1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
……………………
LÊ THỊ HƯƠNG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG DINH
DƯỠNG, ĐỘ MẶN LÊN SỰ SINH TRƯỞNG CỦA TẢO
ISOCHRYSIS GALBANA PARKE VÀ PHÂN TÍCH
THÀNH PHẦN, HÀM LƯỢNG AXIT BÉO CỦA NÓ
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
CHUYÊN NGÀNH: THỰC VẬT
VINH, 2011
2
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp trong
chương trình đào tạo Thạc sỹ Sinh học, chuyên ngành Thực vật tại khoa Đào tạo
Sau đại học - Trường Đại học Vinh. Tôi đã nhận được sự ủng hộ giúp đỡ của các
thầy cô giáo, các đồng nghiệp, người thân, gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến GS.
TS Võ Hành người thầy hướng dẫn khoa học đã tận tâm chỉ dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành bản luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến GS. TSKH Dương Đức Tiến
- Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, thầy đã định
hướng và có những góp ý trong việc lựa chọn và thực hiện đề tài. PGS. TS Phạm
Quốc Long, TS Đoàn Lan Phương, Viện Hóa các hợp chất Thiên nhiên, Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong việc phân tích và xác định thành
phần các axit béo của tảo. PGS. TS Nguyễn Đình San, TS Lê Thị Thúy Hà đã có
những đóng góp quý báu trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong khoa Sinh học, các Cán bộ
Kĩ thuật phòng thí nghiệm Thực vật Bậc thấp, phòng Nuôi cấy mô, phòng Sinh lí
Hóa sinh. Các cán bộ phòng Tảo thuộc Viện Công nghệ sinh học, Phân Viện nuôi
trồng thủy sản III đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Vinh, ngày
tháng 12 năm 2011
Tác giả
Lê Thị Hương
3
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH
MỞ ĐẦU
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nuôi trồng tảo
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2. Tình hình nghiên cứu về thành phần axit béo của tảo Isochrysis galbana
1.3. Vị trí phân loại, cấu tạo hình thái của tảo Isochrysis galbana
1.3.1 Vị trí phân loại
1.3.2. Về hình thái và một số đặc điểm sinh học
1.3.3. Về giá trị dinh dưỡng
1.4. Ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái lên sự sinh trưởng và phát
Trang
i
ii
iv
v
vi
1
3
3
3
5
9
11
11
12
12
13
triển của tảo Isochrysis galbana
1.5. Các phương pháp nuôi trồng tảo
1.5.1. Phương pháp nuôi trồng theo mẻ (Hệ thống kín)
1.5.2. Phương pháp nuôi trồng liên tục (Hệ thống hở)
1.6. Đặc điểm sinh trưởng của tảo
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
2.3. Điều kiện thí nghiệm
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Nhân giống tảo Isochrysis galbana trong phòng thí nghiệm
2.4.2. Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường dinh
17
17
18
18
20
20
20
20
20
20
21
21
22
dưỡng và độ mặn lên sự sinh trưởng của tảo Isochrysis galbana
2.4.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng lên sự
23
sinh trưởng và phát triển của tảo Isochrysis galbana
2.4.2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn lên sự sinh trưởng và
24
4
phát triển của tảo Isochrysis galbana
2.4.3. Phương pháp nuôi trồng tảo Isochrysis galbana ngoài trời
2.4.4. Phương pháp điều chỉnh độ mặn
2.4.5. Phương pháp xác định mật độ tế bào tảo
2.4.6. Phương pháp lập đồ thị sinh trưởng
2.4.7. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường
2.4.8. Phương pháp thu hoạch tảo
2.4.9. Phương pháp phân tích lipit và thành phần axit béo
2.4.10. Phương pháp xử lí số liệu
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng lên sự sinh trưởng, phát
24
25
25
26
26
26
26
26
27
27
triển của tảo Isochrysis galbana
3.2. Ảnh hưởng của độ mặn lên sự sinh trưởng của tảo Isochrysis galbana
3.3. Thử nghiệm nuôi sinh khối tảo Isochrysis galbana
3.4. Nghiên cứu về thành phần, hàm lượng axit béo của tảo Isochrysis
30
33
35
galbana
3.5. Nghiên cứu về thành phần, hàm lượng các axít béo của tảo
Nannochloropsis oculata
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CT
CT1
CT2
CT3
CTTN
KQPT
ml
MT
NC
NTTS
Tb
U
VSATTP
Ytmt
Công thức
Công thức 1
Công thức 2
Công thức
Công thức thí nghiệm
Kết quả phân tích
Mililit
Môi trường
Nghiên cứu
Nuôi trồng thủy sản
Tế bào
Unsaturated
Vệ sinh an toàn thực phẩm
Yếu tố môi trường
39
44
46
47
51
5
Omega
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1.
Bảng 2.1.
Bảng 3.1.
Thành phần sinh hóa của tảo Isochrysis galbana
Các môi trường dinh dưỡng dùng trong các thí nghiệm
Sự sinh trưởng của tảo Isochrysis galbana ở các môi trường
Trang
12
21
28
Bảng 3.2.
Bảng 3.3.
dinh dưỡng
Sự sinh trưởng của Isochrysis galbana ở các độ mặn khác nhau
Sự biến động Ytmt trong thí nghiệm nuôi sinh khối Isochrysis
31
33
Bảng 3.4.
Bảng 3.5.
galbana
Sự sinh trưởng của tảo Isochrysis galbana khi nuôi sinh khối
Kết quả phân tích thành phần, hàm lượng axit béo của
34
36
Bảng 3.6.
Isochrysis galbana
So sánh thành phần, hàm lượng axit béo của Isochrysis
37
galbana của chúng tôi với các kết quả phân tích của các tác
giả khác
Bảng 3.7. Kết quả phân tích thành phần, hàm lượng axit béo của
Nannochloropsis oculata
40
6
Bảng 3.8.
So sánh thành phần axit béo của tảo Isochrysis galbana và
40
Nannochloropsis oculata
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1
Hình 1.2.
Hình 2.1.
Hình 2.2.
Hình 3.1.
Hình thái của tảo Isochrysis galbana
Các pha sinh trưởng của quần thể tảo
Sơ đồ bố trí các thí nghiệm
Sơ đồ bố trí nuôi trồng tảo Isochrysis galbana ngoài trời
Sự sinh trưởng và phát triển của Isochrysis galbana ở các
Trang
12
19
22
24
27
Hình 3.2.
Hình 3.3.
CTTN
Sự biến động mật độ tế bào ở các độ mặn khác nhau
Sự biến động mật độ tế bào tảo Isochrysis galbana khi
32
35
Hình 3.4.
nuôi sinh khối
Phổ phân tích MS thành phần, hàm lượng axit béo của tảo
42
Hình 3.5.
Isochrysis galbana
Phổ phân tích MS thành phần, hàm lương axit béo của
43
Nannochloropsis oculata
MỞ ĐẦU
7
Việt Nam có bờ biển trải dài hơn 3.200km, có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ
với diện tích trên 26.000 km 2, nhiệt độ nước biển dao động từ 18 oC-32oC, độ
mặn trung bình từ 28-40‰ [17]. Dọc bờ biển có khoảng 114 con sông lớn nhỏ
đổ ra biển [16]. Với những điều kiện ấy rất thuận lợi cho ngành nuôi trồng thủy
sản (NTTS) phát triển.
Trong NTTS thì vấn đề thức ăn là khâu then chốt, quyết định đến năng suất
nuôi trồng. Hiện nay, nguồn thức ăn chủ yếu được sử dụng là nguồn thức ăn tổng
hợp, nguồn thức ăn này có ưu điểm là kích thích khả năng tăng trưởng nhanh nhưng
trong đó hàm lượng hoocmon tương đối cao nên không đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm (VSATTP), làm giảm chất lượng sản phẩm. Như vậy, vấn đề đặt ra cho
ngành NTTS là phải tìm được nguồn thức ăn rẻ tiền nhưng cho năng suất, chất
lượng cao đồng thời đảm bảo VSATTP.
Trong NTTS việc tìm nguồn thức ăn tươi sống, giàu chất dinh dưỡng từ vi
tảo biển đang được quan tâm nghiên cứu. Những loài vi tảo được sử dụng là những
loài có kích thước phù hợp, dễ tiêu hóa lại ít gây độc với môi trường, có khả năng
sinh trưởng và phát triển nhanh, dễ nuôi nhưng lại giàu chất dinh dưỡng… Hiện
nay, có khoảng hơn 40 loài vi tảo biển được sử dụng phổ biến làm thức ăn cho các
đối tượng thủy sản như: Isochrysis galbana, Tetraselmis suecica, Platymonas sp,
Nannochloris atomus, Nannochloropsis oculata…[9].
Tảo Isochrysis galbana ngày càng được quan tâm và sử dụng rộng rãi làm
thức ăn cho ấu trùng nhiều động vật thân mềm do có khả năng sinh trưởng, phát
triển nhanh và có hàm lượng chất dinh dưỡng cao, đặc biệt là các axit béo không
bão hòa thuộc nhóm -3 và -6 như: axit eicosapentaenoic (20: 5n-3, EPA), axit
arachidonic (20:4n-6), axit docosapentanoic (22:6n-3, DHA) [31]. Đây là những
axit béo thiết yếu đối với cơ thể động vật và người, trong cơ thể người không thể
tổng hợp được các loại axit béo này, nhưng chúng lại có vai trò rất quan trọng
đối với con người như ngăn ngừa bệnh tim và tuần hoàn, tạo điều kiện cho sự
8
phát triển tim mạch ở trẻ (Yongmanitchai và Ward, 1991). Y học đã chứng minh
rằng, việc tiêu thụ hàm lượng thấp các axít béo thuộc nhóm -3 làm gia tăng tỉ lệ
mắc các bệnh về tim mạch, ung thư, đột quỵ, tiểu đường, thần kinh…[theo 31].
Tuy nhiên, khả năng sinh trưởng, phát triển, thành phần và hàm lượng các
axit béo của tảo phụ thuộc rất nhiều vào chế độ nuôi trồng như: chế độ dinh
dưỡng, độ mặn, nhiệt độ, ánh sáng và vào thời điểm thu hoạch tảo
(Yongmanitchai và Ward, năm 1989; Roessler, 1990) [theo 31].
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu ảnh
hưởng của môi trường dinh dưỡng, độ mặn lên sự sinh trưởng của tảo
Isochrysis galbana Parke và phân tích thành phần, hàm lượng axit béo của
nó”.
Với mục tiêu: Nghiên cứu ảnh hưởng của các môi trường dinh dưỡng, độ
mặn khác nhau lên sự sinh trưởng, phát triển của tảo Isochrysis galbana từ đó lựa
chọn được điều kiện thích hợp để nuôi trồng tảo và phân tích, xác định được thành
phần, hàm lượng axit béo của tảo Isochrysis galbana để đánh giá chất lượng dinh
dưỡng của nó.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, nhiệm vụ cần thực hiện là:
1. Tiến hành nhân nuôi tảo trong phòng thí nghiệm để lấy nguyên liệu.
2. Theo dõi, so sánh sự sinh trưởng và phát triển của tảo ở các môi trường dinh
dưỡng, độ mặn khác nhau để lựa chọn được điều kiện tối ưu cho sự sinh trưởng,
phát triển của nó.
3. Phân tích, xác định được thành phần, hàm lượng các axit béo của tảo
Isochrysis galbana.
CHƯƠNG 1
9
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nuôi trồng tảo
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, tảo được biết đến cách đây trên 250 năm trong hệ thống
phân loại của Carl Von Linner (1754) [4]. Từ đó đến nay, ngày càng có nhiều
công trình nghiên cứu về tảo. Tuy nhiên, lịch sử về công nghệ sản xuất đại trà tảo
bắt đầu tương đối muộn hơn so với lịch sử phát hiện ra tảo.
Trong nuôi trồng thủy sản (NTTS) thì sinh khối tảo là thức ăn quan trọng,
là điều kiện tiên quyết bởi nó là nguồn thức ăn không thể thiếu trong giai đoạn
ấu trùng của nhiều loài thủy sản. Năm 1939, Bruce và cộng sự đã phân lập thành
công và nhân nuôi tảo Isochrysis galbana, Pyramimonas grossii để nuôi ấu trùng
hầu. Sớm hơn nữa, năm 1910, Alla và Nilson đã dùng tảo silic để làm thức ăn
cho động vật không xương sống [9].
Năm 1940, những thực nghiệm về nuôi trồng đại trà Chlorella được bắt đầu
ở Đức, sau khi người ta nhận thấy tế bào tảo này có tới 50% protein trong sinh
khối khô và có khả năng tăng sinh khối khô lên gấp nhiều lần trong ngày [9].
Đầu những năm 1950, các nhà khoa học Mỹ cho thấy hàm lượng chất béo
và protein trong tế bào Chlorella có thể điều khiển bằng cách thay đổi điều kiện
nuôi trồng. Một số Pilôt nuôi trồng đại trà tảo này đã được xây dựng tại đây [9].
Năm 1957, Tamiya và cộng sự đã công bố các công trình liên quan tới nuôi
trồng Chlorella tại Nhật Bản. Có thể nói Nhật Bản là quốc gia đầu tiên sản xuất và
kinh doanh Chlorella dưới dạng thức ăn bổ dưỡng và tác nhân kích thích sinh
trưởng. Ngoài ra, ở Nhật còn sử dụng rất nhiều sinh vật phù du như: Chaetoceros
sp., Penaeus japonicus và Metapenaeus ensis, Isochrysis sp., Pavlova lutheri,
Tetraselmis sp., Nannochloropsis oculata, Chlamydomonas sp. làm thức ăn trong
quá trình ương nuôi nhiều loài ấu trùng thủy sản. Trong đó Nannochloropsis
oculata và Isochrysis galbana được coi là nguồn thức ăn tươi sống quan trọng nhất
10
trong các loài thực vật phù du. Từ năm 1986, Maruyama và cộng sự đã nuôi
Nannochloropsis oculata hay còn gọi là “Chlorella nước mặn” dùng làm thức ăn
cho rotifer. Nannochloropsis có thể nuôi quanh năm tại Nhật Bản, tuy nhiên mật độ
nuôi giảm mạnh trong mùa mưa [9].
Vào năm 1953, các nhà khoa học Đức đã nghiên cứu khả năng dùng CO 2
phế thải của vùng công nghiệp Rhur để nuôi trồng Chlorella và Scenedesmus.
Nghiên cứu này được giáo sư Soeder và cộng sự tiếp tục nhiều năm sau đó. Đầu
những năm 1970, chính phủ Đức tài trợ cho 3 dự án lớn cho nuôi trồng
Scenedesmus tại Ấn Độ, Pêru và Thái Lan [theo 9].
Năm 1960 tại Tiệp Khắc, các nhà khoa học đã xây dựng mô hình nuôi trồng
đại trà Scenedesmus trên nền bể có độ nghiêng 3o và tạo dòng chảy nhờ bơm. Mô
hình bể này đã được áp dụng thành công tại Rupite, Bungari một địa danh có suối
nước nóng nổi tiếng để sản xuất đại trà tảo Chlorella và Scennedesmus, sau đó tảo
Scenedesmus được nuôi trồng đại trà tại nhiều nước trên thê giới như: Đức, Italia,
Isarel và một số nước Đông Âu [9].
Đầu những năm 1960, vi tảo lam Spirulina lần đầu tiên được phát hiện tại
hồ Tchad (Châu phi) và nhanh chóng được các nhà khoa học Pháp đưa vào nuôi
trồng đại trà tại Texco, Mehico. Sau đó được mở rộng và sản xuất ở quy mô lớn
tại các nước như: Mỹ, Đài Loan, Isarel, Italia, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ và
Việt Nam. Ở Pháp đã tiến hành nuôi trồng đại trà tảo Porphyridium (tảo đỏ) để
thu polysacarit và axit arachidonic. Việc nuôi trồng đại trà tảo đã sinh ra hàng
loạt các công nghệ sản xuất, thu hoạch và chế biến sinh khối tảo [9].
Hiện nay, nhiều loài vi tảo là nguồn protein đơn bào quan trọng đối với
người và ngành chăn nuôi. Những loài tảo thuộc các chi được sản xuất đại trà:
Chlorella, Spirulina, Nitzschia, Haematococcus, Dunaliella, Chaetoceros,
Tetraselmis, Skeletonema, Nannochloropsis, Scenedesmus, Isochrysis…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
11
Ở nước ta, nghiên cứu về tảo cũng đã được tiến hành từ lâu. Nhưng trước
đây, do điều kiện chiến tranh kéo dài, kinh tế chậm phát triển, khoa học kỉ thuật
lạc hậu nên các nghiên cứu khoa học chủ yếu là nghiên cứu cơ bản, còn những
nghiên cứu thực nghiệm, ứng dụng chỉ thực sự phát triển sau khi nước nhà giành
được độc lập.
Những nghiên cứu ứng dụng về tảo ở nước ta được bắt đầu từ công trình
nghiên cứu về tảo Spirulina do cố Giáo sư Nguyễn Hữu Thước chủ trì vào năm
1972. Tảo Spirulina (S. maxima và S. platensis) được nhập nội từ Pháp và trở
thành đối tượng nghiên cứu sinh lí, sinh hóa tại viện sinh vật học [8]. Với những
thông tin, kinh nghiệm ít ỏi học được từ Pháp, sự đam mê tìm tòi các nhà khoa
học nước ta đã nhân nuôi thành công và bước đầu nhân nuôi giống tảo.
Năm 1976, thí nghiệm trồng thử Spirulina lần đầu tiên trên diện tích
2.150m2 liên tục ngoài trời không che trong thời gian hơn 4 tháng tại Nghĩa Đô
(Hà Nội) thu được kết quả tốt.
Sau khi đạt được những thành công bước đầu về nuôi trồng Spirulina,
nhiều cơ sở sản xuất đã mạnh dạn xây dựng nhiều cơ sở có qui mô để nuôi
Spirulina làm thức ăn cho ấu trùng nhiều loài thủy sản và khai thác làm dược
liệu. Ngày nay, tảo Spirulina còn được xem là nguồn dược liệu quan trọng trong
y học. Hiện nay, ở nước ta có các cơ sở nuôi trồng Spirulina có qui mô như xí
nghiệp suối nước nóng Vĩnh Hảo, ở Long An…
Trong những năm gần đây, những thành công của công nghệ sinh sản nhân
tạo giống tôm sú, điệp quạt và đặc biệt việc nghiên cứu cho sinh sản nhiều loài
cá biển đã góp phần thúc đẩy khoa học nghiên cứu ứng dụng tiến thêm một bước
mới với những nghiên cứu mang tính thực tiễn hơn.
Viện nghiên cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản III đã ứng dụng nuôi tảo
Nannochloropsis oculata và Chaetoceros muelleri làm thức ăn cho ấu trùng điệp
quạt và thu được nhiều thành công [20].
12
Dương Thị Thành (1998), đã tiến hành phân lập loài tảo Isochrysis
galbana để dùng làm thức ăn cho ấu thể trai hầu và sò huyết [18].
Nguyễn Thị Kim Liên và cộng sự (2006), đã nghiên cứu ảnh hưởng của các
loài tảo Isochrysis galbana, Chaetoceros calcitrans, Dunaliella tertiolecta và hỗn
hợp 3 loài tảo với tỉ lệ 1:1:1 lên sự sinh trưởng, phát triển của quần thể
Microsetella norvegica. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự phát triển có thể đạt mức
tốt nhất khi cho ăn hỗn hợp các loài tảo trên [12].
Tôn Nữ Mỹ Nga (2007), đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của các môi
trường dinh dưỡng (môi trường F2, môi trường TT3 và môi trường TM) lên sự
sinh trưởng và phát triển của tảo Chaetoceros gracilis Pantocsek 1892, kết quả
nghiên cứu cho thấy, tảo có khả năng phát triển trên cả ba môi trường nghiên cứu.
Trong đó, ở môi trường F2 và môi trường TT3 tảo phát triển tốt hơn môi trường
TM và sự sai khác là không có ý nghĩa giữa môi trường F2 và môi trường TT3,
còn khác nhau có ý nghĩa giữa môi trường F2 với môi trường TM, giữa môi
trường TT3 với môi trường TM [14].
Năm 2007, Đặng Diễm Hồng và cộng sự đã nhân nuôi thành công 5 loài vi
tảo biển là: Nannochloropsis oculata, Chlorella sp., Chaetoceros gracilis,
Isochrysis galbana, Tetraselmis sp. sử dụng làm thức ăn cho ấu trùng Ngao.
[“Tổng kết công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ của Phòng Công nghệ
Tảo, Viện Công nghệ Sinh học, năm 2007]
Năm 2008, Đặng Diễm Hồng và cộng sự đã phân lập, lưu giống thành
công tảo Schizochytrium, là một trong những loài vi tảo biển dị dưỡng có hàm
lượng axit béo không bão hòa đa nối đôi tương đối cao trong thành phần. Đây là
lần đầu tiên ở Việt Nam phân lập được tảo biển dị dưỡng Schizochytrium sp. [6].
Nguyễn Thanh Mai và cộng sự (2009), đã tiến hành nghiên cứu, đánh giá
khả năng sinh trưởng và phát triển của tảo Chaetoceros calcitrans ở các môi
trường dinh dưỡng và mật độ nuôi cấy ban đầu khác nhau. Kết quả nghiên cứu
13
cho thấy loài tảo này có khả năng phát triển trên cả 3 môi trường nuôi cấy. Tuy
nhiên, tảo sinh trưởng, phát triển mạnh nhất trên môi trường F2. Trong điều kiện
nuôi trồng là môi trường F2 và ở mật độ ban đầu là 6x10 6 tb/ml thì tảo sinh
trưởng, phát triển nhanh nhất và đạt mật độ tế bào cực đại lớn nhất và thời gian
đạt cực đại sớm nhất. Đồng thời nghiên cứu này còn nghiên cứu ảnh hưởng của
loài tảo này lên sự sinh trưởng của ấu trùng tôm he chân trắng [13].
Bùi Bá Trung và cộng sự (2009), đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của
mật độ ban đầu và tỉ lệ thu hoạch lên sinh trưởng vi tảo Nannochloropsis
oculata, nuôi trong hệ thống ống dẫn trong suốt nước chảy liên tục, kết quả
nghiên cứu đã lựa chọn được mật độ nuôi ban đầu phù hợp là 8x10 6 tb/ml, với
mật độ nuôi là 8x106 tb/ml thì tảo sinh trưởng đạt mật độ cực đại là 61,07 triệu
tb/ml lớn hơn rất nhiều so với khi nuôi ở cùng mật độ ban đầu trong hệ thống bể
composit hay túi nilon. Còn tỉ lệ thu hoạch là 10% thì sự sinh trưởng của quần
thể tảo là ít bị ảnh hưởng nhất [22].
Đặng Diễm Hồng và cộng sự (2010), đã thành công trong việc lựa chọn
môi trường tối ưu để nuôi trồng vi tảo lục Haemotococcus pluvialis giàu
Astaxanthin. Đây là thành công đầu tiên về nhân nuôi tảo Haemotococcus tại
nước ta ở qui mô phòng thí nghiệm, đã lựa chọn được môi trường tối ưu để nhân
nuôi tảo [7].
Cái Ngọc Bảo Anh (2010), nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ phân bón,
sục khí CO2 bổ sung, chế dộ dinh dưỡng lên sự sinh trưởng của 3 loài tảo:
Nannochloropsis oculata, Isochrysis galbana, Tetraselmis chuii. Với nghiên cứu
này, tác giả đã khẳng định môi trường F2 Guillard đảm bảo cho sự sinh trưởng
của ba loài tảo N. oculata, I. galbana và T. chuii trong điều kiện nuôi ngoài trời ở
Việt Nam và có thể thay thế nitơ dưới dạng nitrat bằng dạng amôn. Tuy nhiên,
nồng độ nitơ thích hợp nhất cho hai loài tảo I. galbana và T. chuii được điều
chỉnh lần lượt là 0,44 mM (bằng ½ nồng độ nitơ trong môi trường f/2) và 1,32
14
mM (cao hơn 1,5 lần so với môi trường F2). Trong điều kiện sục khí có bổ sung
CO2, quần thể của cả ba loài tảo N. oculata, I. galbana và T. chui đều đạt đến đầu
pha cân bằng sớm hơn 1 ngày và mật độ tế bào lần lượt cao gấp 2,0; 2,2 và 2,5
lần so với điều kiện sục khí bình thường. Cũng với công trình này tác giả đã
nghiên cứu sự sinh trưởng và phát triển của ba loài tảo này trong điều kiện chất
dinh dưỡng là phân bón công nghiệp thay thế cho muối nitrat tinh khiết, kết quả
cho thấy việc thay thế muối nitrat tinh khiết bằng phân bón công nghiệp không
ảnh hưởng gì đến sự sinh trưởng, phát triển và giá trị dinh dưỡng của tảo. Điều
này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn vì vừa giảm được chi phí sản xuất lại có thể giúp
giải quyết chất thải trong công nghiệp góp phần bảo vệ môi trường [1].
Ngô thị Hoài Thu và cộng sự (2010), đã nghiên cứu về khă năng chống
chịu với điều kiện nuôi bất lợi của 2 chủng vi tảo biển Nannochloropsis oculata
phân lập từ vùng biển Việt Nam và Singapo [19]. Kết quả nghiên cứu cho thấy
trong 2 chủng tảo thì chủng tảo Việt Nam có khả năng chống chịu với điều kiện
bất lợi của môi trường tốt hơn chủng tảo của Singapo. Kết quả nghiên cứu còn
cho thấy tảo có khoảng chịu đựng về độ muối, nhiệt độ và pH tương đối lớn nên
trong thực tiễn, tùy thuộc vào từng địa phương mà có thể áp dụng ở điều kiện
nhân nuôi như thế nào để đảm bảo cho tảo sinh trưởng tốt nhất mà giảm được chi
phí sản xuất là thấp nhất.
Le Thi phuong Hoa và cộng sự (2010), đã nghiên cứu sự sinh trưởng và
phát triển của tảo Isochrysis galbana H5 trên 3 môi trường dinh dưỡng khác
nhau là môi trường F2, môi trường ASW và môi trường ESM. Trong ba môi
trường nghiên cứu thì tảo có khả năng sinh trưởng trên cả môi trường nhưng tảo
sinh trưởng và phát triển tốt nhất trên môi trường F2 [26].
Nguyễn Quốc Thể, Nguyễn Văn Trai (2011), đã nghiên cứu ảnh hưởng của
ba loài tảo Isochrysis galbana, Nannochloropsis oculata và Chaetoceros
calcitrans lên tỷ lệ sống của ấu trùng sò huyết (Anadara granosa) giai đoạn trôi
15
nổi ở các nghiệm thức khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi sử dụng ba
loại tảo này kết hợp với nhau ở tỉ lệ 1:1:1 thì ấu trùng sò huyết đạt tỉ lệ sống sót
cao nhất sau 19 ngày [19].
Hiện nay, tại nhiều cơ sở sản xuất giống trong nuôi trồng thủy sản, đã tiến
hành nhân nuôi tảo làm nguồn thức ăn cho ấu trùng của nhiều loài thủy sản như
Viện nuôi trồng thủy sản I, Viện nuôi trồng thủy sản II, và nhiều các phân viện,
nhiều cơ sở tư nhân cũng tiến hành nhân nuôi tảo làm thức ăn cho ấu trùng thủy sản
bởi vì với nhiều loài ấu trùng thủy sản thì tảo là nguồn thức ăn không thể thiếu.
1.2. Tình hình nghiên cứu về thành phần axit béo của tảo Isochrysis galbana
Tảo Isochrysis galbana có nhiều chủng và thành phần axit béo của các
chủng có sự sai khác nhau nhiều [37]. Ngoài việc thành phần axit béo của tảo
thay đổi nhiều theo các giai đoạn phát triển của tảo nó còn phụ thuộc nhiều vào
điều kiện nuôi trồng, vào chế độ dinh dưỡng (đặc biệt là phụ thuộc vào chế độ
nitơ trong môi trường nuôi cấy. Nếu như hàm lượng nitơ cao thì hàm lượng axit
béo trong tảo giảm đi cả về số lượng lẫn chất lượng) [24].
C. J. Zhu và cộng sự (1997), đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ và giai
đoạn sinh trưởng lên sự tích lũy axit béo, thành phần và hàm lượng các axit béo của
các lớp lipit. Thí nghiệm được tiến hành ở nhiệt độ là 150C và 300C, và ở các thời
điểm thu hoạch là pha tăng theo hàm mũ (pha logarit) và pha cân bằng. Trong
nghiên cứu này cũng cho thấy ở nhiệt độ 15 0C và thu hoạch ở giai đoạn logarit thì
hàm lượng protein cao hơn ở nhiệt độ 300C, còn hàm lượng hydrocacbonat lại cao
hơn ở pha cân bằng và nhiệt độ 150C. Tuy nhiên, hàm lượng lipit ở nhiệt độ 150C lại
thấp hơn ở 300C, photpholipit hầu như không đổi ở hai nhiệt độ trên, nhưng giảm
nhẹ theo thời điểm thu hoạch (ở pha cân bằng thấp hơn ở pha logarit), còn glycolipit
lại cao hơn khi nhiệt độ cao và thu hoạch ở pha logarit, nhưng hàm lượng các axit
béo không bão hòa lại tỉ lệ nghịch với nhiệt độ (khi nhiệt độ tăng thì hàm lượng các
axít béo không bão hòa lại giảm và ngược lại) [37].
16
J. P. Fidalgo và cộng sự (1998), đã nghiên cứu ảnh hưởng của dạng nitơ (nitrat,
nitrit, ure), hàm lượng nitơ và giai đoạn tăng trưởng lên sự tích lũy và thành phần
lipit, axit béo của tảo Isochrysis galbana. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hàm lượng
axit béo đạt cao nhất trong pha cân bằng và nitơ ở dạng ure còn ở các giai đoạn sau
và các dạng nitơ là nitrat hay nitrit thì hàm lượng, thành phần axit béo giảm đi đáng
kể. Trong nghiên cứu này, các tác giả phân tích được thành phần axit béo của lipit
trong đó C14:0 (9,8–19,9%), C16:0 (12,2–18,8%), C16:1n – 7 (12,4–25,8%), C18:4n
- 3 (7,1–15,4%), C20:5n – 3 (12,8–27,7%) và C22:6n - 3 (5,1–14,1%) còn C20:0 và
C18:3n – 4 không xác định được hàm lượng. Có sự sai khác như vậy là các tác giả
phân tích thành phần, hàm lượng lipit ở các thời điểm thu hoạch và chế độ dinh
dưỡng khác nhau. Cũng trong nghiên cứu này, các kết quả phân tích cho thấy thành
phần, hàm lượng các axit béo nuôi ở dạng nitơ là nitrat hoặc nitrit là gần như nhau
còn chúng sai khác lớn với dạng nitơ nuôi trồng là ure [24] .
Năm 2000, S. Sanchez và cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của 5 môi
trường dinh dưỡng khác nhau lên thành phần sinh hóa của Isochrysis galbana
Parke (môi trường Guillard, Ukeles, Ben-Amotz, S-88, Algal-1) kết quả cho thấy
trong 5 môi trường nhân nuôi thì môi trường Ukeles tảo có hàm lượng axit béo
không bão hòa là cao nhất (đạt 46,9%), tiếp đến là môi trường Ben-Amotz (đạt
43%) và thành phần, hàm lượng các axit béo thay đổi đáng kể trong các môi
trường nghiên cứu [35].
C. P. Liu và L. P. Lin (2001), đã tiến hành phân tích lipit và thành phần
axit béo của 8 loài vi tảo biển bao gồm Pavlova lutheri CCMP1325, Pavlova
salina, Isochrysis galbana TK1, Isochrysis galbana TK2, Isochrysis sp.
CCMP1324, Isochrysis sp. CCMP463, Nannochloropsis oculata, và Chlorella
minutissima ở điều kiện nuôi dưỡng pH: 8, nhiệt độ: 25 0C, môi trường: F2, độ
măn: 32‰. Kết quả phân tích cho thấy không có sự sai khác về thành phần axit
béo giữa hai loài Isochrysis galbana TK1, Isochrysis galbana TK2, và sự sai
17
khác về hàm lượng axit béo cũng không đáng kể. Ở Isochrysis galbana TK1,
hàm lượng axit béo không bão hòa (chiếm 71,5%), còn ở Isochrysis galbana
TK2 (chiếm 70,6%) nhưng chúng có sự sai khác đáng kể về hàm lượng của từng
axit (ví dụ axit 18:1n-9 ở Isochrysis galbana TK1 chỉ chiếm 15,1% nhưng ở
Isochrysis galbana TK2 lại chiếm 28,1% gần gấp đôi) [31].
V. Patil và cộng sự (2007), đã tiến hành phân tích thành phần axit béo của
12 loài vi tảo sử dụng làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản, trong đó có
Isochrysis galbana, kết quả phân tích xác định được 78,3% các axit béo trong đó
axit béo bão hòa chiếm 20,4%; còn axit béo không bão hòa chiếm 57,9% [33].
Le Thi Phương Hoa và cộng sự (2010), đã tiến hành nghiên cứu và phân
tích thành phần axit béo của Isochrysis galbana H5 kết quả phân tích xác định
được các axit béo chiếm 74,87% trong đó axit béo không bão hòa chiếm 38,91%
còn axit béo bão hòa chiếm 35,96% [26].
Như vậy, qua các kết quả nghiên cứu trên cho thấy: thành phần và hàm
lượng các axit béo thay đổi và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện nuôi trồng và
môi trường dinh dưỡng.
1.3. Vị trí phân loại, cấu tạo hình thái của tảo Isochrysis galbana
1.3.1 Vị trí phân loại
Theo Christensen (1990) thì Isochrysis galbana Parke thuộc nghành
Haptophyta, lớp Prymnesiophyceae, bộ Isochrysidales, họ: Isochrysidaceaea,
chi: Isochrysis [theo 4].
1.3.2. Về hình thái và một số đặc điểm sinh học
Quan sát dưới kính hiển vi quang học ở độ phóng đại 400 lần, tế bào
Isochrysis galbana có đặc điểm như sau: Isochrysis galbana là vi tảo biển đơn
bào, cơ thể có kích thước nhỏ bé khoảng 4 - 5m. Tế bào có dạng hình elip, có
màu nâu vàng, tế bào có khả năng chuyển động.
18
Tế bào có 2 roi (2 roi có kích thước gần bằng nhau), tế bào không có thành
tế bào mà chỉ có màng tế bào bao quanh, nên tế bào rất dễ vỡ khi áp suất thẩm
thấu thay đổi [27].
Hình 1.1. Hình thái của tảo Isochrysis galbana
1.3.3. Về giá trị dinh dưỡng
Hiện nay Isochrysis galbana được sử dụng rộng rãi trong các trang trại
nuôi động vật hai mảnh vỏ, bởi loài tảo này có kích thước nhỏ, không độc hại,
dễ được tiêu hóa không những thế hàm lượng chất dinh dưỡng trong tảo là
tương đối cao, đặc biệt là hàm lượng lipit. Tế bào tảo chứa tới 17,07% trọng
lượng khô là lipit, trong đó hàm lượng axit béo không no có thể chiếm tới 60%
tổng lượng axit béo. Tuy nhiên thành phần, hàm lượng các chất trong tế bào
thay đổi theo điều kiện nuôi cấy như chế độ dinh dưỡng, độ mặn, ánh sáng,
nhiệt độ [24], [28], [31].
Theo [10] thành phần sinh hóa các chất trong tế bào tảo Isochrysis galbana như sau:
Bảng 1.1. Thành phần sinh hóa của tảo Isochrysis galbana
Thành phần
Protein
Cacbonhydrat
Lipit
Chlorophylla
Hàm lượng chất khô (%)
29,0
12,9
23,0
0,98
19
Trọng lượng khô
30,5
1.4. Ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái lên sự sinh trưởng và phát triển
của tảo Isochrysis galbana
Sự sinh trưởng của tảo Isochrysis galbana phụ thuộc vào nhiều nhân tố
khác nhau như: Ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn, chế độ dinh dưỡng, chế độ sục khí.
+ Ánh sáng
Ánh sáng là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng lên sự
sinh trưởng và phát triển của các loài tảo nói chung nhất là các loài tảo quang tự
dưỡng (tổng hợp chất hữu cơ từ nguồn năng lượng ánh sáng mặt trời). Ở những
loài tảo quang tự dưỡng thì nếu không có ánh sáng thì chúng không thể sinh
trưởng, phát triển được và rất nhanh sau đó chúng sẽ chết.
Ánh sáng ảnh hưởng lên sự sinh trưởng của tảo thông qua cường độ ánh
sáng, phổ ánh sáng và thời gian chiếu sáng.
L. A. Hobson và cộng sự, khi tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của sự
kết hợp giữa thời gian chiếu sáng (18:6; 12:12; 6:18) và nhiệt độ (20 oC, 25oC)
lên quá trình quang hợp, hô hấp tối và sự bài tiết của tảo Isochrysis galbana
Parke đã xác định được ở điều kiện chiếu sáng là 12:12 và 18:6 ở 20 0C thì khả
năng quang hợp, hô hấp tối và sự bài tiết của tảo là đạt cực đại, còn ở điều kiện
chiếu sáng 18:6 và ở 25oC thì quá trình trên giảm [27].
+ Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng chi phối sự phân bố và sự biến động về
thành phần loài theo mùa trong năm. Ở mỗi loài tảo khác nhau thì thích ứng với
mỗi khoảng nhiệt độ khác nhau.
Hầu hết các loài vi tảo có thể sống trong khoảng nhiệt độ từ 16 ÷ 30 oC. Nếu
nhiệt độ thấp hơn 16oC sẽ làm tảo phát triển chậm, trong khi nhiệt độ cao hơn 35oC
có thể gây chết một số loài. Nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển hầu hết các loài tảo là
20 ÷ 24oC, nhiệt độ này thay đổi theo thành phần loài, môi trường nuôi [11].
20
Theo S. M. Renaud và cộng sự [34] mỗi một loài tảo thích ứng với khoảng
nhiệt độ khác nhau và được chia thành 4 nhóm sau:
Nhóm rộng nhiệt: gồm các loài tảo thích ứng với khoảng nhiệt độ từ
10oC đến 30oC như: Tetraselmis suecia, Tetraselmis chuii, Dunaliella tertiolecta,
Nannochloris atomus, Chaetoceros calcitrans.
Nhóm nhiệt đới và cận nhiệt đới: gồm những loài tảo phát triển tốt ở nhiệt
độ từ 15oC đến 30oC như: Isochrysis sp., Chaetoceros gracilis và Pavlova salina.
Nhóm các loài chỉ phát triển tốt nhất ở khoảng nhiệt độ từ 10 oC đến 25oC
ngừng phát triển ở 30oC như: Pavlova lutheri.
Nhóm các loài tảo chỉ phát triển tốt ở nhiệt độ 10 oC đến 20oC như:
Thalassiosira pseudonana, Skeletonema costatum và Chrodomonas salina.
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ lên sự sinh trưởng và phát triển của
các loài tảo là rất cần thiết. Xác định được khoảng nhiệt độ phù hợp cho các loài
để từ đó lựa chọn được các loài tảo nuôi phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
Theo D. Kaplan và cộng sự (1985), thì nhiệt độ thích hợp nhất cho sự sinh
trưởng và phát triển của tảo Isochrysis galbana là 27oC, nhiệt độ vượt quá 32oC và hạ
xuống thấp hơn 19oC thì sự sinh trưởng và phát triển của tảo chậm hơn rất nhiều [29].
+ Độ mặn
Đối với các loài vi tảo thì độ mặn có ảnh hưởng rất lớn đến vùng phân bố,
đến khả năng sinh trưởng, phát triển của tảo. Các loài tảo có khả năng sinh
trưởng và phát triển ở độ mặn từ 14 - 40‰. Tuy nhiên, theo S. M. Renaud
khoảng độ mặn thích hợp nhất cho sự sinh trưởng và phát triển của tảo là từ 20 24‰ [34].
Đối với từng loài tảo thì chúng có khoảng chịu đựng về độ mặn khác nhau.
D. Kaplan và cộng sự (1985), đã nghiên cứu về sự sinh trưởng, phát triển của
Isochrysis galbana ở ba độ mặn khác nhau là 25‰, 30‰, 35‰ đã xác định được
độ mặn tối ưu cho tảo phát triển là 30‰ [29].
- Xem thêm -