-1BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
ĐỖ VĂN TÌNH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA Mn VÀ Cu
TỚI NĂNG SUẤT VÀ TÍNH CHỊU HẠN
CỦA GIỐNG KHOAI TÂY
(Solanum tuberosum L.) var. Solara
Ở VÙNG NÚI TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYỄN DUY MINH
HÀ NỘI, 2010
-2-
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khoai tây có tên khoa học là Solanum tuberosum L. thuộc họ Cà
(Solanacae), chi Solanum. Cây khoai tây được con người biết đến từ thập niên
1570 khi chúng được du nhập vào châu Âu và từ đó nó đã được phổ biến ở
khắp nơi trên thế giới [57]. Năm 1890, cây khoai tây được trồng thử ở Việt
Nam. Do khoai tây dễ trồng, củ ăn ngon, nó mau chóng được trồng ở nhiều
địa phương của nước ta [13].
Hiện nay, khoai tây là một loại lương thực không hạt số một trên thế
giới. Khác với các loại lương thực, khoai tây được ăn theo nhiều cách khác
nhau. Nó có giá trị dinh dưỡng, kinh tế và xuất khẩu. Trong củ khoai tây có
75% nước; 2% protein; 21% gluxit; 50mg photpho; 1,2mg sắt; 10mg canxi;
1,2mg sắt; 15mg vitamin C; 0,1mg vitamin B1; 0,05mg vitamin B2. Ngoài ra
khoai tây còn có công dụng dược học [4]. Đặc biệt, thời gian sinh trưởng của
cây khoai tây ngắn ngày, thích hợp với khí hậu lạnh, là cây trồng quan trọng
trong vụ đông ở đồng bằng Bắc bộ và khu vực Đà Lạt, hiện nay đang mở rộng
trồng ở vùng Bắc Trung bộ và vùng núi phía Bắc [11].
Bắc Giang là tỉnh miền núi nằm ở khu vực phía Đông Bắc nước ta. Khí
hậu tỉnh Bắc Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Một năm có
bốn mùa rõ rệt, trong đó mùa đông lạnh, khô, ít mưa, gây hạn kéo dài, đây
cũng là thách thức cho sản xuất nông nghiệp, việc lựa chọn cây trồng chịu hạn
là rất quan trọng. Tỉnh đã có kế hoạch chuyển hàng chục nghìn ha trồng lúa
sang phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp,… đặc biệt phát triển mạnh cây
lương thực theo hướng chuyên canh cao, trong đó có cây khoai tây. Diện tích
trồng khoai tây hàng năm khoảng 5000ha, trong đó diện tích khoai tây chất
lượng cao chiếm 2400ha, vượt hơn năm có diện tích cao nhất (năm 2003) là
800ha; năng suất 160 tạ/ha; sản lượng 96000 tấn [39]. Diện tích trồng khoai
-3-
tây của tỉnh Bắc Giang chủ yếu ở các huyện trung du có đồng bằng xen kẽ,
còn các huyện vùng núi chưa được quan tâm nhiều.
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về khoai tây [49], [50],
[53], [54], [63], [64], [66], [71], [72], [73], [77], [78], [79], [80], [81], [83]. Ở
Việt Nam việc nghiên cứu trên đối tượng này đã và đang được quan tâm và
mở rộng, đặc biệt là những đề tài nghiên cứu về mối quan hệ giữa dinh dưỡng
khoáng và năng suất cây trồng, cũng như khả năng chống chịu những điều
kiện bất lợi như hạn hán, rét, mặn,... từ lâu đã được khẳng định qua thực tiễn
sản xuất. Nhiều công trình nghiên cứu sử dụng phân vi lượng trong trồng trọt,
đem lại hiệu quả cao [9], [26], [27], [36], [37], [38], [43]. Các kết quả nghiên
cứu đã khẳng định các nguyên tố vi lượng khi xử lý ở nồng độ thích hợp,
riêng rẽ hay phối hợp đều có ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển, các quá
trình sinh lý trong cây, làm tăng năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu
các điều kiện bất lợi của môi trường. Tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu
tiến hành trên các đối tượng đậu tương, lúa, lạc, đậu xanh,... còn trên đối
tượng khoai tây thì cho đến nay có một số công trình nghiên cứu về chế độ
tưới nước [39], nghiên cứu về giống, khả năng sinh trưởng và phát triển của
khoai tây trên một số vùng, miền có điều kiện tự nhiên khác nhau, đem lại
nhiều ứng dụng thực tế,… [5], [24], [42]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sự ảnh
hưởng của một số nguyên tố vi lượng trên đối tượng này ở vùng núi tỉnh Bắc
Giang còn chưa được quan tâm.
Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu ảnh hƣởng của Mn và Cu tới năng suất và tính chịu hạn của giống
khoai tây (Solanum tuberosum L.) var. Solara ở vùng núi tỉnh Bắc Giang.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu sự ảnh hưởng của Mn và Cu tới tính chịu hạn và năng suất
giống khoai tây Solara ở vùng núi tỉnh Bắc Giang.
-4-
Học tập các phương pháp làm thí nghiệm sinh lý, hoá sinh để làm cơ sở
hướng dẫn thực hành cho học sinh trung học phổ thông.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trồng và xử lý Mn, Cu bằng cách phun dung dịch ở nồng độ 0,02%
trong hai giai đoạn cây khép tán và cây ra hoa.
Nghiên cứu các chỉ tiêu sinh lý, hoá sinh của giống khoai tây Solara.
Thu thập và thống kê các số liệu thô, xử lý trên phần mềm Microsoft
Excel.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Giống khoai tây Solara
Phạm vi nghiên cứu: Ảnh hưởng của Mn và Cu tới diện tích lá, cường độ
thoát hơi nước, khả năng giữ nước, hút nước, độ hụt nước còn lại và hàm
lượng prolin ở lá, hoạt độ amylaza ở củ trong hai giai đoạn cây khép tán và ra
hoa. Ảnh hưởng của Mn và Cu tới năng suất của giống khoai tây Solara.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thực nghiệm
6. Giả thuyết khoa học
Trong điều kiện thiếu nước, Mn và Cu tác động rõ đến khả năng chịu
hạn: giảm cường độ thoát hơi nước, tăng khả năng giữ nước và hút nước,
giảm độ hụt nước còn lại; tăng hoạt tính enzym amylaza và hàm lượng prolin.
Sử dụng Mn và Cu trong điều kiện thiếu nước sẽ làm tăng năng suất
khoai tây.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở khoa học cho việc sử dụng nguyên
tố vi lượng cho cây trồng trong điều kiện thiếu nước.
Tìm hiểu sâu hơn vai trò của Mn và Cu để sử dụng hiệu quả hơn trong
trồng trọt.
-5-
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc lịch sử và phân loại cây khoai tây
Cây khoai tây (Solanum tuberosum L.) thuộc:
Bộ Hoa mõm sói (Serophulariales)
Họ Cà (Solanaceae)
Chi Solanum
Họ Cà có khoảng 85 chi và gần 2300 loài. Ở Việt Nam hiện nay biết 16
chi và gần 50 loài [35]. Có hai phương pháp phân loại [8]:
*Phương pháp 1: Dựa trên cơ sở khoa học về mặt điạ lý, các đặc trưng,
hình thái... của khoai tây, các tác giả Kameraz và Bukasov đã phân tập đoàn
Tuberarium thành 6 tiểu tập đoàn sau đây:
- Andinum – Buk
- Arcticum – Buk
- Pacifinin – Buk
- Orientale – Buk
- Exinterruptum – Buk
- Intergrifolium – Buk
*Phương pháp 2: Phân loại theo thời gian sinh trưởng. Dựa vào thời gian
sinh trưởng của các giống có thể phân thành các nhóm sau đây:
Nhóm giống chín cực sớm: có thời gian sinh trưởng từ 65 đến 70 ngày.
Nhóm giống chín sớm: có thời gian sinh trưởng từ 71đến 90 ngày.
Nhóm giống chín trung bình: có thời gian sinh trưởng từ 91 đến 120
ngày.
-6-
Nhóm giống chín muộn: có thời gian sinh trưởng từ 121 đến 140 ngày
trở lên.
Ngoài ra, Spooner D. M. cho rằng có hai dạng là dạng hoang dại và dạng
trồng, trong đó các loài được trồng trên toàn thế giới chủ yếu là Solanum
tuberosum (dạng tứ bội với 48 nhiễm sắc thể). Ngoài ra dạng trồng còn phổ
biến gồm có: bốn loài lưỡng bội (với 24 nhiễm sắc thể ): S. stenotomum, S.
phureja, S. goniocalyx và S. ajanhuiri; có hai loài tam bội (với 36 nhiễm sắc
thể ): S. chaucha và S. juzepczukii; có một loài ngũ bội (với 60 nhiễm sắc
thể): S. curtilobum [79].
Theo Spooner D. M. và cs thì khoai tây có nguồn gốc tại một khu vực
phía nam Peru (ngay phía bắc hồ Titicaca). Có hai phân loài Solanum
tuberosum chính: andigena hoặc Andean; và tuberosum hoặc Chile. Khoai tây
Andean thích nghi với điều kiện ngày ngắn phổ biến ở các vùng miền núi xích
đạo và nhiệt đới, nơi nó có nguồn gốc. Các loài khoai tây Chile thì thích nghi
với điều kiện ngày dài phổ biến ở vùng vĩ độ cao hơn, ở miền nam Chile, đặc
biệt là trên quần đảo Chile nơi nó được cho là có nguồn gốc. Theo Spooner D.
M. và cs thì cả hai phân loài bắt nguồn từ một tổ tiên chung từ các khu vực ở
miền nam Peru [79], [57].
Hiện tại người ta cho rằng khoai tây đã được du nhập vào châu Âu vào
khoảng thập niên 1570 và sau đó nó đã được những người đi biển châu Âu
đưa đến các lãnh thổ và các cảng trên khắp thế giới khi chế độ thực dân châu
Âu mở rộng vào thế kỷ XVII-XVIII. Có hàng ngàn thứ (bậc phân loại dưới
loài) khoai tây được tìm thấy ở vùng Andes. Khi đã được phổ biến ở châu Âu,
khoai tây đã sớm trở thành một thực phẩm và cây trồng chủ yếu ở nhiều nơi
khác trên thế giới [57].
Năm 1890, một người Pháp là Giám đốc Vườn bách thảo Hà Nội đem
hạt khoai tây trồng thử ở nước ta. Do khoai tây dễ trồng, củ ăn ngon, nó mau
-7-
chóng được trồng ở nhiều địa phương. Và đến nay nó ngày càng được quan
tâm và mở rộng [13].
1.2. Đặc điểm sinh học cây khoai tây
1.2.1. Đặc điểm hình thái [8], [83]
a) Bộ rễ: Rễ khoai tây thuộc loại rễ chùm (trồng từ củ) và có cả rễ cọc (khi
trồng bằng hạt), từ rễ cọc phát triển nhiều rễ phụ khác. Phần lớn rễ tập trung ở
độ sâu 30-40cm, nhưng cũng có những rễ ăn sâu tới 1,5-2m. Ngoài ra rễ còn
phát triển ở trên củ nhưng ngắn, ít phân nhánh và cũng có chức năng giống
các rễ khác. Rễ khoai tây phát triển mạnh ở thời kỳ ra hoa (ở dưới mặt đất lúc
này đã hình thành củ và củ bắt đầu lớn lên).
b) Thân: Thân khoai tây mọc thẳng, đôi khi có cấu tạo dích dắc, có 3-4
cạnh, cao trung bình từ 40-70cm đến 1-1,2m. Phụ thuộc vào giống, thời vụ,
điều kiện chăm sóc... mà chiều cao cây có thể khác nhau. Thân thường có
màu xanh hoặc xanh nhạt hay đậm, đôi khi có màu phớt hồng hoặc tím... tuỳ
thuộc vào từng giống. Trên thân có lớp lông tơ mềm (khi cây còn non) cứng
dần và rụng theo thời gian sinh trưởng.
c) Lá: Lá khoai tây tương tự như lá cà chua nhưng khác một số điểmthuộc lá phức tạp, bản lá to, có 3-7 đôi mọc đối xứng qua trục và 1 lá lẻ trên
cùng thường lớn hơn được gọi là lá chét đỉnh. Lá khoai tây dài khoảng 1015cm, mặt lá phẳng hoặc gợn sóng, lá bản to hơn lá cà chua. Màu sắc lá phụ
thuộc vào giống, thời vụ, điều kiện chăm sóc mà có thể màu xanh, xanh đậm
hoặc xanh nhạt,...
d) Hoa: Hoa khoai tây thường mọc tập trung trên 1 chùm hoa. Nó thuộc
loại hoa lưỡng tính và có cấu tạo 5:5:5; cuống ngắn. Màu sắc hoa thường
trắng, cũng có thể là phớt hồng, hồng, tím hoặc màu đỏ...phụ thuộc vào từng
loại và giống.
-8-
e) Quả: Quả thuộc loại quả mọng. Hình dạng quả tròn hoặc trái xoan. Khi
chín, quả màu trắng bạc hoặc phớt hồng, mùi vị dễ chịu. Quả có từ 2-3 ngăn,
trong đó có chứa nhiều hạt (30-300 hạt).
f) Hạt: Hạt khoai tây có dạng hình dẹt, màu cà phê sáng hoặc màu đen.
Khối lượng 1000 hạt khoảng 0,5g. Thời gian ngủ nghỉ hạt lâu.
g) Củ: Củ là bộ phận làm thực phẩm cho con người. Củ khoai tây còn có
tên gọi là thân củ hay thân ngầm bởi củ được hình thành là do thân phát triển
dưới mặt đất, trong điều kiện bóng tối. Hình dạng củ khoai tây có thể tròn,
bầu dục, tròn dài, đôi khi hình vuông. Màu sắc củ tuỳ thuộc vào từng giống,
có thể là màu trắng, trắng nhạt, vàng, vàng nhạt,...trên củ có nhiều mắt củ,
nhưng phân bố không đều. Số lượng mắt củ nhiều hay ít tuỳ thuộc vào từng
giống. Trên mắt củ có mi mắt và mắt. Mi mắt dài hay ngắn, mắt nông hay sâu
là do đặc tính di truyền của giống. Trên mỗi mắt thường có 2-3 mầm ngủ và
thường tập trung nhiều trên đỉnh củ. Tuỳ thuộc từng giống, thời vụ, đất trồng,
điều kiện chăm sóc mà có trọng lượng củ khác nhau.
1.2.2. Đặc điểm sinh trưởng và phát triển
Theo giáo sư Staicov, (1989) cho rằng khoai tây có 7 thời kỳ sinh trưởng
và phát triển chính [8]:
1. Thời kỳ mọc mầm: Thời kỳ mọc mầm bắt đầu từ lúc mọc mầm từ củ, lúc
này mới chỉ thấy đỉnh của các mầm trong các mắt củ. Mầm lúc này có thể
chia thành 3 phần-phần gốc, giữa kỳ lớn và phần đỉnh nhưng chưa rõ. Trong
phần gốc của mầm có thể nhìn thấy phôi của rễ non, còn phần đỉnh có thể
nhìn thấy rõ lá nhỏ. Thời kỳ này yêu cầu độ ẩm không khí là 80%.
2. Thời kỳ lớn và phát triển của mầm: Thời kỳ này trùng lặp với thời kỳ
xuân hóa của khoai tây và sự chuyển hóa toàn bộ cơ thể trong điều kiện tự
nhiên. Đặc điểm của thời kỳ này là mầm vươn dài, lớn lên và phát triển đến
-9-
khi đạt đến mức độ lớn 3-4cm. Sự phát triển của mầm lúc này bị kìm hãm và
mầm được hình thành 3 phần rõ rệt: phần gốc, giữa và phần đỉnh.
3. Thời kỳ mọc lá non: Sau khi trồng một thời gian, củ bắt đầu mọc mầm
khỏi mặt đất. Lúc này các mầm còn non và sau 2-3 ngày bắt đầu ra các lá nhỏ,
sau đó 5-6 ngày lá phát triển hoàn chỉnh. Trong thời gian này, rễ cũng bắt đầu
phát triển và dần dần hình thành thân ngầm. Tùy từng giống mà thời gian từ
khi trồng đến hình thành thân mầm (tia củ) có khác nhau. Đối với các giống
khoai tây Thường Tín, sau khi trồng 30-40 ngày chúng bắt đầu hình thành
thân ngầm.
4. Thời kỳ sinh trưởng, phân cành và phát triển lá: Sau khi mọc, bắt đầu
phát triển thân, lá và phân cành. Thời kỳ này thướng kéo dài đến lúc ra nụ
hoa. Tùy theo từng giống, thời vụ gieo trồng, điều kiện chăm sóc,... mà thời
kỳ này có thể kéo dài 30-50 ngày. Ở giai đoạn này chiều cao cây đạt được
80% so với thời kỳ kết thúc sinh trưởng và phát triển. Chiều dài thân cây bị
ảnh hưởng đáng kể khi thiếu nước do hạn hán gây ra ở khoai tây [61]. Thiếu
Cu thân cây khoai tây thấp hơn khi cung cấp Cu đầy đủ [55].
5. Thời kỳ ra nụ hoa và hình thành củ: Đặc điểm của thời kỳ này là ra nụ
hoa trên thân chính hoặc trên các thân phụ. Lúc đầu các nụ mọc thành chùm,
về sau cuống nụ phát triển và hình thành nhiều hoa. Các nụ được hình thành
qua 6 giai đoạn. Mỗi giai đoạn hình thành đầy đủ kéo dài từ 5-6 ngày. Ở thời
kỳ này các nụ hoa chuyển qua 4 bước (trạng thái), chúng thay đổi và phát
triển các cánh hoa. Nụ hoa kéo dài từ 15-30 ngày, tùy thuộc vào từng giống
và điều kiện chăm sóc. Nụ hoa của một số giống có thể bị rụng ngay từ đầu,
các nụ còn lại tiếp tục nở và sau đó hình thành quả. Giai đoạn này khoai tây
cần nhiều nước nhất [21]. Nếu thiếu nước củ sần sùi, nứt nẻ, dễ nhiễm bệnh,
chất lượng củ kém [11]. Thiếu Cu hoa dị dạng, củ sần sùi [55].
- 10 -
6. Thời kỳ nở hoa: Hoa khoai tây thường bắt đầu nở sau quá trình ra nụ.
Đôi khi cả hai quá trình này xảy ra cùng đồng thời, bởi vì sau khi bắt đầu nở
hoa trên thân chính thì các hoa trên các cành ở trong giai đoạn nụ. Sự hình
thành và nở hoa chịu ảnh hưởng từ hai yếu tố bên trong và bên ngoài. Các
yếu tố bên trong là do đặc điểm của giống và sự thay đổi các thành phần hóa
sinh, nguyên nhân gây nên sư thay đổi này là do điều kiện ngoại cảnh. Còn
các yếu tố bên ngoài là do nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... đưa đến. Từ khi hoa nở
đến khi đậu quả qua sự biến đổi nhất định mà thời gian có thể khác nhau.
7. Thời kỳ chín: Sau quá trình thụ phấn và thụ tinh, quả lớn dần và
chuyển sang thời kỳ quả và hạt chín. Đặc trưng hình thái của thời kỳ này là
quả vàng và mềm, lá chuyển màu vàng và chết, ngừng phát triển, vỏ củ sần
sùi. Để khoai tây có thể chuyển qua các giai đoạn sinh trưởng, phát triển khác
nhau, cần tổng hợp của nhiều yếu tổ kết hợp.
1.3. Giá trị kinh tế cây khoai tây
1.3.1. Về giá trị dinh dưỡng
Khoai tây có nhiều giá trị về dinh dưỡng, ngoài ra còn có một số đặc tính
về dược học.
Qua bảng số liệu 1.1 ta thấy rằng các loại khoai trong đó khoai tây có thể
gọi là rau vì nó chứa các thành phần của rau như caroten, xơ, các loại vitamin
B, C, khoáng chất, đặc biệt không chứa lipit. Tuy nhiên chúng cũng chứa
nhiều tinh bột,… giống gạo tẻ nên có thể ăn thay cả gạo tẻ và rau ở một mức
độ nào đó. Đây là những ưu điểm nổi bật của khoai nói chung và khoai tây
nói riêng dành cho chế độ ăn kiêng giảm béo, có lợi cho sức khỏe.
Khoai tây hợp với người bệnh tiểu đường: một bệnh rất cần khống chế
lượng gluxit trong bữa ăn, ăn khoai tươi làm lương thực (thay gạo, bột mì) ăn
với các loại cá, thịt nạc, đậu thì bữa ăn vừa no, vừa hợp với chữa bệnh.
- 11 -
Khoai tây hợp với người già, người ốm: bột khoai rất dễ tiêu hơn bột
gạo, nên với người ốm, người già có thể ăn cháo khoai (có thêm một ít gạo)
hoặc bột khoai nghiền (khoai chín sau khi luộc); với trẻ em: dùng khoai rất
tốt, đặc biệt là khoai tây, khoai lang nghệ,... làm thức ăn bổ sung tốt cho trẻ
em, chỉ cần khoai luộc, tùy yêu cầu đặc, lỏng mà thêm nước sau khi nghiền
nhỏ là có ngay sữa bột cho trẻ; bột khoai có ưu điểm là có protein tốt cho trẻ,
lại có các vitamin, nhất là vitamin C và caroten mà nếu trẻ ăn thiếu rau sẽ bị
thiếu; tinh bột khoai dễ tiêu hóa, trong khoai có đường nên vị ngọt rất thích
hợp với khẩu vị của trẻ; tùy sự phát triển của trẻ, từ bột khoai (lấy từ khoai
tươi luộc chín) trộn thêm bột [17].
Theo các tác giả Tạ Thị Cúc, Hồ Hữu An, Nghiêm Thị Bích Hà thì khoai
tây có chứa nhiều chất dinh dưỡng. Trong củ khoai tây ngoài cung cấp cho
con người những chất đã nêu trên như: protein, gluxit, photpho, sắt, canxi, sắt,
vitamin C, B1 và B2 còn cung cấp 75% nước và nhiều chất có giá trị khác nữa
như K (844mg K/200g khoai tây nướng cả vỏ (gấp đôi 1 quả chuối chín),
niacin, thiamin, folat,... Ngoài ra nó còn có tác dụng dược học như cường toan
axit cho dạ dày, đặc biệt chất solanin trong mầm củ khoai tây có tác dụng
chống dị ứng, làm thuốc giảm đau [4], [13]. Một số tác giả khác cho rằng,
khoai tây có nhiều công dụng như tinh bột có khả năng kích thích tiêu hóa
trong dạ dày và ruột non. Nó được cung cấp với số lượng phù hợp có thể bảo
vệ chống lại ung thư ruột kết, ổn định hàm lượng glucozơ và tính nhạy cảm
của insulin, làm giảm cholesterol huyết tương và nồng độ chất béo trung tính,
làm cho con người có cảm giác no, và thậm chí có thể làm giảm lưu trữ chất
béo [13], [57].
Cây và lá có thể dùng làm thức ăn cho lợn, dùng làm phân xanh bón
ruộng, nâng cao độ tơi xốp của đất trồng.
- 12 -
Bảng 1.1. Giá trị dinh dưỡng của khoai tây so với các loại khoai khác,
gạo và rau trong 100 gam ăn được [17]:
Khoai
tây
Khoai
môn
Khoai
sọ
Khoai
lang
nghệ
tươi
Năng lượng
(Kcal)
92
109
114
116
119
344
23
Protein (g)
2,0
1,5
1,8
1,2
0,8
7,9
3,2
0,2
0,1
0,3
0,2
1,0
Thành phần
dinh dưỡng
Lipit (g)
Khoai
lang
tươi
Gạo
tẻ
Rau
muống
Gluxit (g)
21,0
25,2
26,5
27,1
28,5
76,2
2,5
Xơ (g)
1,0
1,2
1,2
0,8
1,3
0,4
1,0
Canxi (mg)
10
44
64
36
34
30
100
Photpho (mg)
50
44
75
56
49
104
37
Sắt (mg)
1,2
0,8
1,5
0,9
1,0
1,3
1,4
Caroten (µg)
29
10,0
1470
150
Vitamin B1
(mg)
0,1
0,09
0,06
0,12
0,05
0,1
0,1
Vitamin B2
(mg)
0,05
0,03
0,03
0,05
0,05
0,03
0,09
Vitamin PP
(mg)
0,9
0,1
0,1
0,6
0,6
1,6
0,7
Vitamin C
(mg)
10
4
4
30
23
2280
23
(Trích bảng thành phần dinh dưỡng thực phẩm Việt Nam Viện Dinh dưỡng –
Bộ Y tế – Nxb Y học Hà Nội – 2000)
- 13 -
1.3.2. Chế biến và xuất khẩu
Khoai tây được dùng để tiêu thụ trực tiếp và chế biến thành lát mỏng, khoai
tây rán đông lạnh và các sản phẩm khác. Xuất nhập khẩu khoai tây thế giới bị
chi phối bởi các nước nhỏ. Tuy nhiên, các nước xuất khẩu lớn lại có kết quả
khác nhau. Xuất khẩu của Canađa, Trung Quốc và Mỹ tăng trong khi xuất khẩu
của EU giảm. Mỹ xuất khẩu tăng 15% trong năm 2007-2008. Canađa đa dạng
hoá thị trường: xuất khẩu khoai tây của Canađa chiếm 10% tổng xuất khẩu thế
giới. EU nhập khẩu tăng: nhập khẩu khoai tây từ các nước cung cấp nhiều nhất
là Ixrael (chiếm 45%), Ai Cập (40%), và Marôc (10%), xuất khẩu khoai tây của
EU giảm 43%, chủ yếu do giảm mạnh xuất khẩu sang Nga. Nhật Bản nhập
khẩu khoai tây từ Mỹ tăng gấp đôi (1000 tấn) trong năm 2007. Trung Quốc
xuất khẩu tăng nhanh sang các nước Châu Á láng giềng tăng lên 600 tấn. Niu
Dilân xuất khẩu tăng: Niu Dilân sản xuất khoai tây dùng để tiêu thụ tươi và
chế biến. Ôxtrâylia xuất khẩu giảm do hạn hán [15].
Tuy nhiên, tại Việt Nam khoai tây chế biến vẫn chưa được coi là món ăn
phổ biến, mà thường chỉ dùng để làm quà cho trẻ em, hoặc vào những dịp như
sinh nhật, lễ hội, Tết... Dạng sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng là
khoai tây chiên. Theo kết quả khảo sát, tỷ trọng thị trường khoai tây chế biến
nội địa là: 40% sản phẩm tiêu thụ ở siêu thị; 20% bán cho các nhà hàng khách
sạn; 30% tiêu thụ qua đại lý; 5% bán cho các trường học; 5% cho người bán
rong. Hiện nay tổng nhu cầu khoai tây dành cho chế biến khoảng 15000
tấn/năm, nhưng chỉ có 35% trong số đó là sử dụng nguyên liệu trong nước,
các nhà chế biến vẫn phải nhập khẩu khoảng 10.000 tấn khoai tây/năm, từ
Anh, Trung Quốc, Hà Lan. Do nguồn cung trong nước mang tính thời vụ cao,
chất lượng khoai tây và sản lượng không đủ cho chế biến khoai tây [14].
- 14 -
1.4. Tình hình sản xuất khoai tây trên thế giới và Việt Nam
Khoai tây là loài cây nông nghiệp ngắn ngày, trồng lấy củ chứa tinh bột,
loại cây trồng lấy củ rộng rãi nhất thế giới, và là loại cây trồng phổ biến thứ 4
về mặt sản lượng tươi - xếp sau lúa, lúa mì và ngô [59]. Hiện nay, cây khoai
tây đang được trồng ở hơn 100 quốc gia, và đã là một phần không thể thiếu
trong hệ thống lương thực thế giới. Do điều kiện sinh thái, mức độ canh tác và
trình độ sản xuất khác nhau nên năng suất khoai tây có sự chênh lệch lớn ở
các vùng, miền, khu vực, ở từng nước trên thế giới. Sản lượng khoai tây ở các
nước phát triển và đang phát triển thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2. Sản lượng khoai tây trên thế giới (triệu tấn) các năm 20012007 ở các nước phát triển và đang phát triển (Nguồn: FAOSTAT) [59]
Các nước
Năm
2001
2003
2005
2007
Phát triển
166,93
160,97
159,97
159,89
Đang phát triển
145,92
152,11
160,01
165,41
Thế giới
312,85
313,08
319,98
325,30
Qua số liệu bảng 1.2 cho ta thấy sản lượng khoai tây ở các nước phát
triển đang giảm dần qua 2 năm từ 2001 đến 2003 giảm 5,96 triệu tấn, qua các
năm từ 2003 đến 2007 thì giảm 0,08 đến 1 triệu tấn, từ đó ta thấy sản lượng
có xu hướng ổn định. Ngược lại, ở các nước đang phát triển ta thấy sản lượng
tăng qua các năm từ 5,4 đến 7,9 triệu tấn. Như vậy, năm 2005 lần đầu tiên các
nước đang phát triển tăng về sản lượng so với các nước phát triển, đây là một
bước đột phá lớn trong sản suất nông nghiệp trên thế giới. Các nước đang
phát triển tăng về sản lượng do đã tăng về diện tích trồng trọt, cải thiện được
giống ổn định về năng suất và chất lượng, đảm bảo được điều kiện chăm sóc.
- 15 -
Vì vậy sản lượng chung toàn thế giới tăng nhẹ. Năm 2003 toàn thế giới tăng
so với 2001 là 0,32 triệu tấn. Năm 2005 tăng so với năm 2003 là 6,9 triệu tấn.
Năm 2007 tăng 5,32 triệu tấn so với năm 2005. Khoai tây sản xuất theo vùng
về diện tích, năng suất, sản lượng thuộc các châu lục trên thế giới năm 2009
có sự khác nhau được thể hiện ở bảng 1.3.
Bảng 1.3. Khoai tây sản xuất theo vùng thuộc các châu lục trên thế giới
năm 2009 ( Nguồn: FAOSTAT) [58]:
Các châu lục
Diện tích
Sản lượng
Năng suất
(ha)
(tấn)
(tấn/ha)
Châu Phi
1.705 500
20.163 389
11,8225
Châu Á
8.751 259
143.259 252
16,3701
44 402
1.671 602
37,6469
6.275 549
123.817 694
19,7301
Châu Mỹ Latinh
980 283
16.493 642
16,8254
Bắc Mỹ
569 249
24.151 332
42,4266
18.326 242
329.556 911
17,9827
Châu Đại Dương
Châu Âu
Thế giới
Qua bảng 1.3 thấy tình hình sản xuất khoai tây theo vùng năm 2009 cho
thấy Châu Á và Châu Âu là vùng sản xuất khoai tây lớn của thế giới, chiếm
hơn 80% sản lượng thế giới. Trong khi thu hoạch ở Châu Phi và Châu Mỹ
Latinh ít hơn, Châu Địa Dương có sản lượng thấp nhất. Bắc Mỹ dẫn đầu về
năng suất, đạt 42,4266 tấn/ha. Châu Phi có năng suất thấp nhất, chỉ đạt
11,8225 tấn/ha. Châu Đại Dương có diện tích gần bằng 1/40 diện tích Châu
Phi nhưng năng suất Châu Đại Dương đứng vị trí thứ hai trên thế giới đạt
37,6469 tấn/ha. Điều này có thể giải thích là do điều kiện sinh thái, giống, kĩ
thuật chăm sóc, trong đó điều kiện tự nhiên ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển
cây khoai tây. Châu Phi là đất nước có khí hậu khô nóng, thiếu nước, quỹ đất
- 16 -
dùng cho trồng khoai tây có hạn là một trong những nguyên nhân làm cho sản
lượng và năng suất không cao. Các nước có sản lượng cao về sản xuất khoai
tây làm thực phẩm được trình bày ở bảng 1.4.
Bảng 1.4. Số liệu về sản lượng các nước đứng đầu về sản xuất khoai tây
năm 2009 (Nguồn: FAOSTAT ) [58]:
Stt
Các nước
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
1
Trung quốc
4.752 609
14,5308
69.059 652
2
Ấn Độ
1.828 000
18,8134
34.391 000
3
Nga
2.182 400
14,2659
31.133 960
4
Ukraina
1.411 800
13,9288
19.666 100
5
Hoa Kỳ
422 901
46,2734
19.569 109
6
Đức
263 700
44,0557
11.617 500
7
Ba Lan
488 700
19,8543
9.702 800
8
Hà Lan
155 200
46,2693
7.181 000
9
Pháp
163 600
43,7909
7.164 200
10
Belarus
382 981
18,6040
7.124 981
Qua bảng 1.4 ta thấy năm 2009 các nước thuộc Châu Á như Trung Quốc,
Nga, Ấn Độ dẫn đầu trong bảng xếp hạng về sản lượng, trong đó sản lượng
khoai tây Trung Quốc là 69,06 triệu tấn, gấp đôi sản lượng của Nga, của Ấn
Độ và gấp 10 lần các nước xếp vị trí cuối trong bảng xếp hạng, đó là Hà Lan
(7,18 triệu tấn), Pháp (7,16 triệu tấn) và Belarus (7,12 triệu tấn). Các nước
còn lại cũng có sản lượng tương đối cao như Ucraina (19,67 triệu tấn), Hoa
Kỳ (19,57 triệu tấn), Đức (11,62 triệu tấn) và Ba Lan (9,7 triệu tấn). Về năng
suất, ta thấy Hoa Kỳ và Hà Lan có năng suất cao trên 46 tấn/ha. Các nước còn
lại trong bảng xếp hạng đều có năng suất trên 13 triệu tấn/ha, riêng Đức đạt
44,0557 triệu tấn; Pháp đạt 43,7909 triệu tấn.
- 17 -
Như vậy, qua phân tích ở trên cho thấy, trong năm 2005, lần đầu tiên,
sản xuất khoai tây trên thế giới ở các nước đang phát triển vượt qua các nước
phát triển. Sản lượng khoai tây ở Châu Á và Châu Âu cao nhất, trong khi đó
năng suất khoai tây ở Bắc Mỹ lớn nhất. Trung Quốc hiện là nước có sản
lượng khoai tây lớn nhất thế giới.
Ở Việt Nam, do khoai tây không phải là cây trồng bản địa và đã được
trồng ở nước ta từ hơn 100 năm nay. Trước năm 1966, diện tích trồng khoai
tây chỉ đạt dưới 1000 ha và được trồng rải rác ở Sa Pa (Lào Cai), Đà Lạt (Lâm
Đồng), Cao Bằng, Đông Anh (Hà Nội), Thường Tín (Hà Tây cũ, nay là Hà
Nội), Đồ Sơn (Hải Phòng). Từ những năm 60 đến những năm 70, nhờ cuộc
cách mạng xanh ở miền Bắc nên diện tích khoai tây được mở rộng. Năm 1971
có 5000ha khoai tây được trồng, năm 1980 diện tích trồng khoai tây lên tới
100000ha, mỗi năm tăng 1200 ha [3]. Việt Nam là nước nằm ở vùng nhiệt đới
gió mùa. Mùa đông có nhiệt độ trung bình 15-25oC, thuận lợi cho cây khoai
tây sinh trưởng và phát triển. Về năng suất, các nhà khoa học cho rằng tiềm
năng năng suất khoai tây ở Việt Nam có thể tới 40 tấn/ha. Thực tế cho thấy,
năng suất có thể đạt tới 30 tấn/ha nếu có giống tốt. Tuy nhiên năng suất hiện
nay chỉ đạt 11-12 tấn/ha, chủ yếu do chất lượng củ giống. Song so với các cây
trồng khác thì nó có ưu thế hơn hẳn về thời vụ, năng suất và giá trị sử dụng
nên gần đây việc sản xuất khoai tây ở nước ta có xu hướng tăng, mang lại
hiệu quả cao góp phần cho sản xuất nông nghiệp đa dạng và bền vững.
Diện tích trồng khoai tây ở nước ta đang có xu hướng mở rộng. Năm
2001 đến 2005 tăng 5000ha. Bên cạnh đó thì sản lượng và năng suất đều tăng
qua các năm. Tuy nhiên, diện tích và năng suất tăng hàng năm nhưng không
cao. Sản xuất khoai tây qua các năm 2005 đến 2008 có xu hướng ổn định,
điều đó được thể hiện qua số liệu bảng 1.5.
- 18 -
Bảng 1.5. Số liệu về diện tích, sản lượng và năng suất khoai tây ở Việt
Nam từ năm 2001 đến năm 2008 (Nguồn FAOFAST) [58]
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
2001
30.000
10,53
315.900
2002
32.102
11,76
377.472
2003
33.887
10,69
362.371
2004
34.000
10,74
365.000
2005
35.000
10,57
370.000
2006
35.000
10,57
370.000
2007
35.000
10,57
370.000
2008
35.000
10,57
370.000
Khoai tây tỉnh Bắc Giang năm 2009 trồng được 2994 ha, năng suất đạt
118,8 tạ/ha, giảm so với năm 2008 là 1,2 tạ/ha [16].
Điều này đã được giải thích bởi những nguyên nhân sau [4]:
* Vốn đầu tư ban đầu tương đối lớn (chiếm 55-65% tổng chi phí,
trong đó chi phí giống từ 42,6-45,3%).
* Giống chủ yếu được trồng bằng củ, việc tự để củ giống theo kinh
nghiệm sản xuất từ lâu đời có tỷ lệ hao hụt quá lớn 40-60% nên không hoàn
toàn chủ động củ giống theo ý muốn.
* Thị trường trong nước còn hạn chế, thị trường xuất khẩu hầu như
không có.
* Trình độ kĩ thuật của người nông dân nhìn chung còn thấp, chỉ
khoảng 20% hộ nông dân trồng theo kĩ thuật khuyến cáo.
* Giống bị thoái hóa và nhiễm bệnh nhanh.
- 19 -
1.5. Hạn hán và tình hình nghiên cứu ảnh hƣởng của Mn và Cu tới tính
chịu hạn cây trồng
1.5.1. Hạn hán và tình hình nghiên cứu khả năng chịu hạn của cây
khoai tây
Tất cả các loài cây trồng đều cần một lượng nước nhất định để duy trì
sự sống. Lượng nước cần cho mỗi loài, mỗi cây trồng ở từng giai đoạn là
khác nhau. Hạn đối với thực vật là sự thiếu nước do môi trường gây nên, từ
đó ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển, đặt biệt là năng suất cây trồng.
Khô hạn có thể gây ra nhiều mức độ tổn thương khác nhau cho cây trồng như
chết, chậm phát triển hoặc phát triển không bình thường. Những cây trồng có
khả năng duy trì sự phát triển và cho năng suất tương đối ổn định trong điều
kiện khô hạn được gọi là cây chịu hạn. Cây có khả năng giảm thiểu mức độ
tổn thương do thiếu hụt nước gọi là tính chịu hạn.
Hạn hán thường xảy ra do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do hạn
đất và hạn không khí. Hạn không khí thường xảy ra ở những vùng gió nóng,
nhiệt độ cao và thường lan rất nhanh gây ra khô hạn ở diện rộng. Hạn không
khí tác động chủ yếu lên các bộ phận trên mặt đất như hoa, lá, chồi non,... và
thường gây ra hiện tượng héo tạm thời. Hạn đất thường xảy ra ở những vùng
có khí hậu, địa chất, địa hình đặc thù như sa mạc, đồi trọc,... Hạn đất tác động
trực tiếp vào bộ rễ của cây, ngoài ra còn ảnh hưởng đến giai đoạn nảy mầm,
hình thành củ [18].
Cơ chế chống chịu hạn ở thực vật: Cơ chế này rất phức tạp, hiện nay có
nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Một số tác giả cho rằng do yếu tố
di truyền chi phối, số khác thiên về các đặc điểm sinh lý,… Theo Paroda thì
khả năng chịu hạn liên quan đến một số đặc trưng về hình thái như chín sớm,
mầu lá, diện tích lá, khả năng phát triển của hệ rễ, số lượng lông hút, mầu sắc
thân, độ phủ lông trên thân lá,… Ngoài ra khả năng chịu hạn còn liên quan
- 20 -
đến sự đóng mở khí khổng, sự quang hợp, hô hấp, điều chỉnh áp suất thẩm
thấu, nhiệt độ tán cây,… Cơ chế này cũng liên quan đến sự biến đổi về thành
phần sinh hóa các chất trong tế bào như giảm tổng hợp protein và các axit
amin, giảm cố định CO2, tăng nồng độ các chất hoà tan, tăng hàm lượng
prolin,… Khi gặp hạn, cây sinh ra AAB chủ yếu ở rễ rồi chuyển lên lá, gây
héo lá, đóng khí khổng và đẩy nhanh già hóa bộ lá. Khi AAB được chuyển
hóa tới hạt làm cho hạt bị lép trong quá trình đẫy hạt. Trong điều kiện hạn
nặng, tế bào không phân chia, không phát triển, thậm chí sau khi tưới nước
trở lại, các bộ phận vẫn bị ảnh hưởng, dẫn đến bộ lá không phát triển, và khi
mức độ hạn trở nên nghiêm trọng thì rễ không phát triển được [18], [50]. Sự
điều chỉnh áp suất thẩm thấu khi hạn thể hiện rất rõ ở cao lương, lúa mì, lúa
nước, còn ở khoai tây thì thấp hơn. Prolin được tích lũy khi hạn nặng như là
một chất điều hòa áp suất thẩm thấu và như một protein bảo vệ cấu trúc khi
sức trương của cây bị giảm mạnh [48], [49], [68], [80]. Cũng trong điều kiện
hạn nặng, quang oxy hóa khử diệp lục xẩy ra, hệ thống quang photphorin hóa
thứ hai hoạt động mạnh dẫn đến thừa e- tự do không liên kết, năng lượng cao
năng trong lá, đẩy nhanh sự oxy hóa khử diệp lục và làm mất khả năng quang
hợp của lá, thể hiện rõ nhất là khi nắng to phiến lá bị cháy. Khi đó các hệ
enzym bị giảm hoạt tính, sự biến đổi xacarozơ thành tinh bột của hạt bị giảm
vì sự hoạt hóa của enzym biến đổi xacarozơ thành hexozơ bị cản trở [63].
Cơ chế chịu hạn ở thực vật chia làm 3 loại: Tránh hạn: là khả năng của
cây có thể hòan thành chu kì sống của nó trước khi sự thiếu hụt nước xuất
hiện; Chịu hạn: là khả năng cây có thể sống, phát triển và cho năng suất trong
điều kiện cung cấp nước hạn chế hoặc thụ động trải qua các giai đoạn thiếu
nước và tiếp tục phát triển khi điều kiện trở lại bình thường; Chống hạn: là
khả năng cây chống lại sự thiếu hụt nước bằng cách duy trì nước trong mô tế
bào cao [78].
- Xem thêm -