cây ăn quả. Tổng diện tích trồng vải trong nước cho đến năm 2002 đạt 58.740 ha, sản lượng đạt 95.475 tấn [28]. Hiện nay, vải thiều được trồng nhằm mục đích kinh doanh ở các huyện Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế của tỉnh Bắc Giang; huyện Thanh Hà, Chí Linh, Tứ Kỳ của tỉnh Hải Dương, huyện Quốc Oai, Chương Mỹ, Ứng Hoà tỉnh Hà Nội.... Như vậy, ở miền Bắc Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển cây vải thiều. Trên thực tế, cây vải thiều đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện nền kinh tế quốc dân và đời sống người nông dân [14]. 6 1.4. Các giống vải được trồng ở Thanh Hà và Lục Ngạn. Theo thống kê của Viện nghiên cứu Rau Quả Việt nam, tại Thanh Hà có 11 giống vải khác nhau như u trứng, u hồng, tàu lai, vải nhỡ, vải chua, vải thiều,.. trong đó, giống vải thiều được trồng ở Thanh Hà chiếm 90% tổng diện tích toàn huyện [44]. Còn ở Lục Ngạn hiện nay có khoảng hơn 10 giống vải đang được trồng, chủ yếu là 4 giống vải (vải chua, vải U hồng, vải nhỡ, vải thiều) được đưa từ Thanh Hà lên. [6]. *Giống vải chua là giống chín sớm (từ ngày 5/5 - 25/5). Quả hình trái tim, khi chín quả màu đỏ tươi, vỏ máng và phần cuống quả màu xanh, kích thước quả to trung bình 30 - 35 quả/kg. Quả còn xanh có vị chua, nhưng khi chín thì ngọt hơi chua. Hạt quả to, tỷ lệ cùi từ 50 - 55%. Lá xanh đậm, cây sinh trưởng khoẻ, chống chịu sâu bệnh tốt. Thân cây vặn rãnh múi khế, cây phân cành thưa. Lá non và chùm hoa từ cuống đến nụ hoa và quả có phủ một lớp lông màu nâu sẫm. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành, thưa, dài và khoẻ. * Giống vải U hồng cũng là giống chín sớm, cùng thời gian với giống vải chua. Quả hình trái tim, cuống quả sâu, vai quả nhô cao nên khi bổ theo chiều dọc quả thì mép trên có hình chữ U (nên có tên gọi là giống u hồng). Cây sinh trưởng mạnh, cành thưa, lá to, dài và có màu xanh sáng. Cuống hoa dài và từ cuống hoa đến nụ hoa có phủ một lớp lông màu nâu. Số lượng quả trên một chùm Ýt, kích thước quả trung bình từ 30 - 35 quả/kg. Khi chín, vỏ quả mỏng, vai quả màu hồng đỏ, phần cuống quả màu xanh sáng. Tỷ lệ cùi ăn được chiếm từ 55 - 60%, hạt quả nhỏ. Năng suất trung bình bằng 2/3 năng suất của giống vải chính vụ có cùng độ tuổi [14]. * Giống vải nhì được trồng nhiều và cung cấp cho người tiêu dùng từ giữa tháng 5 đến đầu tháng 6. Vải nhỡ là giống vải lai của vải chua và vải thiều, nên năng suất giống vải chua còn chất lượng thì gần bằng vải thiều. Lá vải màu xanh đậm, thuôn dài, nhỏ hơi vặn. Từ cuống hoa đến nụ hoa có phủ lớp 7 lông màu xanh sáng. Hoa cái màu trắng, quả to tròn, khối lượng quả trung bình 35 - 40 quả/kg, tỷ lệ cùi ăn được chiếm 60 - 65%. Khi chín vỏ quả có màu đỏ tươi đều, vỏ quả dày, gai quả to và lì, sau khi ăn có vị hơi chát. Hơn nữa vải nhỡ chín sớm hơn vải thiều nên có giá trị kinh tế khá cao. * Giống vải thiều Thanh Hà là giống vải chính vụ, chín vào giữa tháng 6, là giống chiếm khoảng hơn 90% diện tích trồng vải. Cây sinh trưởng bình thường, nhiều cành, lá nhỏ trung bình, màu xanh sáng. Chùm hoa có màu xanh nhạt, hoa màu vàng trắng, số lượng hoa nhiều. Quả chín có màu đỏ tươi, vỏ quả mỏng, hạt nhỏ. Cùi quả dày, tỷ lệ cùi vào khoảng 68 - 70%. Khối lượng quả đạt từ 40 - 45 quả/kg. quả có vị ngọt đậm và thơm, là giống cho năng suất cao nhất trong các giống trồng ở Lục Ngạn và Thanh Hà. Nhìn chung các giống vải trồng ở 2 vùng do lai tạo giữa các giống vải với nhau, tên gọi do người dân địa phương đặt chủ yếu dựa vào cảm quan và đặc điểm hình thái. 1.5. Điều kiện, tự nhiên, xã hội khu vực nghiên cứu. 1.5.1. Lục Ngạn - Bắc Giang. Bắc Giang nằm ở gần vùng biên giới Đông Bắc của miền Bắc Việt Nam. Tỉnh Bắc Giang giới hạn trong những vĩ độ 210 27' vĩ độ Bắc tại xã Canh Nậu (huyện Yên Thế), ở 210 7' vĩ độ Bắc tại xã Đồng Phúc (huyện Yên Dũng), điểm cực Tây tại xã Đại Thành (huyện Hiệp Hoà), ở 1050 kinh tây, điểm cực Đông tại xã An Lạc (huyện Sơn Động). Lãnh thổ tỉnh Bắc Giang chạy dài theo hướng Tây Đông. Địa hình dốc, nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Vùng núi ở phía Bắc và phía Đông chiếm khoảng 3/4 diện tích, gồm các huyện Yên Thế, Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam. Vùng đồi thấp có thành phố Bắc Giang và một phần các huyện Hiệp Hoà, Việt Yên, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang. Còn lại là vùng đÊt phù sa cổ ven sông Cầu, sông Thương. Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía Bắc với châu thổ sông Hồng ở phía Nam. Tuy phần lớn diện tích tự 8 nhiên của tỉnh là đồi núi, nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều. Bắc Giang có diện tích tự nhiên là 3.823km2, gồm 10 đơn vị hành chính cấp huyện: 1 thành phố, 9 huyện và 229 xã, phường, thị trấn. [38]. Lục Ngạn là huyện miền núi tỉnh Bắc Giang, nằm trên trục quốc lộ 31, cách thị xã Bắc Giang 40km về phía Đông Bắc. Phía Bắc giáp huyện Chi Lăng và Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn, phía Đông giáp huyện Sơn Động (Bắc Giang) và huyện Lộc Bình (Lạng Sơn). Phía Nam và phía Tây giáp huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang [39]. Diện tích huyện Lục Ngạn là 101.223 ha với 30 đơn vị hành chính, được chia làm 2 vùng rõ rệt. Vùng cao gồm 12 xã đặc biệt khó khăn, vùng thấp có 17 xã và 1 thị trấn. Trên địa bàn huyện có các tuyến quốc lộ 31, 279 và tỉnh lộ 285, 290 đi qua.[34] Nhìn chung, Lục Ngạn tuy là huyện miền núi nhưng có vị trí địa lý tương đối thuận lợi để giao lưu với các trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của vùng, qua đó có thể tiếp cận nhanh chóng với thị trường khu vực phía Bắc, Đông Bắc Bộ và các địa phương khác trong cả nước. 1.5.2. Thanh Hà - Hải Dương. Tỉnh Hải Dương có tọa độ địa lý 200 36' - 21015' vĩ độ Bắc và từ 1060 06' - 1060 36' kinh độ Đông, tiếp giáp với 6 tỉnh: phía Bắc giáp với tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, phía Đông Bắc giáp Quảng Ninh, phía Nam giáp Thái Bình, phía Đông giáp thành phố Hải Phòng, Phía Tây giáp Hưng Yên [ 40]. Hiện nay, toàn tỉnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm thành phố Hải Dương và 11 huyện), với tổng diện tích tự nhiên khoảng 165.185 ha [35]. Hải Dương cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía đông, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía Tây. Trong địa bàn tỉnh có một số tuyến giao thông huyết mạch chạy qua như: quốc lộ số 5 (nối Hà Nội - Hải Phòng), quốc lộ 18 (nối Hà Nội - Bắc Ninh - Quảng Ninh và vịnh Hạ Long), tuyến đường 183 (nối quốc lộ 5 và quốc lộ 18). 9 Địa hình của tỉnh Hải Dương khá bằng phẳng, nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình của tỉnh chia làm 2 vùng chủ yếu: vùng đồi núi, nằm phía Bắc tỉnh, chiếm khoảng 10% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn, độ cao địa hình dưới 1000m. Đây là địa hình nằm trên đất đá trầm tích trung sinh với hướng núi chính chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam; vùng đồng bằng chiếm khoảng 90% diện tích tự nhiên, gồm 9 huyện và thành phố Hải Dương, nằm ở hạ lưu sông Thái Bình, độ cao trung bình 3 - 4m, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp [ 36]. Thanh Hà có tổng diện tích đất tự nhiên là 15.892 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm71%. Trong đất nông nghiệp có 57% diện tích đất trồng cây ăn quả. Huyện chia làm 4 khu: khu Hà Nam (gồm 5 xã và 1 thị trấn), khu Hà Đông (gồm7 xã), khu Hà Tây (gồm 6 xã), khu Hà Bắc (gồm 6 xã) [ 42]. Về địa hình, huyện Thanh Hà nằm phía Đông Nam tỉnh Hải Dương, phía Bắc giáp huyện Nam Sách, phía Đông giáp huyện Kim Thành, phiá Nam giáp thành phố Hải Dương (Thanh Hà cách thành phố Hải Dương 15km). Thanh Hà có địa hình tương đối bằng phẳng (cao hơn mực nước biển trung bình 0,60m) [41]. 10 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 2.1. Đối tượng nghiên cứu. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu cây vải (Litchi chinensis Sonn), có cùng độ tuổi (vườn 15 tuổi) và cùng một giống vải thiều ThanhHà. Cây vải thuộc: + Giới: Thực vật (Plantae). + Ngành: Hạt kín lá mầm (Magnoliophyta). + Líp: Hai (Magnoliopsida) + Bộ: Bồ hòn (Sapindales). + Họ: Bồ hòn (Sapindaceae) 2.2. Thời gian nghiên cứu. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu từ tháng 12/2008 - tháng 11/2009 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp lấy mẫu: Hình 1: Cây vải tổ ở Thanh Hà * Phương pháp lấy mẫu đất (Theo phương pháp hỗn hợp). Các mẫu nông hoá được lấy theo 2 tầng: tầng mặt từ 0 - 20cm, tầng thứ hai từ 20 - 60 cm. Chúng tôi tiến hành lấy mẫu tại 5 điểm phân bố đều trên toàn diện tích vườn, theo quy tắc đường chéo (Hình 1). Các mẫu đất ở dưới cây vải có lấy mẫu quả được lấy theo 2 tầng như trên tại 5 điểm phân bố đều dưới mép tán cây (Hình 2). Sau đó các mẫu được đem trộn đều, rồi đưa vào túi bóng đen bịt kín và đem đến ngay phòng thí nghiệm của viện Thổ nhưỡng - Nông hoá để phân tích [33]. 11 Hình 1 Hình 2 * Phương pháp lấy mẫu quả. Trên vườn vải chúng tôi tiến hành đánh số thứ tự cho cây bằng cách: dùng bút dạ đen viết số trên bìa cứng màu trắng có kích thước dài 20 cm, rộng 15 cm, sau đó Ðp Plastic, rồi đục lỗ và dùng dây thép nhá treo số lên các cây nghiên cứu. Chúng tôi tiến hành thu mẫu theo phương pháp thu mẫu hỗn hợp [1]. Chọn 50 cây vải thiều ở những điểm khác nhau trong vườn, các điểm phân bố tương đối đồng đều. Các cây được chọn thí nghiệm là những cây phát triển bình thường, không sâu bệnh; cùng độ tuổi (15 tuổi), cùng được chiết từ một số cây mẹ thuộc gióng vải thiều Thanh Hà và điều kiện chăm sóc khá đồng đều. - Đối với mẫu phân tích chất lượng quả chúng tôi lấy mỗi cây 1kg quả ở 3 tầng tán khác nhau. Mẫu được lấy vào buổi sáng, sau đó được bảo quản lạnh bằng thùng xốp chuyên dụng và chuyển ngay tới phòng thí nghiệm để phân tích. - Đối với các chỉ tiêu hình thái (đường kính, chiều cao,...) thì được phân tích ngay tại vườn. 2.3.2. Phương pháp phân tích hình thái: 12 - Về hình thái cây, chúng tôi tiến hành quan sát hình thái rễ, thân, lá, thông thường. Kết quả ghi chép lại và chụp ảnh. - Về hình thái quả, chúng tôi tiến hành quan sát, ghi hình về màu sắc quả cũng như hình dạng của quả. - Phân tích các chỉ tiêu hình thái quả bao gồm: cân trọng lượng quả, đo đường kính quả và chiều cao quả bằng thước kẹp palme, đo độ dày của cùi quả, cân trọng lượng phần ăn được (cùi) và cân trọng lượng hạt. * Mỗi chỉ tiêu được tiến hành đo từ 30 - 50 quả trên một cây và tiến hành đo ngẫu nhiên 10 cây trong vườn: đối với trọng lượng, chúng tôi tiến hành cân 1kg quả bằng cân đĩa đồng hồ, sau đó tách vỏ, tách cùi và hạt riêng từng loại, rồi đem cân cùi riêng, cân hạt riêng và dùng thước đo độ dày cùi chính xác đến từng mm. * Xác định tỉ lệ vỏ, cùi và hạt bằng công thức: Khối lượng vỏ % Vá = X 100% Khối lượng quả Khối lượng cùi % Cùi = X 100% Khối lượng quả % Hạt = 100% - (% Vỏ + % Cùi). 2.3.3. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu thổ nhưỡng[33]. * Ni tơ: Xác định ni tơ tổng số theo phương pháp Kjendhal. Nguyên lý: Phương pháp Kjendhal dựa trên nguyên lý chuyển toàn bộ N trong hợp chất hữu cơ thành muối amon bằng cách phá công thức H2SO4 đậm đặc (có K2SO4 tăng nhiệt độ sôi và CuSO4 và Se xúc tác). Xác định hàm lượng NH4 bằng công cụ Kjendhal khi cho muối amontác dụng với kiềm. Thu NH3 bằng dung dịch axit boric và chuẩn độ amon borat bằng dung dịch chuẩn HCl 0,01M hoặc HCl M/70. 13 * Phốt pho. - Phân tích photpho tổng số. Nguyên lý: Sử dụng axit pecloric cùng axit nitric hoà tan các hợp chất photpho trong đất. Xác định hàm lượng photpho trong dung dịch bằng phương pháp trắc quang " màu xanh molypden". - Phân tích photpho dễ tiêu (theo phương pháp Oniani). Nguyên lý: phương pháp Oniani dựa trên nguyên lý hoà tan các dạng hợp chất photpho trong đất bằng dung dịch H2SO4 0,1N với tỉ lệ đất: dung môi = 1: 25, lắc trong 3 phót. Hàm lượng photpho trong dung dịch được xác định bằng phương pháp trắc quang với màu xanh "molypden" * Kali - Phương pháp xác định kali tổng số. Nguyên lý: Hoà tan mẫu bằng hỗn hợp HF và HClO4 xác định hàm lượng kali trong dung dịch bằng quang kế ngọn lửa. HF hoà tan các tinh thể silic SiF4 bay hơi và giải phóng K nằm trong cấu trúc: SiO2 + 4HF4 SiF4 + H2O HClO4 oxihoá các chất hữu cơ và hoà tan các chất vô cơ khác. - Phương pháp xác định K dễ tiêu. Chiết rút từ đất với dung dịch amonaxetat 1M (pH = 7,0) bằng phương pháp lọc hoặc chiết tỉ lệ đất: dung dịch = 1: 10 theo thủ tục xác định CEC trên phễu hoặc ống chiết. Xác định trực tiếp K trong dung dịch chiết rút bằng quang kế ngọn lửa tại bước sóng 768nm, dãy tiêu chuẩn pha bằng dung dịch amon axetat 1M có nồng độ 0 - 60ppm K. Mọt thể tích dung dịch chuẩn và dung dịch xác định có pha thêm một thể tích dung dịch chứa CsCl (0,2%) Cs và (Al (NO3)3 (0,36%) Al. Tính K dễ tiêu theo me/100g đất khô tuyệt đối. * Xác định chất hữu cơ (% OC) theo Walkley - Black . 14 Nguyên lý: oxyhoá chất hữu cơ bằng dung dịch K2Cr2O7 N/3 trong H2SO4 25N tại nhiệt độ hoà tan H2SO4 đậm đặc vào dung dịch K2Cr2O7 1N. Chuẩn độ lượng dư K2Cr2O7 bằng dung dịch muối Fe2+. + Chất hữu cơ có thể biểu thị bằng % C hữu cơ (% OC). + Cách tính: xác định đồ thị tiêu chuẩn và trên cơ sở số đo trên máy xác định hàm lượng mg C trong mẫu thử từ đó suy ra %OC trong đất. Công thức tính % OC: %OC = (a  b).4 K a.m Trong đó : m: khối lượng mẫu (g). K: hệ số khô kiệt của mẫu. a : sè mg muối Fe2+ chuẩn độ mẫu trắng. b : sè ml muối Fe2+ chuẩn độ mẫu. OC : sè mg hữu cơ có trong mẫu. * Phân tích cấp hạt (phân tích thành phần cơ giới). Nguyên lý chung: phân tích thành phần cơ giới đất là quá trình tách và xác định các cấp hạt của đất theo % khối lượng, tính với khối lượng đất khoáng (sau xử lý). Theo hệ thống quốc tế (đây là 1 trong 3 hệ thống phân loại đang được sử dụng ở Việt Nam) thì thành phần cơ giới đất được phân loại ra làm 4 trường hợp là Cát thô, Cát mịn, Limon, Sét như sau: (Sử dông cho phần đất mịn, cỡ hạt < 2mm). TÊN GỌI CỠ HẠT (mm) Cát thô 2,0 - 0,2 Cát mịn (thịt) 0,2 - 0,02 Limon 0,02 - 0,002 Sét < 0,002 15 Chuẩn bị mẫu: đất phân tích thành phần cơ giới được nghiền bằng chày bọc cao su, rây qua rây 2 mm . Không được giã mạnh làm vỡ các hạt đá hoặc cát, làm tăng cấp hạt nhỏ. Phần đá, sỏi còn lại trên rây cần xác định khối lượng và ghi kèm kết quả. - Nguyên lý xác định cấp hạt cát (cát thô, cát mịn) bằng rây. Huyền phù sau khi đã khuyếch tán được xác định các cấp hạt cát bằng cách tách các cỡ hạt cát bằng rây có kích cỡ mắt lưới khác nhau. Phần cát ở trên rây được rửa sạch và sấy khô tuyệt đối và xác định khối lượng. Do mắt lưới của các loại rây thườn nhỏ nhất chỉ đến 0,05 mm cho nên theo hệ thống quốc tế chỉ tính được theo nguyên tắc cộng dồn là: Cát thô: cỡ hạt từ 2,0 - 0,2 mm. Cát mịn: cỡ hạt từ 0,2 - 0,02 mm. - Nguyên lý xác định Limon và sét bằng phương pháp pipet (phương pháp ống hút Robinson). Theo định luật Stokes tại một thời điểm để lắng, ở một nhiệt độ xác định các cấp hạt sẽ phân bố ở các độ sâu nhất định. Dùng pipet hút một thể tích xác định cấp hạt ở độ sâu phân bố và sau đó sấy khô để xác định khối lượng cặn rắn. Phương pháp pipet còn được gọi là phương pháp ống hút Robinson (do Robinson cải tiến ống hút là một pipet có các lỗ hút theo chiều ngang không làm xáo trộn dung dịch) [33]. + Khối lượng Sét và Limon được tính theo công thức: % Khối lượng sét = % Limon = 100. X M 100.Y M Trong đó: M: khối lượng đất khô tuyệt đối không hữu cơ và cacbonat. x : khối lượng sét của mẫu. 16 y: khối lượng limon của mẫu. + Khối lượng cát thô, cát mịn được tính theo công thức: % Cát thô = 100. X M % Cát mịn = 100% - (% Cát thô + % Limon + % Sét) Trong đó: M: khối lượng đÊt khô tuyệt đối sau xử lý (g). X: khối lượng cát thô (g). 2.3.4. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu sinh lý. * Định lượng đường khử theo phương pháp Bertrand [3]. Nguyên tắc: dựa vào phản ứng oxy hóa - khử giữa đường khử với ion kim loại để xác định hàm lượng đường khử có trong nguyên liệu. Trong môi trường kiềm, đường khử Cu2+ thành Cu+ . Định lượng Cu2+ bị đường khử bằng KMnO4 0,1N. Công thức tính: g1 = VC .6,36. Trong đó: g1 : sè mg C VC : sè mg KMnO4 0,1N chuẩn độ. 6,36: sè mg Cu ứng với 1ml KMnO4 0,1N. Từ g1 tra bảng, tính được khối lượng đường khử (mg) trong dung dịch mẫu phân tích (VP), đổi mg thành gam (g2). - Hàm lượng đường khử có trong nguyên liệu được tính theo công thức: g2.V.100 X% = Vp . g Trong đó: 17 V: Sè ml dung dịch mẫu pha loãng VP : Sè ml dung dịch mẫu đem phân tích g : Sè gam mẫu đem phân tích. * Định lượng axit tổng s è (theo Ermacov) [1]. Nguyên tắc: Chuẩn độ lượng axit hữu cơ tổng số có trong nguyên liệu bằng NaOH 0,1N. Từ số ml NaOH cần thiết để chuẩn độ tính ra được lượng axit hữu cơ trong mẫu. - Công thức tính axit tổng số: a.V1. 100 X= V2. P Trong đó: X:Lượng axit tổng số có trong dịch chiết tính ra mili đương lượng. V1 :Tổng thể tích dịch chiết (ml). V2 : Thể tích đem chuẩn độ (ml). P : Lượng mẫu phân tích (g). a : Lượng NaOH 0,1N chuẩn độ (ml). * Định lượng vitamin C theo phương pháp chuẩn độ [3]. Nguyên tắc: dựa vào tính chất khử của axit ascorbic đối với chất màu để định lượng vitamin C trong nguyên liệu. - Công thức tính vitamin C: VC .V. 0,00088.100 X= Vf . g Trong đó: X: Hàm lượng vitamin C có trong nguyên liệu (%). VC : Sè ml dung dịch I2 0,01N chuẩn độ. 18 Vf : Sè ml dịch màu đem phân tích. g : Sè gam nguyên liệu đem phân tích. 0,00088 : Sè gam vitamin C tương đương với 1 ml I 0,01N. 2.3.5. Phương pháp xử lý số liệu. Số liệu được xử lý trên phần mềm Microsoft Excel theo các phương pháp thống kê toán học [ 15]. n X  + Giá trị trung bình : Trong đó : X i i n X i : Giá trị trung bình n  : Tổng mẫu chạy từ 1 đến i i n: Tổng số mẫu n + Độ lệch chuẩn : S (X + Sai sè : m =  X )2 i n 1 n S i (X i  X )2 i n S n 19 n < 30 n ≥ 30 Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái tới năng suất và chất lượng quả Giới thực vật nói chung và các loài cây ăn quả nói riêng trong quá trình sinh trưởng, phát triển phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố sinh thái như: nhiệt độ môi trường, nhiệt độ đất, độ Èm, lượng mưa, số giờ chiếu sáng, hàm lượng các nguyên tố đa lượng, vi lượng có trong đất, chế độ bón phân, tưới nước... 3.1.1. Đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng của khu vực nghiên cứu. Bắc Giang là tỉnh có phần lớn diện tích tự nhiên là đồi núi (3/4) nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều, khu vực phía Bắc tỉnh là vùng rừng núi. Bắc Giang nằm kẹp giữa 2 dãy núi hình cánh cung và cùng mở ra như nan quạt, rộng ở hướng Đông Bắc, chụm ở phía Tây Nam, tại vùng trung tâm tỉnh là cánh cung Đông Triều và cánh cung Bắc Sơn, phần giữa phía Đông tỉnh có địa hình đồi núi thấp, là thung lũng thấp giữa 2 dãy núi này. Phía Đông và phía Đông Nam tỉnh là cánh cung Đông Triều với ngọn núi Yên Tử nổi tiếng, cao trung bình 300 - 900m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1068m. Phía Tây Bắc là dãy núi cánh cung Bắc Sơn ăn lan vào tới huyện Yên Thế, cao trung bình 300 - 500m. Chủ yếu là những đồi đất tròn trĩnh và thoải dần về phía Đông Nam [38]. Lục Ngạn là huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, đây là một vùng có đồi núi trùng điệp kế tiếp vòng cung Bắc Sơn, thoải dần về phía thung lũng sông Lục Nam, núi thấp, dốc thoải với độ cao trên 4000 m, thấp dần về phía sông Lục Nam chỉ còn nhỏ hơn 100m [39]. Nhìn chung vùng đất trồng vải của Lục Ngạn thuộc địa hình đồi núi (trong đó có xã Phượng Sơn). Các đặc 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan