Nghi thức thờ cúng Tổ Tiên
Nghi thức thờ cúng tổ tiên Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, trước
hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ v.v... là người
đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện
tại như các vị "Thành hoàng làng" các "Nghệ tổ". Không chỉ thế, tổ tiên còn là
những người có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm
như Trần Hưng Đạo đã thành "Cha" được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch
hàng năm. "Tháng 8 giỗ cha" ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả
"Thành hoàng" của nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng nên
làng, mà có khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm
"thành hoàng". Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là "Mẹ Âu Cơ",
còn là "Vua Hùng", là người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam.
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm
xác lập "mối liên hệ" giữa người sống với người chết, giữa người ở thế giới hiện tại
và thế giới tâm linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân sinh của người Việt Nam:
"sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn". Với người Việt Nam, chết chưa phải là
hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, "như tại" trên bàn thờ mỗi gia
đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong cuộc sống thường ngày. Nếu như tôn
giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con người về thế giới siêu
thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng con người về với quá khứ, song
lại rất coi trọng hiện tại và tương lai.
Đạo lý biết ơn và tiếp tục nối dõi truyền thống tổ tiên chỉ trở thành nội dung bên
trong của tín ngưỡng khi đạo lý được bộc lộ thông qua các nghi thức có tính chất
huyền bí, thiêng liêng. Các nghi thức thờ cúng tổ tiên ở nước ta tuy phần lớn phỏng
theo nghi lễ Nho giáo, nhưng lại có những yếu tố rất gần gũi với Phật giáo hay Đạo
giáo. Mặt khác với tính chất một tín ngưỡng dân dã, các hành vi lễ thức thường
được thực hiện theo tâm thức dân gian và cũng không hoàn toàn thống nhất ở các
gia đình, các địa phương.
Thời gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày lễ, tết trong
năm. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những ngày trong gia
đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu trâu, thi cử, đi xa, nhà có
người ốm đau... Thông qua nghi lễ thờ cúng, người Việt Nam gửi gắm tình cảm
biết ơn đối với tổ tiên. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" và vì "Cây có gốc mới nở cành
xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu". Trong mỗi gia đình tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành đạo lý "uống nước nhớ nguồn", thành "đạo
hiếu". Đạo hiếu là cái gốc của mỗi con người. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao,
nước nguồn cho nên phải hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn,
tiếc thương khi cha, mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức
quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam.
Thờ cúng tổ tiên trong gia đình và gia tộc mang đặc tính của cư dân nông
nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên
cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh (ông Hoàng) là
những người thân thích, chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình,
vị trí bàn thờ được sắp xếp theo quy định, ví dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền
chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ
tiên.... Trong các vị thần được thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp
xếp ngang hàng với tổ tiên. Thông thường ban thờ được đặt cao ở vị trí trang
trọng nhất, gian chính giữa của nhà trên. Đây là điểm khác biệt với một số dân tộc
khác ở Đông Á. Ở Hàn Quốc người ta chỉ lập bàn thờ và dán bài khi có việc cúng
giỗ, ở Nhật Bản vị trí trang trọng nhất trong nhà dành thờ Thần đạo (Shinto) còn
ban thờ tổ tiên lại lập ở gian phụ.
Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ thuộc vào
quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung bàn thờ gia
tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát hương, đĩa đèn, bình hoa,
chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình bình dân, đồ thờ thường được làm
bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các gia đình giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng
đồng. Bàn thờ gia tiên của ngành trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi trưởng
phức tạp hơn chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng
đơn giản hơn con trưởng.
Với trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các gia đình
chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ táo (với ý
nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Trên bàn thờ ở các từ
đường dòng họ còn có bài vị Thủy tổ của họ, bài vị có sự chuyển dịch. Khi thờ
cúng đến đời thứ năm thì thần chủ của đời này được đem chôn, vì thế mới có câu
“Ngũ đại mai thần chủ”. Các thần chủ đời sau được chuyển lên bậc trên, và tấm
thần chủ của ông mới nhất được thay vào vị trí “khảo”. Như vậy, các gia đình chi
thứ, ngành thứ, các vị tổ đời thứ tư, thứ ba chỉ được thờ vọng, mà chủ yếu thờ hai
đời gần nhất (ông bà, cha mẹ).
Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất phát
từ quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu. Không
chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…, không chỉ
trong những ngày lễ tiết như Tết nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ…,
các ngày Sóc(ngày mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị
tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử,
đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về
hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Có thể nói trong tâm
thức những người sống tổ tiên là bất tử. Người Việt dâng hương, làm lễ cúng tổ
tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công.
Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như
người
chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo
tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối
giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
Đồ lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng điều cơ
bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng
đặt ở trên cao, tại nơi trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng,
tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn thờ bày bát hương, chân đèn, bài vị hay
hình ảnh người quá cố.Bàn thờ được coi là những dấu vết còn lại của tín ngưỡng
thờ mặt trời và thần lửa. Chén nước trắng tinh khiết cũng được giải mã từ tục thờ
thần nước xa xưa. Có thể một triết lý quen thuộc của phương Đông cũng đã xuất
hiện ở đây: sự giao hòa âm dương. Bên cạnh chén nước, bình rượu (âm) cần đến sự
có mặt của hương lửa (dương). Cũng như khi hóa vàng (đốt mã), người ta cho rằng
phải đổ chén rượu hoặc nước lên đống tro thì người âm mới nhận được lễ. Theo
quan niệm dân dã, nén hương là chiếc cầu nối giữa tổ tiên và con cháu, nó có khả
năng chuyển tải lời thỉnh cầu của những người sống và chính mùi thơm thanh cao
của hương, hoa đã tạo ra được sự giao hòa giữa người hai cõi.
Sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn,
coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng bữa,
tức là đi ăn giỗ.
Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông bà,
cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên (những người
vừa mới mất được lập bàn thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải táng sạch sẽ mới được
phép thờ chung với tổ tiên. Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi thức rất được chú trọng
trong tâm lý người Việt.
Một biến thể của việc cúng giỗ là tục thờ "hậu" do nhà chùa hay đình làng
đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã cúng tiền hay ruộng vào chùa
hay đình để được hưởng lễ vật vào những ngày kỵ nhật.
Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự, gắn liền với
việc thờ cúng tổ tiên.
Ngày giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày mất của người thân trong gia đình hàng
năm thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta)
Gia tộc cũng có những qui định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ dòng họ.
Mặc dù đã qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ việc ghi chép
gia phả. Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng các chi, ngành, nhánh
buộc phải có mặt. Các con cháu khác tùy vào hoàn cảnh mà mang đồ tới góp giỗ.
Lễ giỗ Tổ được tổ chức chu đáo và duy trì đều đặn hàng năm.
Bên cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn phải kể thêm vào hệ
thống nghi thức tế lễ tổ tiên một hình thức Tảo mộ. Ngoài việc đắp thêm mộ trong
ba ngày (sau khi người thân chết), các gia đình, dòng họ thường đi thăm mộ, cúng
tế sửa sang mồ mả vào dịp Tết Thanh minh tháng ba. Việc cúng tế tại mộ thường
diễn ra đơn giản hơn nhiều so với cúng tại nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ
người thân người ta phải khấn cáo xin phép thổ công. Thăm nom sang sửa mồ mả
tổ tiên, một mặt là hình thức thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu, mặt khác bởi
quan niệm mồ mả vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của cả gia đình, gia tộc.
Người Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả không tốt, hướng không đúng thì con
cháu làm ăn sẽ lụi bại, không thể nào phát triển được.
Nghi thức tế tự của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gồm ba bộ phận, thứ nhất là tế tự
tại gia đình, thứ hai tế tự tại làng xóm (chủ yếu là tín ngưỡng thờ Thành hoàng) và
thứ ba tế tự quốc gia. Người Việt luôn tôn thờ công đức của cha ông, tộc họ, những
người đã khuất cùng huyết thống, đồng thời tôn thờ tất cả những người có công với
nước, với xóm làng, những anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa. Cũng trong hệ
thống ấy, với người Việt Nam tự bao đời nay ngày giỗ tổ Hùng vương luôn được
coi trọng, đó là sự tưởng nhớ, là sự trở về với cội nguồn của dân tộc. Từ truyền
thuyết bào thai trăm trứng đến sự tích Hùng Vương, người Việt đã dựng lên cho
ông Tổ của mình một lý lịch hoàn chỉnh, có cả ngày mất (kỵ). Theo Toan Ánh,
“trước đây hàng năm tại đền vua Hùng ở làng Cổ tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú
Thọ, có tổ chức quốc tế và có đại diện của triều đình tới đứng chủ tế trong ngày
giỗ. Dân chúng các nơi kéo về đền Hùng lễ tổ và ngay cả các tỉnh cũng có tế vọng
vua Hùng”. Vì thế, đó là ngày giỗ quan trọng nhất của người Việt Nam:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba
Mùng Mười tháng Ba hàng năm đã trở thành ngày giỗ của vua Hùng, thành
ngày hội tụ con cháu khắp mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Có thể nói ngày
giỗ tổ Hùng Vương là sự phát triển cao có tính chất trìu tượng hóa ý thức về cội
nguồn, bắt rễ sâu xa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã, trong gia đình và gia
tộc. Triết lý cội nguồn trên phạm vi quốc gia ấy cũng đã đóng góp một phần quan
trọng trong việc củng cố về mặt lý luận cho sự liên kết các quan hệ máu mủ thân
tộc. Nhà và nước, nước và nhà, nước mất thì nhà tan, nước giàu thì dân mạnh.
Chính vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam từ gia đình, dòng họ
đến Tổ quốc đã không ngừng được giữ gìn bảo tồn qua các bước thăng trầm của
lịch sử, bất chấp mọi mưu đồ, xâm lược đồng hóa của giặc ngoại xâm.
Lễ giỗ tổ Hùng vương Trong các hệ thống tín ngưỡng tôn giáo bản địa của
nước ta thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được coi là quan trọng bậc nhất. Ở đó ta
thấy được niềm tin của con người vào một thế giới bên kia, nơi có một cuộc sống
giống như thế giới mà chúng ta đang sống. Thông qua các nghi lễ thờ cúng con
người mong muốn có được sự che trở, giúp đỡ của tổ tiên, lúc nào trong tâm tưởng
họ tổ tiên cũng luôn theo sát.
- Xem thêm -