Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghi thức tang lễ của người việt theo công giáo nghiên cứu tại giáo xứ thái hà h...

Tài liệu Nghi thức tang lễ của người việt theo công giáo nghiên cứu tại giáo xứ thái hà hà nội

.PDF
77
74
121

Mô tả:

Phân tích cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo và quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của giáo xứ Thái Hà – Hà Nội. Phân tích các nghi thức diễn ra trong thánh lễ cầu hồn và an táng của người Công giáo Việt Nam và người Công giáo tại giáo xứ Thái Hà – Hà Nội, từ đó hiểu được giá trị nhân sinh và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ------------ NGUYỄN THỊ TRANG NGHI THỨC TANG LỄ CỦA NGƯỜI VIỆT THEO CÔNG GIÁO (NGHIÊN CỨU TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Người hướng dẫn: TS. Vũ Văn Chung HÀ NỘI - 2019 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” tại giáo xứ Thái Hà là một công trình nghiên cứu độc lập không có sự sao chép của người khác. Đề tài là sản phẩm mà tôi đã nỗ lực nghiên cứu trong quá trình học tập tại trường cũng như thời gian đi khảo sát, tham gia trực tiếp vào tang lễ của giáo dân tại khu vực và phỏng vấn sâu các tín hữu kitô tại khu vực quanh nhà thờ Thái Hà. Trong quá trình viết bài có sự tham khảo của một số tài liệu có nguồn gốc rõ ràng và tài liệu lưu hành nội bộ tại nhà thờ Thái Hà, dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Văn Chung. Tôi xin cam đoan nếu có vấn đề gì tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày…tháng…năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Trang 2 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được đề tài nghiên cứu báo cáo thực tập này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến TS. Vũ Văn Chung, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Triết Học, thầy cô trong chuyên ngành Tôn Giáo – Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm tôi học tập tại trường. Với vốn kiến thức đã được tiếp thu trong quá trình học tập không chỉ là nền tảng cho quá trình viết khóa luận mà còn là hành trang quý báu để tôi bước vào đời một cách vững chắc và tự tin. Tôi chân thành cảm ơn các quý Cha và cộng đoàn giáo xứ Thái Hà đã cho phép và tạo điều kiện thuận lời để tôi thực hiện đề tài nghiên cứu khóa luận tại giáo xứ. Cuối cùng tôi xin kính chúc quý thầy cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự nghiệp cao quý. Đồng kính chúc các anh (chị) em trong cộng đoàn giáo xứ Thái Hà luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt đẹp trong công việc. Hà Nội, ngày…tháng…năm 2019 Sinh viên Nguyễn Thị Trang 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 NỘI DUNG ............................................................................................................ 9 CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHI THỨC TANG LỄ CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁOVÀ VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI ....................... 9 1.1. Cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Công giáo ........................... 9 1.1.1. Quan niệm của người Công giáo về linh hồn và thể xác....................... 9 1.1.2. Những quy định về tang lễ trong Bộ giáo luật 1983 ........................... 15 1.2. Lịch sử hình thành, hoạt động và phát triển của giáo xứ Thái Hà – Hà Nội.... 19 1.2.1. Lịch sử hình thành giáo xứ .................................................................. 19 1.2.2. Hoạt động và phát triển của giáo xứ .................................................... 23 CHƯƠNG II: THÁNH LỄ CẦU HỒN VÀ AN TÁNG CỦA NGƯỜI VIỆT THEO CÔNG GIÁO VÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO TẠI GIÁO XỨ THÁI HÀ .... 28 2.1. Thánh lễ cầu hồn và thánh lễ an táng của người Công giáo Việt Nam ..... 28 2.1.1. Thánh lễ cầu hồn.................................................................................. 28 2.1.2. Thánh lễ an táng................................................................................... 32 2.2. Các nghi thức diễn ra trong tang lễ ở giáo xứ Thái Hà.............................. 33 2.2.1. Những nghi thức trước khi chôn cất người chết .................................. 33 2.2.2. Những nghi thức sau khi chôn cất người chết ..................................... 39 2.3. Giá trị và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam…. .................................................................................... 44 2.3.1. Giá trị ................................................................................................... 44 2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục ............................................................... 51 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 55 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 70 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong quan niệm về nghi lễ vòng đời của con người, cái chết là sự chuyển giao giai đoạn của một đời người. Do đó, việc chuẩn bị các nghi thức liên quan đến cái chết đóng vai trò quan trọng đối với mỗi dân tộc, mỗi gia đình, dòng họ và cá nhân. Tang ma có thể được xem là một trong những nghi thức quan trọng để bày tỏ tâm tình, sự kính trọng “đền ơn, đáp nghĩa” của người còn sống với người đã mất... Cũng là lúc để người thân trong gia đình, bạn bè tưởng nhớ về những việc mà người chết đã làm khi còn sống, là thời gian để chính họ suy ngẫm về cái chết của chính bản thân mình. Đồng thời còn là sự chuẩn bị của người sống tiễn đưa người qua đời về thế giới của vĩnh hằng. Đó là công việc bắt buộc phải làm và là trách nhiệm, bổn phận của con cái báo hiếu bố mẹ, ông bà, tổ tiên. Tùy vào từng tôn giáo, phong tục tập quán khác nhau, sự thay đổi của kinh tế, xã hội mà nghi thức tang ma ở mỗi nơi, mỗi vùng, thâm chí ngay trong cùng một tôn giáo lại được tổ chức và thực hành khác nhau, nhưng tất cả đều hướng đến thế giới tâm linh, với mong muốn người khuất được về nơi yên nghỉ, đến thế giới khác tốt đẹp hơn. Một điểm đặc biệt trong tang lễ của người Công giáo nói chung và người Việt theo Công giáo nói riêng là không mang màu sắc bi thương, đau buồn giống như tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam, mặc dù bị ảnh hưởng ít nhiều từ phong tục tang ma của người Việt. Thay vì đau buồn trước sự ra đi của người thân, sự mất mát của cá nhân, họ mang trong mình sự hy vọng, niềm tin mãnh liệt vào sự sống sau khi chết “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, tin vào linh hồn, tin ở sự công bình thưởng phạt của luật nhân quả luân hồi, và tin có thiên đàng địa ngục “ngay khi còn sống, con người đã mang trong mình sự chết, vì thế mà con người sẽ phải chết. Chết là một kết thúc của ta trong cuộc sống này, và mọi cái ta sở hữu cũng đều chấm dứt” (x. Hc 41, 1). 1 Niềm tin này đôi khi bị cho là mê tín dị đoan. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận tác dụng tích cực của niềm tin này đối với đạo đức xã hội Việt Nam ngày nay. Bởi lẽ, nhờ có niềm tin con người mới cố gắng sống tốt hơn, tích cực làm điều thiện nhiều hơn và tránh làm những điều ác ngay cả khi một mình nơi thanh vắng “Sự chết nhắc nhở ta về bản chất thật ngắn ngủi, thật mong manh phù du của đời sống con người trên dương thế. Đứng trước định mệnh khắt khe đó, người ta dễ có một nhận định sầu thảm đôi khi sinh ra một thất vọng chán chường” (x. Sm 12, 23). Và cũng chính vì niềm tin mãnh liệt vào sự sống sau cái chết mà người Công giáo tôn trọng hình thức án táng (hay còn gọi là chôn cất) người quá cố, để thi hài người quá cố được nguyên vẹn cho đến ngày phán xét của Chúa.Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, diện tích đất để xây dựng phần mộ, chôn cất người quá cố dần bị thu hẹp do đất đai phải sử dụng cho những mục đích kinh tế, chính trị.Vì vậy, những năm trở lại đây, nhà nước Việt Nam khuyến khích người dân lựa chọn hình thức hỏa táng người chết để hạn chế tối đa việc sử dụng đất canh tác, đất phát triển công nghiệp. Hỏa táng là một hình thức rất hợp vệ sinh, bảo vệ được môi sinh, lại giảm bớt được rất nhiều công đoạn như xây mộ, tảo mộ, bảo quản mộ, cải táng, di dời… Cho nên việc hỏa táng càng ngày càng được phổ biến rộng rãi. Hình thức hỏa táng không được đề cập đến trong Kinh Thánh. Kinh Thánh chỉ nói tới việc Thiên Chúa chấp nhận hỏa táng như một cách để bảo vệ di cốt của người chết. Thế nhưng, để đáp ứng với tình hình thực tế, năm 1963, hỏa táng đã được Giáo Hội nhìn nhận là cách mai táng hợp pháp“hỏa táng tự thân không đi ngược với truyền thống Ki-tô giáo.” Hỏa táng thực chất không ảnh hưởng gì đến sự phục sinh thân xác của niềm tin Kitô, bởi “thân cát bụi phải trở về cát bụi” (St 2,7; 3, 19). Nó cũng không làm di hại đến lòng tôn trọng thi hài người quá cố hay gián đoạn các cử hành hậu sự. Hỏa táng chỉ là việc dùng nhiệt độ cao để đẩy nhanh tiến trình phân rã và trở về cát bụi của thân xác vật chất mà thôi. Ngày tận thế, mọi người đều sẽ trỗi dậy mà chịu 2 phán xét chung; không một không gian hay khoảng cách nào có thể giam cầm hay tách lìa họ được, vì chẳng có gì chống trả được ý Chúa (x. Kh 20,11-13; 1Cr 15, 23-28.35-38). Qua nghi thức tang ma của người Việt theo Công giáo ta có thể giải mã được thế giới tâm linh của những người có đức tin từ đó ứng dụng những quan điểm tích cực, những nghi thức tang ma tiến bộ, phù hợp của họ vào xã hội Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là trong tình hình văn hóa – tư tưởng đang xuất hiện nhiều những quan điểm, tư tưởng dị bản ngầm phá hoại đi nét đẹp văn hóa, phong tục của người Việt, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần và vật chất của người Việt nói chung và các tín đồ Công giáo nói riêng.Điều này cũng thể hiện rõ ý thức và trách nhiệm của đồng bào các tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng trong việc thực hiện luật pháp Nhà nước và nếp sống văn minh, gia đình văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Theo đúng tinh thần của Quyết định số 308/2005/QĐ - TTG, của Thủ tướng Chính Phủ về Ban hành quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Quyết định này nêu rõ: “Điều 6. Tổ chức việc tang phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về hộ tịch, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; việc tang cần được tổ chức chu đáo, trang nghiêm, gọn nhẹ, tiết kiệm; khi đưa tang phải tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn giao thông và trật tự an toàn công cộng; hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường; không rắc tiền giấy hoặc tiền xu trên đường; thực hiện những quy định trong hương ước, quy ước của địa phương về việc tang. Việc quàn, chôn cất, hoả táng, điện táng, bốc mộ và di chuyển thi hài, hài cốt phải thực hiện theo quy định tại Điều lệ Vệ sinh ban hành kèm theo Nghị định số 23/HĐBT ngày 24 tháng 11 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Điều 7. Tang phục; cờ tang và treo cờ tang theo phong tục truyền thống của từng vùng, miền, dân tộc, tôn giáo. 3 Điều 8. Khuyến khích thực hiện các hình thức sau trong việc tang: 1. Sử dụng băng, đĩa nhạc tang thay cho phường bát âm. 2. Hạn chế mang vòng hoa. 3. Các hình thức hoả táng, điện táng. 4. Các tuần tiết trong việc tang như lễ cúng 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giỗ đầu và cải táng nên tổ chức trong nội bộ gia đình, họ tộc, bạn thân” [37]. Từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” (Nghiên cứu tại Giáo xứ Thái Hà – Hà Nội). Lấy bối cảnh giáo xứ Thái Hà thuộc Giáo Hạt Hà Nội là khu vực nghiên cứu, bởi đây là một giáo xứ có lịch sử thành lập hơn 80 năm gắn liền với những thằng trầm của giáo hội Công giáo và gắn chặt với lịch sử Việt Nam trong suốt gần một thập kỷ. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến Nghi thức tang ma của người Việt theo Công Giáo đã có rất nhiều nghiên cứu của các tác giả thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu dưới đây: Có thể nói, nghi thức tang ma là một trong những nghi thức quan trọng đối với đời sống của người Việt. Nó chi phối đời sống người Việt ở nhiều lãnh vực trong sinh hoạt hàng ngày. Mặt khác nghi lễ tang ma là một yếu tố mang yếu tố tâm linh, tính bản địa, bản sắc văn hóa của khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng thời nó là một đề tài gây tranh luận sôi nổi của hầu hết các tôn giáo khác nhau như: Ki-tô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Đạo giáo, Phật Giáo, Nho giáo, Thần giáo, Do Thái giáo… Và ngày nay nó vẫn còn là vấn đề nan giải đối với các nhà khoa học: “Thờ cúng tổ tiên trong lịch sử truyền giáo” của Đỗ Quang Hưng trong bài tham luận tại Toạ đàm về Tôn kính tổ tiên, Huế. Hay Giáo Hội Công Giáo, “Các nghi thức”, thuộc nhà xuất bản Tôn giáo. Hội đồng Giám mục Việt Nam “Sống đạo theo cung cách Việt Nam”… 4 “Tài liệu hội thảo mùa phục sinh”. Mai Diệu Anh (2011), “Một số vấn đề hội nhập nghi lễ Công giáo với tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên người Việt hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo.Nguyễn Hồng Dương (2011), “Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam, lịch sử - hiện tại và những vấn đề đặt ra”,… ở mỗi khía cạnh nào đó đều bàn đến thế giới tâm linh, đặc điểm nghi thức tang ma của cộng đồng người Việt theo Công giáo. Cuốn sách “Cẩm nang các nghi thức Bí tích và Á bí tích” của linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, thuộc giáo phận TP. Hồ Chí Minh, nxb 2003, hay cuốn “Giờ Chúa gọi nghi thức viếng xác và cầu hồn”, nxb Tôn giáo 2010, “Nghi lễ An táng và Thánh Lễ Cầu Hồn” (UBGM.PV)… đưa ra đầy đủ các bước diễn ra nghi thức Phụng Vụ và trong đó bao gồm cả Thánh Lễ tang lễ của người theo Công giáo, tuy nhiên, cuốn sách chỉ có thể giúp người sử dụng biết được các bước diễn ra nghi thức chứ không đi sâu vào phân tích ý nghĩa, mục đích của việc thực hiện các nghi thức đó. Cuốn sách Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo, PGS. TS. Nguyễn Hồng Dương chủ biên, nxb Từ Điển Bách Khoa, 2010; hay cuốn Công giáo trong văn hóa Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Hồng Dương, nxb Văn Hóa Thông Tin, 2001… đã nói tới vấn đề Tang Lễ và những nghi thức tang ma của người Việt theo Công giáo, tuy nhiên chỉ dừng lại ở một số khu vực ít bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của kinh tế, chính trị, xã hội hay một vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, tất cả các tác phẩm trên đều chưa đi sâu được vào bản chất, tính riêng của các nghi thức diễn ra trong tang ma, giá trị nhân sinh trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích và làm rõ quan niệm của người Công giáo về thể xác và linh hồn có thể hiểu được ý nghĩa của các nghi thức diễn ra trong Thánh lễ An Táng của người Việt theo Công giáo và từ đó thấy được giá trị nhân sinh trong nghi thức tang lễ của người Công giáo ở Việt Nam. 5 3.2. Nhiệm vụ - Thứ nhất: Phân tích cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo và quá trình hình thành, hoạt động và phát triển của giáo xứ Thái Hà – Hà Nội. - Thứ hai: Phân tích các nghi thức diễn ra trong thánh lễ cầu hồn và an táng của người Công giáo Việt Nam và người Công giáo tại giáo xứ Thái Hà – Hà Nội, từ đó hiểu được giá trị nhân sinh và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu quan niệm của người Công giáo về thể xác và linh hồn từ đó phân tích đặc điểm, ý nghĩa và tiến trình vận hành của các nghi thức diễn ra trong tang lễ của người Việt theo Công giáo. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận giới hạn trong phạm vi là cộng đồng tín đồ người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà – Hà Nội (địa chỉ: 180/2 Nguyễn Lương Bằng – Quang Trung – Đống Đa – Hà Nội) trong khoảng thời gian từ năm 2015 – 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện dựa trên cở sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam về quy định tang lễ của các tôn giáo ở Việt Nam. Đề tài cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đến khóa luận trong những năm gần đây. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài tôi quan tâm là “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” (nghiên cứu tại khu vực giáo xứ Thái Hà – Hà Nội). Để thực hiện mục đích nghiên cứu đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: 6 Khảo sát – tham gia: là tiến hành những cuộc điều tra, khảo sát trong nghiên cứu khoa học. Đi điền dã giúp cho việc thu thập tư liệu và điều tra thực tế được chuẩn xác nhất để phục vụ cho đề tài của mình. Quan sát: là cách thu thập dữ liệu, thông tin cần thiết cho một đề tài nghiên cứu, tìm hiểu nghi lễ tang ma ở một giáo xứ thì việc quan sát giúp đề tài có được góc nhìn khách quan và khái quát nhất. Phỏng vấn sâu: là quá trình thu thập thông tin nghiên cứu bằng các cuộc đối thoại có chủ đích với các thành viên trong cộng đồng kitô hữu, từ đó thâm nhập vào đời sống ki-tô mà không mất quá nhiều thời gian tìm kiếm thông tin, được tham dự vào cuộc sống của thông tín viên thông qua việc lắng nghe, chia sẻ, ghi nhận những thông tin chân thành. Phương pháp so sánh, đối chiếu: là phương pháp dùng hai hay nhiều các chỉnh thể so sánh với nhau để thấy điểm giống và khác nhau, tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng. Trong bài nghiên cứu tôi so sánh giữa tang ma người theo Công giáo và người không theo Công giáo trong phạm vi giáo xứ Thái Hà tìm ra được cái tương đồng và khác biệt trong quan niệm về hồn và sự tồn tại của hồn sau khi chết và hình thức thể hiện tấm lòng của người sống đối với người đã khuất cũng như trong một số nghi lễ cụ thể diễn ra của đám tang. 6. Đóng góp chính của khóa luận - Khóa luận làm sáng tỏ quan niệm về linh hồn và thể xác của người Công giáo - Khóa luận phân tích được đặc điểm, ý nghĩa và tiến trình vận hành của các nghi thức diễn ra trong tang lễ của người Việt theo Công giáo. - Khóa luận chỉ ra được giá trị nhân sinh và những tồn tại cần khắc phục trong nghi thức tang lễ của người Công giáo ở Việt Nam. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận Đề tài khóa luận khái quát một cách hệ thống quan niệm về linh hồn và thể xác của những người có niềm tin tôn giáo, từ đó hiểu được ý nghĩa và tiến 7 trình vận hành của các nghi thức diễn ra trong một đám tang của người Công giáo ở Việt Nam. 8. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài khóa luận “Nghi thức tang lễ của người Việt theo Công giáo” tại giáo xứ Thái Hà gồm 2 chương, 5 tiết. 8 NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHI THỨC TANG LỄ CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ VÀI NÉT VỀ GIÁO XỨ THÁI HÀ – HÀ NỘI 1.1. Cơ sở hình thành nghi thức tang lễ của người Công giáo 1.1.1. Quan niệm của người Công giáo về linh hồn và thể xác Kinh Thánh bộc lộ rất rõ quan điểm về con người và linh hồn, đặc biệt khi đứng dưới góc nhìn của Tân Ước: Con người là một hữu thể thuộc về vũ trụ, có thể chất và tồn tại trong một thân xác hay huyết nhục cụ thể, bên cạnh đó, con người cũng đồng thời là một sinh vật. Hữu thể con người không tự đủ cho chính mình, có vô số những khát vọng, nhu cầu về tình cảm, sự biểu lộ cảm xúc, thái độ khác nhau, con người cũng có khả năng lý luận, suy tư, lập kế hoạch và đề ra quyết định, và điều quan trọng là con người có khả năng tiếp nhận sự tác động từ Thiên Chúa, có khả năng tiếp nhận sự sống từ nơi Thiên Chúa, khả năng có được một tâm hồn chính trực. Khả năng của con người không phải là điều gì tự sức của con người có được và có thể sở hữu như của riêng mình mà đó là do “thần khí” của Thiên Chúa, chính năng lực của Thần Khí Người làm cho con người trở nên mạnh mẽ. Thần khí là thực tại thần linh, Thần khí biểu thị quyền năng mà Thiên Chúa có thể thi thố bất cứ khi nào. Trong Tân Ước, Thần Khí được mặc khải như Đấng liên kết khăng khít với Chúa Cha và Chúa Con trong việc thực hiện công trình cứu độ. Trong Cựu ước lẫn Tân ước, nhất là trong các thư của thánh Phaolô, không phải lúc nào cũng dễ dàng phận biệt được ý nghĩa đích xác của hạn từ “thần khí”, xét như một khái niệm nhân học thì “thần khí là một quan năng để tiếp cận Thiên Chúa” [56; tr. 159]. Một nét đặc trưng của Tân ước nói chung và đặc biệt của các văn phẩm Phaolô, đó là sự đối lập giữa thần khí và xác thịt (xc. Mt 26,41; Mc 14,38; Ga 3,6; 6,36; Rm 8,1-11, Gl 5,16-26,). Một bên là “thần khí”, tức 9 quyền năng Thiên Chúa được thông ban cho con người, ngược lại, bên kia là “xác thịt” bị coi như sự yếu đuối của con người. Và “linh hồn” chính là “thần khí” (F. Âme; L. Anima; E. Soul), các tôn giáo đều cho rằng linh hồn là phần chính cốt, phần thiêng liêng của mỗi con người, chính linh hồn hình thành lên cuộc sống, năng lực và nhân cách của mỗi con người: linh hồn ở bên ngoài phần xác thịt, tồn tại mãi ở thế giới bên kia, cả sau khi phân xác thịt đã tan rữa thành tro bụi. Đức tin và linh hồn có từ thời xa xưa, trong cách lý giải theo thuyết vật linh về các hiện tượng tự nhiên, như hơi thở, giấc mơ, cái chết… Khái niệm linh hồn gắn liền với giáo lý về Chúa. Chúa ban tặng linh hồn cho con người từ khi sinh ra ở đời. Giáo lý về linh hồn đã đánh lạc hướng tín đồ khỏi nỗi đau khổ hàng ngày, giải thoát khỏi mọi sự áp bức bằng con đường cứu độ, mong đợi lên thế giới Thiên Đàng. Trong Tân ước, xuất hiện trong lời nói của Đức Giêsu về sự đối lập giữa phần xác – phần hồn “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Linh hồn được gắn với sự bất tử, khi nhắc đến linh hồn của những người quá cố. Linh hồn không thể cắt nghĩa được dựa theo cấu tạo sinh lý giống như phần xác con người. Trí khôn nói cho ta rằng: “phải có một nguyên lý linh thiêng nối kết với xác, mà không vì thế cũng giống y như xác. Ta gọi là “hồn”. Mặc dù không thể dùng khoa học để chứng minh là có linh hồn, tuy nhiên nếu không đếm xỉa tới cái yếu tố linh thiêng làm chủ vật chất này, ta không thể hiểu được rằng con người là một hữu thể linh thiêng”. (153154,163), vì lẽ đó “hãy làm điều gì tốt cho xác bạn, để hồn bạn được vui vẻ ở trong xác.” Trích lời Thánh Têrêsa Avila (1515-1582), nhà thần bí Tây Ban Nha, tiến sĩ Hội Thánh. Và Đức Bênêđictô XVI, Deus Caritas est cũng khẳng định rằng: Con người chỉ thực sự là con người khi hồn và xác hiệp nhất sâu xa với nhau. Nếu con người chỉ muốn là tinh thần và muốn từ bỏ thể xác phàm tục thì cả tinh thần lẫn thể xác đều mất hết phẩm giá. Ngược lại, con người 10 muốn từ bỏ tinh thần và coi trọng vật chất, coi thân xác như thực tại duy nhất của mình thì họ cũng tự làm mất đi giá trị cao cả của mình. Linh hồn là cái làm cho ta trở thành một con người. Nhờ linh hồn, con người có thể xác nhận cái "Tôi" của mình, và đứng trước Thiên Chúa như một cá thể không ai thay thế được. Vì linh hồn không phải là vật chất, nên chúng ta không thể tách ra từng phần và phần thiêng liêng của mỗi con người chỉ có thể hiện hữu qua hành vi tạo dựng trực tiếp của Thiên Chúa. Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan viết vào những năm 30 trước công nguyên tại Alexandria, đã đề cập đến linh hồn con người, đó là “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an” (Kn 3 1-3). Kinh Nghĩa Đức Tin đã viết: “Linh hồn thiêng liêng chẳng hề chết được. Và đến ngày tận thế, xác loài người ta sẽ sống lại mà chịu phán xét, kẻ lành lên Thiên đàng hưởng phúc đời đời, kẻ dữ sa Hỏa ngục chịu phạt vô cùng” [27; tr. 35]. Và trong Kinh Tin Thánh cũng có đoạn viết về sự sống sau cái chết. Người Việt theo Công giáo cũng tin rằng giữa những người đang sống và những người khuất vẫn có mối liên hệ qua lại. Các Thánh sẽ cùng Thiên Chúa phù hộ cho những người sống. Người sống tạo lập các công phúc nhằm giúp các linh hồn chuộc những tội lỗi đã phạm phải khi còn ở trần gian, có thể lên Thiên Đàng và lại cùng Thiên Chúa phù hộ cho chính người sống. Chết là khi linh hồn rời khỏi xác. Linh hồn mang tính thiêng liêng chẳng hề tan biến. Linh hồn ngay khi rời khỏi xác thịt con người phải đến trước tòa Đức Chúa Giêsu mà chịu phán xét riêng về tội phúc mà chịu thưởng phạt tùy theo việc lành, dữ mình đã làm khi còn ở thế gian. Sau khi nhận sự phán xét của Chúa, những người sạch tộicùng những người đã đền tội cho đủ 11 mới được lên Thiên đàng. Thiên đàng là nơi chứa đựng sự thanh nhàn vui vẻ đời đời, mà phúc nhất trên Thiên đàng là được chiêm ngưỡng dung nhan Đức Chúa.Những người lành, nhưng còn mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, thì phải chịu phạt nơi luyện ngục. Có thể cứu rỗi linh hồn từ luyện ngục bằng cách người thân của họ cầu nguyện và làm lễ cho các linh hồn. Những người chỉ cần phạm tội trọng là đã phải chịu hình phạt hỏa ngục. Hỏa ngục là chốn hình khổ, để mà phạt ma quỷ cùng những kẻ chết đang khi mắc tội trọng. Những kẻ đã bị xa vào hỏa ngục thì không thể cứu giúp và hình phạt không thể giảm bớt. Quan niệm về sự chết, sự sống, về phần hồn, phần xác là những tín điều mà mọi giáo dân Công giáo đều tin theo. Đối với người Kitô hữu, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết rằng: Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có được sự sống đời đời, và sẽ cho họ sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết. Công đồng Vatican II đã nói lên tình trạng của con người trước cái chết như sau: Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên đến tột độ. Con người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời... Mọi cố gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi ngoai được nỗi lo âu của con người, bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không thể thỏa mãn được khát vọng cuộc sốngtrong lòng con người. Trước cái chết, óc tưởng tượng của con người đành bất lực. Nhưng Mạc khải của Thiên Chúa quả quyết rằng con người được Chúa dựng nên để đạt tới cứu cánh hạnh phúc sau những khổ cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo còn dạy rằng giả như con người không phạm tội, thì đã không phải 12 chết; sự chết này sẽ bị đánh bại khi Đấng Cứu Thế toàn năng và nhân ái mang lại cho con người sự cứu rỗi mà vị tội lỗi, họ đã đánh mất. Bởi vì Thiên Chúa đã và đang kêu gọi con người đem toàn thân kết hợp với Ngài trong sự hiệp thông vĩnh viễn vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại và nhờ cái chết của Người, Người đã giải phóng con người khỏi sự chết. Vậy đức tin với những lý chứng vững chắc đem lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số phận tương lai của mình. Đồng thời đức tin còn cho con người khả năng hiệp thông với những anh em thân yêu đã chết trong Chúa Kitô, và làm cho họ hy vọng rằng những người ấy đã được sống thực sự nơi Thiên Chúa (GS 18). Thật vậy, để giải thoát ta khỏi quyền lực Thần chết, trước tiên Đức Kitô đã đến để nhận lấy cho mình số phận tử vong của chúng ta. Ngài thực hiện thánh ý của Chúa Cha là muốn cứu độ tất cả mọi người. Ngài đã chết “vì chúng ta” (1 Tx 5, 10), “cho tội chúng ta” (1Cr 15, 3) để làm hy tế xá tội (x. Dt 9). Nhờ cái chết của Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa x. Rm 5, 10), hầu có thể lãnh nhận gia nghiệp muôn đời (x. Dt 9, 15). Ngài đã chiến thắng tử thần bằng sự phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 4), nên quyền lực của Thần chết từ đó đã bị vô hiệu hóa (x. Rm 6, 9). Kể từ giây phút đó, tương quan của con người với sự chết đã thay đổi, vì từ nay Đức Kitô chiến thắng sẽ luôn chiếu soi “những người ngồi trong bóng sự chết” (Lc 1, 79). Nếu bạn đã sống với mọi khoảnh khắc mà Chúa ban cho bạn, thì bạn sẽ không còn than vãn và khóc lóc khi cái chết cận kề... Những người đã chết một cách hạnh phúc là những người từng nỗ lực để sống. Qua việc phục sinh, Ngài trở thành thủ lĩnh của một nhân loại, Ngài cũng sẽ mang tất cả nhân loại đi vào cái chết và đến với sự phục sinh giống như Ngài. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: “Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa”. Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi 13 thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự. Ngoài những lý lẽ suy luận của trí khôn nói trên, những tín hữu Ki-tô còn có một lý lẽ chắc chắn khẳng định có đời sống vĩnh cửu sau khi chết dựa vào mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh, đặc biệt, họ tin vào lời giảng dạy của Đức Giê-su về đời sống của con người sau khi chết rằng: Linh hồn con người sau khi chết sẽ chịu sự phán xét của Chúa về những việc mình đã làm khi còn sống. Đến ngày tận thế, thì mọi xác chết đều được Thiên Chúa dùng quyền phép của mình mà cho sống lại để cùng chịu phán xét và chung số phận với linh hồn. Suy ngẫm về sự chết là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu, để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm, làm thế nào để khẳng định về chính mình như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế“Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 39). Mối quan hệ qua lại giữa người sống với các linh hồn và Thiên Chúa chính là cơ sở niềm tin của sự chuyển giao công trạng. Người sống thờ kính những người đã khuất để bày tỏ lòng biết ơn của mình với họ vì những gì họ đã làm cho con cháu khi còn sống và cả những điều họ sẽ cùng Chúa ban phúc cho con cháu sau khi chết. Như vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, linh hồn và thể xác sẽ hiệp thông với nhau, cái chết của con người không mang tính chết chóc, nhưng là một định hướng cho cuộc sống mới. Điều này thể hiện rất rõ qua các nghi thức diễn ra trong Thánh lễ An táng của người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà. 14 1.1.2. Những quy định về tang lễ trong Bộ giáo luật 1983 Lễ tang là một việc quan trọng và phức tạp trong đời sống xã hội con người, tùy vào từng tín ngưỡng, tôn giáo lại có cách lý giải xung quanh cái chết và cách xử lý xác người chết như thế nào. Ngay thời sơ khai, nhiều tôn giáo đã cho rằng con người sống chỉ là gửi, chết mới là về chốn lâu dài; sau khi chết, con người vẫn tiếp tục sống một cuộc sống như trước, linh hồn họ vẫn ở lại với người đang sống, hoặc ở lại một nơi nào đó, hoặc tiếp tục sống tại thế giới bên kia. Nhưng dù ở đâu, linh hồn người chết vẫn ảnh hưởng đến những người đang sống. Quan niệm như vậy, cho nên đối với Giáo hội Công giáo, lễ tang có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh và lễ tục vòng đời. Vì vậy, việc cử hành lễ an tang của người Việt theo Công giáo được ghi chép lại khá cụ thể trong cuốn “Bộ Giáo Luật 1983” của nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội 2004, hay trong cuốn sách “Nghi thức An táng Công giáo” – Order of Christian Funerals, viết tắt là OCF được ấn hành năm 1989, là ấn bản Anh ngữ được Tòa Thánh phê chuẩn theo quy định của giáo luật. Ấn bản bằng tiếng Tây Ban Nha El Ritual de las Exequias Cristianas, được phê chuẩn vào năm 2011, đã được chấp thuận sử dụng trong các giáo phận tại Hoa Kỳ. Lễ tang được tổ chức muôn hình vạn trạng khác nhau trong lịch sử các dân tộc, bộ lạc, Lễ tang gồm các hình thức xử lý với thây người chết ( như thiêu, chôn sâu có hoặc không cải táng,…), làm các nghi lễ, cầu nguyện, khấn cúng, làm các “phép” cho người chết siêu thoát, làm các công trình trên mộ, tưởng nhớ người mất. Và đương nhiên mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại xếp đặt và chọn lựa nhiều hinh thức xử lý khác nhau theo nguyên tắc giáo lý riêng của mình, nhằm đi tới những hiệu quả khác nhau trong đời sống tâm linh của tín đồ đạo mình. Đối với lễ tang của người Việt theo Công giáo, các nghi thức diễn ra trong một tang lễ là công việc cử hành của cộng đoàn Kitô hữu, của người thân trong gia đình nhằm bày tỏ nỗi đau buồn, đồng thời nói lên niềm hy vọng 15 khi hướng về cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Trước cái chết của một người Kitô hữu vốn đã sống cuộc đời được khởi sự từ nước Thánh Tẩy và được củng cố nơi bàn tiệc Thánh Thể, Giáo Hội thay mặt người mới qua đời dâng lời chuyển cầu. Việc tổ chức tang lễ là trách nhiệm của Giáo Hội nhằm xoa dịu những người đang đau buồn và an ủi họ bằng nghi thức an táng với sự nâng đỡ của Lời Chúa và với bí tích Thánh Thể. Vì vậy, việc phân tích rõ những quy định về việc cử hành tang lễ và quy tắc phụng vụ diễn ra sẽ giúp chúng ta có cái nhìn hoàn thiện hơn về tang lễ của người Công giáo. Cộng đồng người Việt theo Công giáo tại giáo xứ Thái Hà chấp hành Giáo Luật mà Giáo Hội Công Giáo bàn hành, đồng thời, chấp hành đúng những quy định của Nhà nước về luật tang lễ, vì vậy, việc cử hành tang lễ về cơ bản vẫn theo một trình tự nhất định và các tín hữu tại giáo xứ Thái Hà hầu hết lựa chọn hình thức tang lễ cho người quá cố bằng hình thức Hỏa Táng. Việc cử hành lễ an táng được Giáo luật Công giáo quy định tại: - Điều 1177: Thường lệ, lễ an táng cho một tín hữu quá cố phải cử hành tại nhà thờ giáo xứ của người ấy. Tuy nhiên, mọi tín hữu hay những người lo tang lễ cho tín hữu quá cố, được phép lực chọn một nhà thờ khác để cử hành lễ an tang, miễn là được vị quản đốc nhà thờ đồng ý, và phải thông báo cho Cha Sở riêng của người quá cố biết. Nếu ai chết ở ngoài giáo xứ riêng, và thi hài không được đem về đó, cũng không có nhà thờ nào được chọn lựa hợp lệ để cửa hành tang lễ, thì lúc đó phải cử hành lễ an tang tại nhà thờ của giáo xứ nơi người ấy chết, trừ khi luật địa phương chỉ định thể khác.” - Điều 1178: “Lễ an táng của Giám mục giáo phận phải được cử hành tại nhà thờ chính tòa của giáo phận, trừ khi chính ngài đã chọn một nhà thờ khác”; - Điều 1179: “Lễ an táng của các tu sĩ hay các phần tử của tu đoàn tông đồ thường được cử hành tại nhà nguyện hay nhà thờ riêng, do cha Bề trên, nếu đó là dòng tu đoàn giáo sĩ và do cha Tuyên úy trong những trường hợp khác”. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan