Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự...

Tài liệu Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự

.DOC
16
100
92

Mô tả:

Luật tố tụng dân sự 1 MỞ BÀI Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng những mâu thuẫn nhất định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp. Để giải quyết được vụ việc dân sự thì mọi vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng đều phải được làm rõ trước khi Tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu để hiểu rõ về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là rất cần thiết để từ đó có cái nhìn bao quát nhất về hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự. NỘI DUNG I. Khái quát chung 1. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự. Nghĩa vụ là việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, hoặc đối với người khác. Như vậy, nghĩa vụ chứng minh có thể hiểu là nghĩa vụ của Tòa án và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc chứng minh làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự là rất cần thiết cho việc giải quyết tất cả các vụ việc dân sự. Khi giải quyết bất kỳ vụ việc dân sự nào cũng đều phải tiến hành hoạt động chứng minh. Do đó, pháp luật tố tụng dân sự quy định rất chặt chẽ về nghĩa vụ chứng minh. Theo đó, các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình trong quá trình tố tụng dân sự. Việc thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ chứng minh sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. 2. Cơ sở của việc quy định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự Luật tố tụng dân sự a, Cơ sở lý luận Trong quan hệ tố tụng dân sự, Tòa án, Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng có mối liên hệ mật thiết với nhau trong một vụ án. Mọi hành vi tố tụng của các chủ thể trong toàn bộ quá trình tố tụng đều nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án đó. Mặt khác, pháp luật nội dung và pháp luật hình thức là hai bộ phận có mối liên hệ mật thiết, không thể tách rời. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án nhân dân và những người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, thiết lập lại các quan hệ pháp luật về nội dung bị vi phạm hay tranh chấp. Pháp luật nội dung ghi nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khi các quyền và lợi ích này bị xâm phạm, họ có quyền khởi kiện để đòi quyền lợi hợp pháp của mình. Như vậy, khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là đối tượng xem xét của Tòa án nhân dân do chính các yêu cầu của đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện và mong muốn được Tòa án giải quyêt. Họ là những người có khả năng đưa ra chứng cứ chính xác nhất làm căn cứ chứng minh có những yêu cầu của mình nên họ có nghĩa vụ phải chứng minh. Như vậy, việc quy định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là cần thiết nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của những chủ thể có nghĩa vụ chứng minh, đảm bảo việc thực hiện pháp luật được công bằng, nghiêm minh, giải quyết vụ việc dân sự hiệu quả và tuân theo pháp luật. b, Cơ sở pháp lý Để đảm bảo nguyên tắc “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” được quy định trong Hiến pháp 1992 cũng như đảm bảo nguyên tắc nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, BLTTDS 2004 đã quy định quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự thành một nguyên tắc (Điều 6) và cụ thể hóa tại các Điều 58, 63, 79, 117, 118…BLTTDS 2004. Theo đó, các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm: đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước 2 Luật tố tụng dân sự hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, Tòa án và Viện kiểm sát. Để giải quyết đúng được các vụ việc dân sự thì tất cả các sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc đều phải chứng minh, bao gồm những tình tiết, sự kiện mà các chủ thể căn cứ vào đó đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu của người khác và những tình tiết, sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc dân sự. II- Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự 1, Nghĩa vụ chứng minh của đương sự BLTTDS đề cao vai trò, trách nhiệm chứng minh của đương sự vì bản thân đương sự là người trong quan hệ phát sinh tranh chấp, hơn ai hết họ là người hiểu rõ nhất nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp, nội dung vụ án, họ cũng là người đưa ra yêu cầu do vậy họ phải cung cấp chứng cứ cho tòa án. Ngoài ra vì sự thật là cơ sở yêu cầu và đề nghị của các bên nên các bên sẽ quan tâm, bằng mọi cách tìm ra chứng cứ để khẳng định nó. Trong các vụ án dân sự thì đương sự là chủ thể đầu tiên đươc nhắc tới có nghĩa vụ chứng minh. Điều 79 BLTTDS có quy định: “1. Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh”. Mỗi một bên đương sự khi tham gia tố tụng đều phải chứng minh tất cả tình tiết sự kiện của sự việc dân sự mà trên cơ sở đó họ đưa ra các yêu cầu hay phản đối yêu cầu của người khác. Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác bỏ đó là có căn cứ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu cũng phải chứng minh… nguyên tắc này thống nhất với nguyên 3 Luật tố tụng dân sự tắc về quyền tự định đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định Quy định trên đã thể hiện sự công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ chứng minh và không có đương sự nào được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh dù đương sự đó yêu cầu hay phản đối yêu cầu để bảo vệ lợi ích của mình hay lợi ích chung. Việc thực hiện không đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mỗi đương sự có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ án. BLTTDS đã quy định các bên đương sự phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ chứng minh của họ: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không dưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó”. Hậu quả là nếu là nguyên đơn thì có thể sẽ bị bác yêu cầu, bị đơn sẽ bị xử thua kiện, sẽ phải chấp nhận các yêu cầu đã được chứng minh của nguyên đơn. Ngoài ra, pháp luật hiện hành còn quy định nghĩa vụ chứng minh của các đương sự là một quá trình, có thể được tiến hành ở bất kì giai đoạn tố tụng dân sự nào. Theo Điều 165, 175 BLTTDS thì ngay khi khởi kiện thụ lý vụ án, đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ chứng minh bằng việc người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhận được thông báo về thụ lý vụ án phải gửi cho tòa án bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và chứng cứ, tài liệu kèm theo. Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án (Điều 84 BLTTDS). Tại phiên tòa, các bên đương sự được tranh luận để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình, thời gian tranh luận của họ không bị hạn chế (Điều 233 BLTTDS). Kèm theo đơn kháng cáo, ngưởi kháng cao phải gửi cho tòa án các tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp (Điều 244 BLTTDS). 4 Luật tố tụng dân sự Để đảm bảo cho các đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh thì Điều 7, Điều 385 BLTTDS quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cho đương sự và biện pháp xử lý đối với những trường hợp vi phạm. Việc pháp luật quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh là vô cùng quan trọng và thiết thực bởi vì chỉ khi có đầy đủ chứng cứ và các tình tiết của vụ án đã được làm rõ thì tòa án mới có thể giải quyết đúng đắn vụ án dân sự. Đối với đương sự, việc chứng minh giúp họ làm rõ được cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp của mình từ đó có thể thuyết phục tòa án bảo vệ. 2. Nghĩa vụ chứng minh của người đại diện của đương sự Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Khi tham gia vào hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động chứng minh nói riêng thì người đại diện theo pháp luật, người đại diện do Toà án chỉ định có nghĩa vụ thực hiện tất cả nghĩa vụ chứng minh của đương sự họ đại diện, còn người đại diện theo uỷ quyền thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong phạm vi được uỷ quyền (Điều 74 BLTTDS). Tuy nhiên, hai loại người đại điện này đều có điểm chung là đều có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của đương sự mà mình đại diện là có căn cứ và hợp pháp. Và đặc biệt là, vai trò chứng minh của họ chỉ phát sinh sau khi phát sinh vai trò chứng minh của đương sự. Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ định người đại diện cho họ. Hoạt động chứng minh của người đại diện là “thay mặt, nhân danh” đương sự, hành vi 5 Luật tố tụng dân sự chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương sự và hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện của họ cũng chấm dứt. 3. Nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Khoản 1 Điều 63- BLTTDS quy định: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.” Đây là một trong những chủ thể thể hiện khá rõ nét nghĩa vụ chứng minh. Hơn nữa, do có sự hiểu biết về pháp luật, nên họ thường chủ động, tích cực tự mình cũng như động viên “thân chủ” của mình thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh. Theo pháp luật hiện hành, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ cho chứng cứ đưa ra, lí lẽ và lập luận cho các yêu cầu và phản đối yêu cầu của các đương sự mà mình bảo vệ là có cơ sở. Pháp luật cho phép họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Để thực hiện nghĩa vụ chứng minh, họ có quyền: “2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. 5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là việc đưa ra các chứng cứ, lí lẽ để chứng minh cho các yêu cầu và sự phản đối yêu cầu của đương sự là có cơ sở, bởi vì đương sự là người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản yêu cầu nhưng do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên họ phải cần đến sự hỗ trợ của người bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình. 6 Luật tố tụng dân sự 4. Nghĩa vụ chứng minh của cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác Đó là các chủ thể như: cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ; công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở; Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nghĩa vụ, quyền hạn của mình. Các chủ thể này sẽ tham gia tố tụng và có nghĩa vụ theo Khoản 3 Điều 79 BLTTDS. Tuy không có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự như đương sự, nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức này cũng đưa ra yêu cầu và biết rõ sự việc. Do đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức khi yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước hay quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Trong trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức này không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh của mình sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các đương sự. 5. Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án. Toà án có nghĩa vụ chứng minh tính khách quan trong vụ án, chứng minh cho quyết định, bản án của mình đưa ra là công bằng và hợp pháp. Trong hoạt động thu thập chứng cứ để chứng minh, tòa án chủ yếu dựa trên sự chứng minh của đương sự. Để thực hiện nghĩa vụ của mình, Tòa án đề ra đối tượng chứng minh và đốc thúc, hỗ trợ hoạt động chứng minh của các bên đương sự. Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Toà án có thể tiến hành các biện pháp xác minh thu thập chứng cứ- Điều 85 BLTTDS. Việc làm này được thực hiện trong suốt quá trình tố tụng, ngay cả khi đã lập hồ sơ vụ việc. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng việc thu thập chứng cứ của tòa án không phải là nghĩa vụ mà chỉ mang tính hỗ trợ cho việc thu thập chứng cứ của đương sự, làm căn cứ để giải quyết vụ việc và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở quyết định của tòa án. Tòa án sẽ thực hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trước khi sử dụng( Điều 96,97 BLTTDS) 7 Luật tố tụng dân sự Trong hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, Tòa án sẽ xem xét và đưa ra phán quyết của mình trên cơ sở chứng cứ mà các bên đưa ra. Để quyết định giải quyết vụ việc của mình có sức thuyết phục thì Tòa án không thể không làm rõ những cơ sở của quyết định đó, tức là phải chứng minh những sự kiện làm cơ sở cho các kết luận của Tòa án. Mặt khác, mặc dù đương sự có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ trước Tòa án nhằm thuyết phục về những yêu cầu mà mình đưa ra là có căn cứ, song chứng cứ do các đương sự cung cấp không phải lúc nào cũng có độ chính xác tuyệt đối ( vì có thể có sự giả mạo hoặc nhầm lẫn). Dó đó, tòa án phải trực tiếp xem xét, phân tích, so sánh chứng cứ tại phiên tòa. Đây là nội dung chủ yếu, cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong hoạt động của tòa án. 6. Nghĩa vụ chứng minh của Viện kiểm sát. Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát có nghĩa vụ chứng minh là khi tham gia phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để bảo vệ cho quan điểm của mình là có căn cứ và hợp pháp. Viện kiểm sát tham gia hoạt động chứng minh một cách hết sức tích cực, nghĩa vụ của Viện kiểm sát do luật định. Trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, nếu thấy rằng việc xét xử của Tòa án là chưa khách quan, không có căn cứ, chưa công bằng thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì Viện kiểm sát phải tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên (Khoản 2 Điều 21) cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 hoặc những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 2 Điều 88, điểm b khoản 1 Điều 92. Khi đó, Tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm) trong 8 Luật tố tụng dân sự một thời gian luật định để tiến hành xem xét. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét thấy có căn cứ, Viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 251, khoản 5 Điều 287 BLTTDS, có quyền nghiên cứu hồ sơ (Điều 262), tham gia phiên tòa (khoản 2 Điều 264), có quyền phát biểu ý kiến... III. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện 1. Thực trạng a) Ưu điểm: Thứ nhất: Các quy định về chứng minh trong TTDS có nhiều điểm tiến bộ. +) Bảo đảm việc làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự như: quy định đúng các chủ thể chứng minh trong TTDS; quyền và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể. Mặt khác, các quy định hiện nay cũng rõ ràng hơn, hợp lý hơn, từ đó đã đề cao được trách nhiệm của các chủ thể khác trong việc thực hiện nghĩa cụ chứng minh của họ, tranh ỷ lại vào Tòa án. +) Lần đầu tiên, các sự kiện, tình tiết không phải chứng minh được quy định trong BLTTDS. Điều này giúp hướng các chủ thể chứng minh không mất quá nhiều thời gian, công sức vào những tình tiết không cần thiết. +) Bộ luật TTDS quy định rõ ràng trình tự, thủ tục chứng minh (cung cấp chứng cứ, tranh luận, …) đã tạo điều kiện cho các chủ thể chứng minh thực hiện được các quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình, góp phần giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Thứ hai: Vai trò chứng minh của các chủ thể ngày càng quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay. Và các chủ thể tiến hành cũng như tham gia tốt tụng dân sự ngày càng có có những hiểu biết hơn về nghĩa vụ chứng minh của mình. Điều này là do một số lý do như: Công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống tư pháp dựa trên sự lãnh đạo của Đảng; Xu thế của sự hội nhập; Quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn hiện nay ngày càng được quan tâm 9 Luật tố tụng dân sự 10 b) Hạn chế Hiện nay, nghĩa vụ chứng minh còn chưa được thực thi hiệu quả. Nhiều đương sự không biết mình có nghĩa vụ phải chứng minh hoặc không biết mình phải chứng minh bằng cách nào, v.v.. Phần lớn, những hạn chế đều xuất phát từ các quy định của BLTTDS: +) BLTDS quy định những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh nhưng không có các quy định về những tình tiết, sự kiện phải chứng minh. Điều này làm mất cân đối giữa các quy định của BLTTDS và ảnh hưởng đến việc chứng minh của các chủ thể. Bởi lẽ, dù là người chủ động cung cấp chứng cứ, nhưng các đương sự thường không có hiểu biết nhiều về pháp luật nên rất khó khăn trong việc xác định chứng cứ nào là cần thiết cho việc giải quyết vụ việc. +) Điều 6, Điều 85 BLTTDS hiện hành đã đề cao vai trò chứng minh của đương sự nhưng lại hạn chế sự chủ động của Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự; không đảm bảo cho Tòa án giải quyết nhanh và đúng đắn các vụ việc dân sự (ví dụ, trong trường hợp phát hiện thấy chứng cứ đang bị tiêu hủy). +) Điều 64 quy định rằng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp cho Tòa án nhưng lại không quy định những biện pháp thu thập chứng cứ mà họ được áp dụng. Liệu họ có được sử dụng các biện pháp của Tòa án không? Trong trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phía bên kia cho rằng việc thu thập chứng cứ đó không hợp pháp thì Tòa án căn cứ vào đâu để chấp nhận hay bác bỏ. +) Để đảm bảo cho các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh, Điều 7 và 385 BLTTDS quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cho đương sự và biện pháp xử lý với những trường hợp vi phạm. Tuy nhiên, những quy định này chưa cụ thể nên việc thực hiện quyền này của đương sự còn gặp rất nhiều khó khăn. Luật tố tụng dân sự 11 +) Các phương tiện chứng minh trong TTDS chưa được quy định, gây ra sự băn khoăn cho các chủ thể chứng minh trong việc xác định phương tiện chứng minh nào là hợp pháp hoặc không hợp pháp. +) Trách nhiệm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể chưa được BLTTDS quy định cụ thể. Điều 79 có quy định rằng đương sự phải chịu hậu quả về việc không thực hiện đúng nghĩa vụ này nhưng hậu quả đó là gì thì BLTTDS lại chưa quy định. Rất nhiều trường hợp, đương sự đợi đến xét xử phúc thẩm hoặc giai đoạn xem xét lại bản án có hiệu lực pháp luật mới đưa ra các chứng cứ mới. Việc này làm kéo dài thời gian tranh tụng, tốn kém tiền bạc của các bên. +) Theo quy định của bộ luật TTDS hiện hành thì các đương sự khó có thể thực hiện được quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Bởi lẽ, trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án dân sự khi các bên xuất trình chứng cứ mới hay những chứng cứ do tòa án thu thập được thì các bên đương sự chỉ có “quyền được biết” thông qua hoạt động sao chụp tài liệu, chứng cứ ở tòa án. Tuy nhiên, muốn sao chụp thì phải có đơn yêu cầu sao chụp các đối tượng cụ thể trong khi chính các đương sự cũng không biết rõ đối tượng đó là những gì. Vì vậy, đây là một quy định không thực tế. 2. Giải pháp Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự, trong đó có việc xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự là một trong những nhiệm vụ quan trọng về cải cách tư pháp nhằm thực hiện Nghị quyết 49NQ-TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra. Để phát huy hiệu quả trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể, pháp luật hiện hành cần có những sự thay đổi sau: Luật tố tụng dân sự 12 Thứ nhất: Đối với các quy định của BLTTDS còn chưa hợp lý +) Cần bổ sung các quy định về các tình tiết, sự kiện phải chứng minh, bao gồm: các tình tiết,sự kiện mà quan hệ giữa các bên phụ thuộc vào nó và việc giải quyết vụ việc dân sự. Trong đó, có cả các tình tiết mà các bên đương sự đưa ra làm cơ sở cho yêu cầu của mình hay phản đối yêu cầu của đương sự khác. +) Pháp luật cần có những quy định trong việc tạo điều kiện cho Tòa án chủ động quyết định áp dụng một số biện pháp thu thập chứng cứ như: chủ động lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; quy định các biện pháp bảo vệ chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tuy hủy mà sau này khó có thể thu thập được. +) Cần quy định cụ thể các phương tiện chứng minh được sử dụng trong TTDS bao gồm: lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản; tạp quán và các phương tiện khác mà pháp luật có quy định. +) BLTTDS nên có sự sửa đổi về quy định tại Điều 58 về ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ theo hướng tạo điều kiện hơn cho các đương sự, ví dụ quy định bắt buộc các bên đương sự khi cung cấp một chứng cứ mới cho tòa án để giải quyết yêu cầu của mình thì đồng thời với đó phải thông báo bằng văn bản hoặc có thể photo một bản cung cấp cho bên còn lại. Thứ hai: Đối với tòa án +) Tòa án có thể định cho đương sự một thời hạn để giao nộp chứng cứ. Hết thời hạn này mà không giao nộp thì phải nêu rõ lý do, nếu không sẽ phải chịu hậu quả, như: phạt tiền,… Nếu đương sự vẫn không giao nộp, khi Tòa án đã giải quyết xong vụ việc dân sự mới giao nộp để căn cứ vào đó kháng cáo, khiếu nại thì không được chấp nhận nữa. +) Cần thay đổi tư duy của Tòa án về nghĩa vụ chứng minh. Hiện nay các tòa án vẫn thường có quan niệm rằng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về phía đương sự, còn nghĩa vụ chứng minh thuộc về tòa án. Đây là quan niệm sai lầm. Luật tố tụng dân sự 13 Do đó, cần thiết phải để các đương sự tham gia vào đầy đủ các giai đoạn của hoạt động chứng minh từ thu thập, cung cấp đến nghiên cứu đánh giá chứng cứ mới có thể phát huy được vai trò quan trọng và trung tâm của họ. Tóm lại, cho dù thuộc chủ thể chứng minh nào thì các chủ thể cũng cần tự trau dồi cho mình một kiến thức pháp lý chắc chắn, một tinh thần chủ động cung cấp chứng cứ. Có như vậy, những chứng cứ đưa ra mới xác đáng, đúng trọng tâm; quá trình chứng minh vì thế cũng nhanh gọn giúp việc giải quyết vụ việc dân sự đạt hiệu quả cao. KẾT LUẬN Như vậy, có thể thấy rằng việc nhận thức một cách đầy đủ về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự của Việt Nam giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết. Đó là cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về nghĩa vụ chứng minh, góp phần tạo ra những cơ chế, biện pháp thiết thực, hữu hiệu để các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh có thể phát huy được hết khả năng tích cực của mình, đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được tiến hành khách quan, công bằng và hiệu quả. Luật tố tụng dân sự 14 MỞ BÀI................................................................................................................1 NỘI DUNG...........................................................................................................1 I. Khái quát chung.............................................................................................1 1. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự..............................1 2. Cơ sở của việc quy định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự....1 II- Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự..................................................3 1, Nghĩa vụ chứng minh của đương sự..........................................................3 2. Nghĩa vụ chứng minh của người đại diện của đương sự..........................5 3. Nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự........................................................................................................6 4. Nghĩa vụ chứng minh của cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác...................................................................7 5. Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án.............................................................7 6. Nghĩa vụ chứng minh của Viện kiểm sát...................................................8 III. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.............................................................9 1. Thực trạng.................................................................................................9 2. Giải pháp................................................................................................11 KẾT LUẬN........................................................................................................13 Luật tố tụng dân sự 15 Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại Học Luật Hà Nội, nxb Tư pháp, năm 2005. 2. Bộ luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2008 3. Nguyễn Công Bình. Các quy định về chứng minh trong TTDS. Tạp chí Luật học. Đặc san/ 2005 Luật tố tụng dân sự 4. http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/dan-su-to-tung-dansu/2010/8982/Hoan-thien-cac-quy-dinh-cua-Bo-luat-TTDS-nam-2005ve.aspx 5. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/09/04/3740-2/ 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan