1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1987, đời sống văn học Việt Nam
có nhiều thay đổi. Sự chuyển tiếp từ thời chiến sang thời bình với những quy
luật bình thường của nó, ảnh hưởng của công cuộc đổi mới tư duy mà Đảng
khởi xướng, những vấn đề bức thiết cộm lên trong lịch sử dân tộc thời hậu
chiến và một độ lùi thời gian tương đối thích hợp… là những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến những thay đổi quan trọng của văn học. Cùng với sự đổi mới của
Đảng, các phương tiện đời sống văn học như tác giả, tác phẩm, các hoạt động
sáng tác, lí luận, phê bình… đều có sự chuyển biến tích cực. Có thể khẳng
định đây là giai đoạn văn học phát triển sôi động nhất - một giai đoạn đang
phát triển và chưa hoàn thành.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 đến
nay, truyện ngắn là một trong những thể loại gặt hái được nhiều thành tựu đáng
kể. Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đã nhận ra xu hướng vận động mới - xu
hướng của những tìm tòi sáng tạo, của những lối viết hoàn toàn mới mẻ, người
nghệ sĩ đã được “cởi trói” trong sáng tạo. Hòa vào dòng chảy ấy, ta thấy xuất
hiện một nữ văn sỹ có cá tính sáng tạo độc đáo - nhà văn Võ Thị Hảo.
- Võ Thị Hảo xuất hiện trên văn đàn vào những năm đầu của thập kỷ 90
thế kỷ XX với sáng tác ở thể loại thơ và truyện ngắn. Trong những năm gần
đây chị còn thể nghiệm ngòi bút ở cả tiểu thuyết và kịch bản phim. Truyện
ngắn là lĩnh vực mà nhà văn nữ này đã có nhiều thành công, được độc giả hào
hứng đón nhận. Nghiên cứu truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn trẻ hiện nay
rất được chú trọng nhưng cho đến nay truyện ngắn của Võ Thị Hảo vẫn chưa
được quan tâm và nghiên cứu một cách có hệ thống. Đây vẫn là một “mảnh
đất trống” cần được khai phá.
2
Cùng với những tên tuổi như Nguyễn Bình Phương, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh…, Võ Thị Hảo là nhà văn góp phần tạo ra
xu hướng cách tân trong nền Văn xuôi Việt Nam đương đại. Các nhà văn này
đã mang vào văn học hơi thở của cuộc sống và con người hiện đại. Để làm
được điều đó, trước hết họ phải tự làm mới chính mình. Cùng với một quan
niệm mới mẻ về hiện thực là một văn phong táo bạo, đổi mới trong nghệ thuật
thể hiện.
- Nhà văn Võ Thị Hảo, “người kể chuyện cổ tích hiện đại”, đã cho ra
mắt độc giả yêu thích văn chương những tác phẩm đi cùng năm tháng. Trong
các tác phẩm, chị có lối kể chuyện cuốn hút, có duyên với văn phong sắc sảo,
vừa quen vừa lạ, ảo thực lẫn lộn. Tuy nhiên, đến nay các công trình nghiên
cứu về truyện ngắn của nhà văn Võ Thị Hảo chưa nhiều. Đặc biệt là nghiên
cứu về nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo vẫn chưa có một công trình
chuyên biệt nào.
Với mong muốn góp thêm tiếng nói vào sự khẳng định đặc điểm nghệ
thuật trong sáng tác của Võ Thị Hảo, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghệ thuật
trần thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo”. Nghiên cứu thành công vấn đề này,
luận văn sẽ góp phần khẳng định tài năng, sự độc đáo của Võ Thị Hảo trên
hành trình sáng tạo nghệ thuật của tác giả.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện ngắn kỳ ảo hiện đang rất thu hút độc giả mọi nơi và mọi lứa
tuổi. Những sáng tác kỳ ảo của Võ Thị Hảo dường như luôn được đón đợi
nồng nhiệt. Ngắn gọn, súc tích, những câu chuyện mang đậm không khí cổ
tích của chị không những kích thích trí tưởng tượng người đọc, mà qua đó chị
đã chuyển tải nhiều chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời và con người. Truyện
ngắn của nhà văn tự nhận mình “suốt đời chỉ mơ một giấc” dù không tạo ra
những cơn dư chấn ồn ào, nhưng đã để lại không ít dư ba trong lòng người
3
đọc. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về truyện ngắn kỳ ảo của Võ
Thị Hảo vẫn còn đang rất ít ỏi. Thực tế chỉ có một số công trình nghiên cứu,
bài báo, phỏng vấn, tiểu luận, quan tâm tới truyện ngắn Võ Thị Hảo.
- Trong Tứ tử trình làng, lời giới thiệu cuốn Truyện ngắn bốn cây bút
nữ (2011) , tác giả Bùi Việt Thắng đã nêu đặc điểm nổi bật của truyện ngắn
Võ Thị Hảo trên cơ sở so sánh với truyện ngắn của các tác giả cùng thời. Đó
là các tình huống đặc sắc, là những nhân vật "có nét dị dạng khác người
nhưng tâm hồn họ thánh thiện giàu lòng vị tha và đức hy sinh - hy sinh mình
để cứu rỗi kẻ khác". Do yêu cầu của lời giới thiệu nên tác giả Bùi Việt Thắng
chỉ điểm xuyết những nét độc đáo của truyện ngắn Võ Thị Hảo theo cảm nhận
chủ quan. Vì vậy bài viết chưa đi sâu khái quát được các phương diện khác
như ngôn ngữ, giọng điệu, đề tài,...
- Đề tài Đặc điểm đoạn văn kết thúc truyện ngắn Võ Thị Hảo, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh (Tạ Mai Anh, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Vinh,
2002) lại tập trung khai thác đổi mới của Võ Thị Hảo và hai tác giả nữ cùng
thời ở góc độ ngôn ngữ học. Do đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, do nhiệm
vụ cụ thể đặt ra nên luận văn chỉ dừng lại ở những đổi mới của truyện ngắn
Võ Thị Hảo trong phạm vi đoạn văn kết thúc.
- Đề tài Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam 1975 - 2000 (Nguyễn
Minh Hồng, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Vinh, 2002) khai thác một vấn đề khá lí
thú của văn học Việt Nam, đó là vấn đề yếu tố kỳ ảo. Truyện ngắn của Võ Thị
Hảo được đánh giá là sử dụng thành công yếu tố kỳ ảo. Luận văn đã tiếp cận
truyện ngắn Võ Thị Hảo trên phương diện nghệ thuật để từ đó đã có nhiều
phát hiện mới mẻ về nội dung. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài
tương đối rộng nên chỉ một số truyện ngắn của nhà văn được chú ý đề cập
đến.
4
- Đề tài Truyện ngắn Võ Thị Hảo trong bối cảnh đổi mới của truyện
ngắn Việt Nam sau 1986 (Nguyễn Thị Hằng, luận án thạc sĩ, Đại học Vinh,
2008) là công trình nghiên cứu khá toàn diện về truyện ngắn Võ Thị Hảo trên
cả hai phương diện nội dung và hình thức. Trong công trình nghiên cứu này,
tác giả đã đề cập tới một số phương diện hình thức nghệ thuật, nhưng chủ yếu
là để tiếp cận yếu tố kỳ ảo. Chính vì thế phương diện nghệ thuật vẫn chưa
được khai triển sâu sắc.
- Đề tài Nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo (Trần Thị Bích
Vân, luận án thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên, 2009) lại tập trung nghiên cứu về
nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo. Trong đề tài này tác giả mới chỉ
đề cập đến cách thể hiên nhân vật nói chung, nhân vật nữ nói riêng và các
biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật nữ trong sáng tác Võ Thị Hảo. Tuy
nhiên do phạm vi nghiên cứu nên luận văn này chưa chú ý khai thác sâu về
nghệ thuật.
Ngoài ra còn một số bài phỏng vấn, trao đổi giữa nhà văn Võ Thị Hảo
với phóng viên các tờ báo, tạp chí. Thông qua các cuộc trao đổi, nhà văn đã
bộc lộ nhiều quan niệm về văn học nghệ thuật.
Nhìn chung, ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình về truyện
ngắn Võ Thị Hảo còn ít. Hơn nữa các bài viết mới chỉ dừng lại ở cái nhìn ban
đầu, chứ chưa có một công trình nào có tính chất quy mô nghiên cứu về đóng
góp của Võ Thị Hảo ở thể phương diện nghệ thuật. Đề tài Nghệ thuật trần
thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo của chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu phương
diện nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo nhằm khẳng định sự sáng tạo
trong nghệ thuật trần thuật của nhà văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những đặc điểm nổi bật về nghệ thuật trần thuật: Điểm nhìn,
giọng điệu, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo, từ đó thấy
5
được những đóng góp mới trong sáng tạo nghệ thuật của Võ Thị Hảo.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến nghệ thuật trần
thuật trong tác phẩm tự sự nói chung và nghệ thuật trần thuật trong truyện
ngắn nói riêng.
- Nghiên cứu một số phương diện của nghệ thuật trần thuật: điểm nhìn
trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật. Dựa trên cơ sở lý luận
liên quan đến đề tài, chúng tôi khảo sát và phân tích những biểu hiện cụ thể
của điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật trong
truyện ngắn Võ Thị Hảo, từ đó khẳng định những sáng tạo của tác giả.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Võ Thị
Hảo, thể hiện qua các phương diện cơ bản như: điểm nhìn trần thuật, giọng
điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo sát 4 tập truyện ngắn của nhà văn
Võ Thị Hảo:
+ Goá phụ đen (2005), NXB Phụ nữ.
+ Hồn trinh nữ (2005), NXB Phụ nữ.
+ Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm (2005), NXB Phụ nữ.
+ Người sót lại của Rừng Cười (2005), NXB Phụ nữ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thống kê – phân loại
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê - phân loại trong quá trình
nghiên cứu để tạo sự logic chặt chẽ khoa học.
6.2. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Phương pháp so sánh giúp luận văn làm sáng rõ những nét đặc trưng,
khác biệt của nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Võ Thị Hảo so với các tác giả
6
khác.
6.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Để thực hiện đề tài này cùng với việc sử dụng các phương pháp nghiên
cứu trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích tác phẩm, nhân vật,
tình tiết cụ thể. Từ đó khái quát, tổng hợp những đặc điểm nghệ thuật trần
thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo.
7. Đóng góp của luận văn
Thông qua việc thực hiện đề tài, chúng tôi muốn đề xuất một hướng
tiếp cận mới nhìn từ phương diện nghệ thuật về truyện ngắn Võ Thị Hảo. Qua
đó thấy được sự độc đáo trong nghệ thuật trần thuật của nhà văn. Đồng thời
thấy được sự đóng góp của nhà văn trong tiến trình phát triển của văn xuôi
đương đại Việt Nam.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được trình bày
trong 3 chương:
Chương 1. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo
Chương 2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo
Chương 3. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo
7
NỘI DUNG
Chương 1
ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ HẢO
1.1. Khái niệm trần thuật và điểm nhìn trần thuật
1.1.1. Khái niệm trần thuật
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, trần thuật được hiểu như sau: “Trần
thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, thể hiện mối quan hệ chủ
thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm
chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện thắt nút, mở nút sang chủ thể
thẩm mỹ của tác phẩm tự sự” [15, tr.248].
Trong cuốn Lý luận văn học, trần thuật đã được xác định: “Trần thuật
là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ,
biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách
nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của hình tượng văn học,
truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần thuật là sắp xếp, tổ chức
sự tương ứng giữa các phương diện khác nhau của hình tượng với các thành
phần khác nhau của văn bản” [42, tr.307].
Ngoài ra còn có nhiều quan điểm khác nhau về trần thuật, nhưng nhìn
chung đều đi đến khẳng định: Trần thuật là giới thiệu, khái quát, thuyết minh,
miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự việc theo cái nhìn nhất định. Nghệ
thuật trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, nó có tác dụng
soi sáng nội dung tư tưởng của tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo độc đáo của
nhà văn.
1.1.2. Khái niệm điểm nhìn trần thuật
Các nhà lý luận, phê bình sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên
thuật ngữ này: quan điểm trần thuật, điểm nhìn tâm lý, cái nhìn trần thuật,
phương thức trần thuật. Ở đây chúng tôi xem xét vấn đề và thống nhất thuật
8
ngữ điểm nhìn trần thuật.
G N Pospelov khẳng định: “Trần thuật tự sự bao giờ cũng tiến hành từ
phía một người nào đó” [51, tr.14].
Từ đó ông cho rằng: “Mối tương quan giữa các nhân vật với chủ thể
trần thuật gọi là điểm nhìn trần thuật”.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Khoảng cách, góc độ của lời kể đối
với cốt truyện tạo thành cái nhìn” [15, tr.247].
Nhận thấy vai trò đặc biệt của điểm nhìn trần thuật, nhà lý luận Phương
Lựu đã nhấn mạnh: “Nghệ sỹ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện của
đời sống nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với sự vật, hiện
tượng, nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên trong hay bên
ngoài” [43, tr.12], bởi sự trần thuật trong văn xuôi nghệ thuật bao giờ cũng
tiến hành từ một điểm nhìn nào đó. Nhà văn không thể miêu tả nghệ thuật và
tổ chức tác phẩm mà không xác lập cho mình một điểm nhìn, một chỗ đứng
nhất định. Việc chọn một chỗ đứng thích hợp để người kể chuyện kể câu
chuyện là một trong những sự trăn trở đối với nhà văn khi sáng tạo tác phẩm.
Bởi vậy điểm nhìn trần thuật góp phần đáng kể vào sự thành công của tác
phẩm, qua đó thể hiện sự sáng tạo của nhà văn trên hành trình lao động nhọc
nhằn của mình.
Như vậy về quan điểm niệm về điểm nhìn trần thuật cũng có khá nhiều
cách hiểu khác nhau. Nhưng tựu chung có thể nhận thấy: Điểm nhìn trần thuật
là vị trí, khoảng cách, góc độ chủ thể trần thuật dùng để quan sát đối tượng
trần thuật. Điểm nhìn trần thuật có thể từ bên ngoài, có thể từ bên trong, có
cái nhìn từ một phía, có cái nhìn từ nhiều phía … Trong quan hệ giữa chủ thể
trần thuật với người đọc thì chủ thể trần thuật được coi là người chỉ đường và
dẫn dắt người đọc thâm nhập vào tác phẩm theo các diễn biến, xung đột, thắt
nút, mở nút của các sự kiện đời sống.
9
1.1.3. Phân loại điểm nhìn trần thuật
- Theo cuốn Lý luận văn học (Phương Lựu chủ biên), điểm nhìn trần
thuật được phân chia trên 2 bình diện:
* Xét về trường nhìn trần thuật được chia thành 2 loại: trường nhìn tác
giả và trường nhìn nhân vật
+ Trường nhìn tác giả: Người trần thuật đứng ngoài câu chuyện để
quan sát đối tượng. Kiểu trần thuật này mang tính khách quan tối đa cho lời
trần thuật.
+ Trường nhìn nhân vật: Người trần thuật nhìn sự vật, hiện tượng theo
quan điểm của một nhân vật trong tác phẩm. Trần thuật theo điểm nhìn nhân
vật mang đậm sắc thái tâm lý, chất trữ tình hoặc châm biếm do sự chi phối
trực tiếp bởi địa vị, hiểu biết, lập trường của nhân vật.
* Xét về bình diện tâm lý, có thể phân biệt thành điểm nhìn bên trong
và điểm nhìn bên ngoài:
+ Điểm nhìn bên trong: Người trần thuật nhìn thấy đối tượng qua lăng
kính của một tâm trạng cụ thể, dễ dàng tái hiện diễn biến trong tâm hồn nhân
vật.
+ Điểm nhìn bên ngoài: Chủ thể trần thuật giữ cái nhìn khách quan từ
vị trí bên ngoài có khoảng cách nhất định với đối tượng trần thuật.
- Trong Nhập môn văn học, điểm nhìn trần thuật được chia thành 5 loại:
+ Trần thuật khách quan: Người trần thuật lẩn đi, không nhập cảm vào
ý thức của một nhân vật nào, chỉ ghi lại những sự kiện một cách khách quan.
+ Trần thuật thông suốt tất cả: Người kể dường như biết tất cả về đời
sống nội tâm và hoạt động của mọi nhân vật trong tác phẩm.
+ Trần thuật thông suốt tất cả có lựa chọn: Người kể chỉ “biết hết tất
cả” với một vài nhân vật. Những nhân vật khác được miêu tả qua ấn tượng
của nhân vật được lựa chọn.
10
+ Trần thuật tham dự: Người trần thuật tham dự vào truyện như là một
nhân vật, khoảng cách trong người trần thuật và nhân vật được rút ngắn tới
mức thấp nhất.
+ Trần thuật không tham dự: Người kể lẩn đi, lời kể hầu như chỉ còn sự
kiện, tình tiết. Khoảng cách trong người trần thuật và đối tượng trần thuật là
lớn nhất.
- Trong Văn chương dẫn luận, Pospelov chia điểm nhìn trần thuật
thành 2 loại:
+ Trần thuật khách quan: Khi có khoảng cách nhất định giữa các nhân
vật và người trần thuật. Loại trần thuật này gặp nhiều trong các tác phẩm tự
sự truyền thống.
+ Trần thuật chủ quan: Người trần thuật nhìn thế giới theo con mắt của
một nhân vật, thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của người ấy. Khoảng
cách trong người trần thuật và đối tượng được trần thuật bị thủ tiêu. Điểm
nhìn từ hai phía được thâm nhập làm một. Theo Pospelov kiểu trần thuật này
xuất hiện khoảng 200 năm gần đây và ngày càng chiếm được ưu thế, được các
tác giả sử dụng ngày càng nhiều trong tác phẩm văn xuôi tự sự.
- Trong Giáo trình dẫn luận thi pháp học Trần Đình Sử chia điểm nhìn
trần thuật được chia thành 5 loại:
+ Điểm nhìn của người trần thuật, tác giả hay của nhân vật trần thuật và
của nhân vật.
+ Điểm nhìn không gian, thời gian.
+ Điểm nhìn bên trong, bên ngoài.
+ Điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc.
+ Điểm nhìn ngôn từ: bản thân mỗi hình thức ngôn từ đã mang một
quan điểm.
- Trong bài Quan niệm về điểm nhìn nghệ thuật của R.S. Choles và R.
11
Kellogg và một số vấn đề khi áp dụng các mô hình lí thuyết phương Tây vào
nghiên cứu tác phẩm tự sự, tác giả Cao Kim Lan đề cập đến cách phân biệt
điểm nhìn thành 3 loại chính - tương ứng với ba kiểu người kể chuyện:
+ Điểm nhìn của người kể chuyện toàn tri: Người kể thông suốt mọi sự,
anh ta được quyền không chỉ miêu tả sự việc như anh ta đã thiết lập mà còn
có thể bình luận về chúng để khái quát hóa và để kể với người đọc những suy
nghĩ về sự kiện đã diễn ra.
+ Điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba: Người kể có đầy đủ
quyền năng trên khắp trường nhìn của anh ta, miêu thuật lại cho độc giả
những gì mình nghe thấy, nhìn thấy với tư cách nhân chứng.
+ Điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ nhất: Người trần thuật là
một nhân vật trong truyện, thường xưng “tôi” để kể lại câu chuyện hoặc miêu
tả tâm trạng của mình hoặc của các nhân vật khác.
- Trong “Lý luận văn học – mấy vấn đề để cần suy nghĩ” (Nguyễn Văn
Hạnh, Huỳnh Như Phương), điểm nhìn trần thuật chia làm 3 loại:
+ Trần thuật khách quan: Sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của
một người quan sát đứng bên ngoài đối tượng. Chủ thể trần thuật kể lại tất cả
những gì anh ta chứng kiến. Anh ta chỉ kể lại những điều đã chứng kiến hoặc
trực tiếp cảm thấy, nghe thấy. Qua đó chúng ta thấy được tính khách quan rõ
nét không mang sắc thái tâm lý riêng của nhân vật. Ở điểm nhìn này chủ thể
trần thuật ở ngôi thứ ba.
+ Trần thuật chủ quan: Sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của
một nhân vật. Bằng cái nhìn “nhân vật hóa”, người trần thuật tái hiện lại thế
giới, diễn biến các sự việc, sự kiện, cảnh vật, môi trường, vừa có khả năng đi
sâu vào thế giới nội tâm nhân vật. Ở điểm nhìn này, người trần thuật cũng
đồng thời là một nhân vật trong tác phẩm, đứng ở ngôi thứ nhất và tái hiện lại
những gì bản thân nhân vật trải qua.
12
+ Trần thuật theo phương thức liên chủ quan: Sự trần thuật được tiến
hành từ điểm nhìn bên trong của nhân vật nhưng không thuần nhất nhân vật
nào mà đan cài, xen kẽ giữa các nhân vật. Điểm nhìn giữa các nhân vật chồng
chéo lên nhau, hòa trộn với nhau tạo nên một hợp thể phức điệu của các điểm
nhìn không chỉ trong toàn bộ tác phẩm mà trong từng hoạt động của nhân vật.
Qua khảo sát chúng ta thấy mỗi nhà nghiên cứu tìm tòi và khai thác các
vấn đề của điểm nhìn trần thuật theo một cách thức riêng. Vì vậy khi nghiên
cứu tác phẩm chúng ta cần phải lựa chọn những cơ sở lý luận phù hợp. Để tập
trung giải quyết nhiệm vụ đề tài đặt ra, chúng tôi nghiên cứu điểm nhìn trần
thuật trong truyện ngắn Võ Thị Hảo theo hướng phân loại của tác giả Phương
Lựu: điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài.
1.2. Nhà văn Võ Thị Hảo và nghệ thuật lựa chọn điểm nhìn trần thuật
trong truyện ngắn
1.2.1. Nhà văn Võ Thị Hảo
Võ Thị Hảo sinh năm 1956 ở Diễn Bình, Diễn Châu, Nghệ An, là hội
viên Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1997. Tốt nghiệp Khoa Văn, Đại học Tổng
hợp Hà Nội, năm 1977, chị về làm biên tập rồi Phó tổng biên tập cho Nhà
Xuất bản Văn hoá dân tộc. Năm 1996, chị chuyển sang công tác tại báo Phụ
nữ thành phố Hồ Chí Minh làm trưởng văn phòng đại diện cho báo này tại Hà
Nội. Từ báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh chị chuyển sang đảm nhận vị trí
Trưởng ban thư ký toà soạn cho báo Gia đình và xã hội năm 2000. Rồi chị
chuyển sang làm cho Tạp chí Vì trẻ thơ. Ở vị trí này không lâu, Võ Thị Hảo
lại đột ngột trở về báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh nơi trước đó chị đã
kiên quyết ra đi. Cuối năm 2006, chị xin nghỉ hưu “non” để dành thời gian
cho công việc viết lách và đầu tư kinh doanh. Cùng với hai cô con gái Uyên
Ly và Hạnh Ly, hiện nay chị đang làm giám đốc của Công ty Văn hoá và
Truyền thông Võ Thị. Rẽ hướng sang kinh doanh nhưng chị vẫn không quên
13
nghiệp viết, sau những tập truyện ngắn và tiểu thuyêt Giàn thiêu, chị đang tập
trung hoàn thành cuốn tiểu thuyết thứ hai mang tên Dạ tiệc quỷ và cho ra mắt
độc giả một số kịch bản phim.
Võ Thị Hảo sinh ra và lớn lên trên mảnh đất xứ Nghệ khắc nghiệt. Sự
cằn cỗi và hà khắc của thiên nhiên đã tạo cho con người sinh ra trên mảnh đất
gió Lào nóng bỏng này, một tính cách chịu đựng bền bỉ, kiên cường. Đặc tính
của con người xứ Nghệ đã theo Võ Thị Hảo trên mọi nẻo đường đời cũng như
trên hành trình làm báo, viết văn. Vượt lên sự thiếu thốn chật vật của thời kỳ
bao cấp, những khúc mắc trong cuộc sống gia đình, chị vẫn luôn giữ cho ngọn
lửa đam mê văn chương âm ỉ cháy. Ngọn lửa ấy thôi thúc chị viết, chị viết
nhiều, sáng tạo nhiều và bắt đầu nổi tiếng trên văn đàn bởi những truyện ngắn
khác lạ, một trong số đó phải kể đến Người sót lại của Rừng Cười. Đây là
truyện ngắn đã gây xôn xao dư luận khi mở ra cho người đọc một cách nhìn
mới về cuộc chiến đã qua. Truyện ngắn của chị được dịch ra nhiều thứ tiếng
(Anh, Pháp, Nhật, Trung Quốc). Một số tờ báo của Nhật, Mỹ... đã viết về chị
với tư cách là một cây bút nữ gặt hái được nhiều thành công ở thể loại truyện
ngắn trong thời kỳ đổi mới. Điều đó chứng tỏ giá trị của tác phẩm cũng như
năng lực của tác giả.
Một người phụ nữ nhỏ bé và khiêm nhường, đó là nhận xét của những
người đã từng tiếp xúc với chị. Thế nhưng khi đọc những bài báo, những
truyện ngắn của chị ta lại phát hiện ra phía sau vẻ bề ngoài dịu dàng, nhỏ nhẹ
ấy là một người phụ nữ mạnh mẽ quyết đoán. Chị không thể im lặng trước cái
xấu, sẵn sàng phản kháng và đấu tranh đến cùng để chống lại cái ác. Với
cương vị là một nhà báo, Võ Thị Hảo bất chấp hiểm nguy lên tiếng đòi quyền
bình đẳng cho những người phụ nữ bị ngược đãi ở Sa Moa, đòi lại công bằng
cho người dân bị mất đất ở Sơn Tây... Bạn bè thường nói về nhà báo Võ Thị
Hảo với một niềm tự hào: “Trông dịu nhẹ vậy mà viết báo đanh đá lắm. Nói
14
gì là sát cánh, đo ván luôn”. Có một cái gì đó như bật dội lên một cách mạnh
mẽ trong những trang viết của chị khiến người đọc không thể thờ ơ. Trên
những trang văn dường như chị được tự do hơn để yêu thương hờn giận. Cái
cảm giác bất lực trước hiện thực khi làm báo đã được văn chương hoá giải.
Điều đó có thể lý giải tại sao có nhiều lúc chị “viết văn như cầu nguyện”, tìm
đến văn chương để nương náu trước những cơn bão lũ của cuộc đời như một
tín đồ tìm đến với đấng tối linh. Bản tính của một người quyết đoán vẫn song
hành cùng nét nhạy cảm nữ tính ở chị. Chị truy tìm đến tận cùng căn nguyên
của mọi nỗi bất hạnh ở con người, cùng khóc, cùng cười, cùng xót xa với số
phận của các nhân vật. Vượt lên trên những định kiến xã hội, những khen,
chê, tốt, xấu, chị sống và làm theo sự lựa chọn của mình, làm theo những gì
mình cho là đúng, là đích thực. Chị đã dám sống, dám viết và đã tỏ bày quan
niệm sống của mình trên từng trang viết thấm đẫm mồ hôi và nước mắt, với
mong muốn tột cùng cống hiến cho đời những suy nghĩ trung thực nhất, dũng
cảm nhất.
Không cho rằng văn chương là một cuộc chơi hay một trò giải trí, chị
quan niệm văn chương là nơi có thể đem đến cho chị niềm vui được chia sẻ
cảm thông với cuộc đời, được trả những món nợ ân nghĩa, “Văn chương sẽ
cứu rỗi tất cả”. Chị đã viết trong nhọc nhằn và xót xa, trong hạnh phúc và hân
hoan. Luôn cảm thấy viết vừa là đam mê, vừa là trách nhiệm, Võ Thị Hảo như
là một người chân trần lặng lẽ mang ánh sáng của mình kiên nhẫn đi trong
thăm thẳm đời sống, ngụp lặn trong dòng đời bộn bã để sống và viết và sáng
tạo. Chị không còn thời gian cho những thú vui nhỏ nhoi mà bất cứ người phụ
nữ nào cũng giành một phần thời gian để chiều chuộng chính mình. Cảm giác
mắc nợ, có lỗi với mọi người, với cuộc đời luôn thôi thúc chị viết. Chị nói về
cái được, cái mất trong văn chương: “Tôi không tìm kiếm điều gì khi viết văn,
tôi chỉ sống theo số phận của mình. Viết văn, tôi được sống nhiều kiếp, được
15
viết cho mình, được khóc cười. Thiên đường, địa ngục, người và ma quỷ,
thiên thần hỗn độn... như thế, tôi đã được quá nhiều khi tôi viết văn. Nếu tính
chuyện mất, thì tôi mất đi ít nhiều khả năng làm lành với cuộc sống và phải
nhận lĩnh kiếp nạn của những kẻ không thể im lặng trước nỗi đau của người
khác”.
Không chỉ miệt mài sáng tạo, Võ Thị Hảo còn rất nghiêm khắc với bản
thân trong lao động nghệ thuật. Chị luôn luôn tâm niệm “điều quan trọng để
trở thành một người viết có tư tưởng độc lập là không chấp nhận những lối
mòn”. Và “nhà văn không được phép lừa dối chính mình, không làm những
điều mà chính mình đang dối trá để cầu lợi... Sống dối là nguy hiểm, viết dối
lại càng nguy hiểm hơn”. Thực tế, những truyện ngắn của chị đã là bằng
chứng hết sức thuyết phục cho quan niệm về nghề văn. Đặt bên cạnh những
truyện ngắn cùng thời bao giờ ta cũng có thể nhận ra nét riêng của Võ Thị
Hảo khi ở giọng kể, khi ở cái tên, khi ở những đoạn kết hay tình huống độc
đáo... Càng viết chị càng khẳng định được mình, càng đưa lại cho độc giả,
những người yêu mến chị, niềm tin vào sức sáng tạo và tinh thần lao động
nghiêm túc của người phụ nữ dám sống, dám viết và dám cháy hết mình cho
văn chương.
Võ Thị Hảo sáng tác trên nhiều thể loại. Chị bắt đầu làm thơ từ những
năm tháng còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng sau đó lại chuyển sang viết
truyện ngắn rồi tiểu thuyết và kịch bản phim. Bao giờ ở chị cũng bộn bề công
việc với những dự định về nghề báo, nghiệp văn và còn cả niềm ham thích
trong hội hoạ. Chị đã xuất bản được khá nhiều tác phẩm.
- Tập truyện ngắn Biển cứu rỗi, Nhà xuất bản Hà Nội, 1991.
- Tập truyện ngắn Chuông vọng cuối chiều, Nhà xuất bản Lao Động
1994.
- Truyện ngắn chọn lọc Võ Thị Hảo, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 1995.
16
- Tập truyện ngắn Ngậm cười, Nhà xuất bản Phụ nữ, 1998.
- Tiểu thuyết Giàn thiêu, Nhà xuất bản Phụ nữ, 2003.
- 101 cái dại của đàn ông (tái bản), Nhà xuất bản Lao Động và Công ty
Văn hoá và Truyền thông Võ Thị, 2006.
- Kịch bản phim: Con dại của đá, Lời hẹn mùa thu...
Ngày 19 tháng 10 năm 2005, Bộ Tuyển văn gồm năm cuốn sách: Goá
phụ đen, Người sót lại của Rừng Cười, Hồn trinh nữ, Những truyện không
nên đọc lúc nửa đêm và tiểu thuyết Giàn thiêu do Công ty Văn hoá và Truyền
thông Võ Thị kết hợp với Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành đã ra mắt bạn đọc.
Đây là lần tái bản có bổ sung một số truyện ngắn mới sáng tác của nhà văn.
Vào làng viết chưa lâu nhưng tác phẩm của Võ Thị Hảo đã gặt hái được một
số thành công đáng kể.
- Tập truyện ngắn Biển cứu rỗi đạt giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết do
Nhà xuất bản Hà Nội tổ chức năm 1991 - 1992.
- Giải thưởng 5 năm văn học Hà Nội 1990 - 1995
- Tiểu thuyết Giàn thiêu đạt giải thưởng cao nhất của Hội Nhà văn Hà
Nội 2003 - 2004.
Năm 1989, Võ Thị Hảo viết truyện ngắn đầu tay Người gánh nước thuê,
không lâu sau chị cho ra mắt độc giả tập truyện ngắn Biển cứu rỗi. Sự xuất
hiện này đã nhanh chóng xác định trong lòng độc giả tên tuổi của một nữ văn
sĩ góp phần không nhỏ làm nên bức tranh phong phú của truyện ngắn Việt
Nam sau 1986. Xuất hiện vào thời điểm truyện ngắn có nhiều khởi sắc với
những tên tuổi đã thành danh trong công cuộc đổi mới như Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài... truyện ngắn của Võ Thị Hảo không dễ để cuốn hút
ngay người đọc bằng cái “lạ” và cái “mới”. Nhưng chính chiều sâu tư tưởng
và sự thành công ở một số phương diện hình thức nghệ thuật đã tạo nên chỗ
đứng của truyện ngắn Võ Thị Hảo.
17
Truyện ngắn thời kỳ đổi mới hướng vào cuộc sống thường nhật, khám
phá mọi vấn đề của đời sống ở những chiều kích và góc độ khác nhau. Truyện
ngắn của Võ Thị Hảo cũng không nằm ngoài những đối tượng phản ánh ấy.
Chị đặc biệt hướng ngòi bút của mình đến vấn đề nhân tính và sự bất bình
trong xã hội. Nói về những điều này bao giờ nhà văn cũng đi đến tận cùng
bằng cách phản ánh mọi góc cạnh sâu sắc của vấn đề, không ngại đụng chạm
đến những gì mà dư luận cho là “nhạy cảm” theo cách riêng của mình. Đọc
truyện của Võ Thị Hảo, ta không có cảm giác ngột ngạt, khó chịu như trước
khi cơn bão tràn qua như khi đọc truyện của Phạm Thị Hoài hay Nguyễn Thị
Thu Huệ. Ngược lại, người đọc có cảm giác bất an khi luôn dự cảm có bất
trắc sẽ xảy ra, tựa như cảm giác của một người lần đầu tiên bước chân xuống
biển, không dám bước liều vì sợ sẽ sa chân xuống một hố sâu nào đó. Bất an,
lo sợ nhưng vẫn muốn bước tiếp để khám phá vì cuộc sống luôn đầy bất ngờ
không thể lường trước. Người viết đã khéo léo gieo vào lòng người đọc sự
háo hức chờ đợi thông qua những biện pháp nghệ thuật hữu ý.
Tính chất bất ngờ trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo trước hết được tạo
nên từ các tình huống đặc sắc. Đúng như nhận xét của tác giả Bùi Việt Thắng:
“Mỗi người viết truyện ngắn thường có một lối nẻo riêng, với Võ Thị Hảo
việc tìm tòi tình huống truyện là có ý nghĩa nhất” [57] Không chỉ ở tình
huống mà ở ngay tiêu đề của truyện ngắn ta đã thấy dụng công của người viết
nhằm gây ấn tượng với người đọc. Những tên truyện thường hứa hẹn ở phía
sau nhiều suy tư triết lí và gợi không khí về một miền cổ tích: Dây neo trần
gian, Vũ điệu địa ngục, Làn môi đồng trinh, Hồn trinh nữ... Không khí cổ
tích, huyền thoại còn được tạo nên cùng với sự linh hoạt trong các ngôi trần
thuật, trong cách xưng hô, gọi tên nhân vật. Chất liệu của cổ tích dân gian đã
được nhà văn làm sống dậy trong tác phẩm của mình để tạo nên một sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại. Chỉ riêng điều này, ta cũng
18
thấy rõ nét riêng biệt của Võ Thị Hảo trong số rất nhiều cây bút truyện ngắn
xuất sắc lúc bấy giờ.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo đã thực sự chuyên
chở được tư tưởng quan niệm về con người và cuộc đời của nhà văn. Truyện
của chị ít thấy nhân vật phản diện để ta phải lên án căm hờn. Ngay cả nhân
vật biểu hiện cho cái xấu cũng có nét gì đó rất đáng thương rất cần được
thông cảm. Nói như vậy không có nghĩa là nhân vật của chị cứng nhắc, ngược
lại đó là thế giới nhân vật hết sức sinh động, họ vừa là chủ nhân vừa là nạn
nhân của cuộc sống. Nếu nhân vật trong văn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Bình Phương thường biến dạng, méo mó về cả nhân hình lẫn
nhân tính thì nhân vật trong sáng tác của Võ Thị Hảo hoặc có nét dị dạng ở vẻ
bề ngoài (Rân trong Người đàn ông duy nhất, Hằng trong Làn môi đồng trinh,
Tâm trong Máu của lá...), hoặc sự thờ ơ vô tình của đồng loại đã đẩy họ đến
cảnh cô đơn lạc lõng (lão Nhát trong Vầng trăng mồ côi, những người đàn bà
trong Trận gió màu xanh rêu...). Những kẻ khác người ấy lại mang trong
mình vẻ đẹp của một tâm hồn thánh thiện giàu lòng vị tha và đức hy sinh.
Người phụ nữ, những thân phận bé mọn ngơ ngác lạc lõng với giấc mơ lầm
lụi nhọc nhằn, họ bước sang nền kinh tế thị trường để nhận thêm nhiều đớn
đau, thua thiệt. Viết về phái nữ bao giờ ta cũng tìm thấy trong ngòi bút của Võ
Thị Hảo sự đồng cảm xót xa đến quặn thắt. ở đó có bóng dáng, có nỗi niềm
của chính chị, một người đàn bà với rất nhiều đam mê khát vọng và không ít
khổ đau. Khi cái tôi tác giả hoà lẫn vào nhân vật để chỉ còn cái tôi của hiện
hữu, người đọc có điều kiện để “cảm” được thực hơn sự phức tạp của đời
sống, của thế giới nội tâm con người, nói như cách nói của nhà văn “được
sống nhiều kiếp, được biết nhiều cuộc đời”. Nếu làm một phép so sánh về
nhân vật nữ trên trang viết của các nữ nhà văn, người ta có thể nhận ra nét
riêng của nhân vật Võ Thị Hảo. Bướng bỉnh thích khuấy động xung quanh để
19
khẳng định chính mình là các nhân vận nữ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng
Anh. Người phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ mạnh mẽ bạo liệt
sẵn sàng đánh đổi tất cả để có được hạnh phúc. Còn ở truyện ngắn của Võ Thị
Hảo họ nhẫn nại cam chịu trước số phận bất hạnh. Có lúc ngang ngạnh, nổi
loạn nhưng họ vẫn rất đằm thắm với khát vọng được dâng hiến, khao khát
kiếm tìm hạnh phúc cứ rát bỏng trong tâm hồn nhân vật. Người đọc không thể
không yêu, không thương, không thể không đồng cảm với nhân vật dù đó là
một cô gái sa ngã (Vũ điệu địa ngục), một người đàn bà nhẹ dạ (Người đàn
ông duy nhất) hay một con điếm đã hết thời (Biển cứu rỗi)... Với tình yêu, câu
chuyện muôn thuở của loài người, nhà văn không hoài nghi mà ngược lại đặt
niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của nó. Trong các truyện ngắn: Goá phụ
đen, Tiếng vạc đêm, Khói mang màu nước biển... người ta cảm nhận được sự
âu yếm mang chút thánh ca của tác giả khi nói về tình yêu. Điều này đã gieo
vào lòng độc giả niềm hy vọng tin tưởng vào những gì còn tốt đẹp trong cuộc
đời. Khi mà con người quay quắt với tiền tài, danh vọng, tình yêu cũng như
một thứ đồ có thể trao đổi buôn bán thì gieo được hạt mầm hi vọng ấy quả là
một điều đáng nói.
Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay ghi nhận sự phát triển của dòng
văn học sử dụng yếu tố kỳ ảo. Nhắc đến văn học kỳ ảo thời kỳ này không thể
không thừa nhận những đóng góp của Võ Thị Hảo. Cùng với Nguyễn Huy
Thiệp, Lưu Sơn Minh, Lý Lan... Võ Thị Hảo đã góp phần khơi dòng cho văn
học sử dụng yếu tố kỳ ảo phát triển trở lại sau một thời gian dài vắng bóng,
mở ra một không gian mới, một thủ pháp mới để khám phá hiện thực. Ngay ở
dòng truyện ngắn này, cá tính của một nữ nhà văn ưa khám phá thử nghiệm
đã được biểu hiện khá rõ nét.
Ai đó từng nhận xét chí lí rằng văn học đang mang gương mặt nữ ngày
càng trắc ẩn và khoan dung, ngày càng tinh tế và đằm thắm. Thập niên chín
20
mươi của thế kỷ qua truyện ngắn được mùa vì thế cũng nở rộ một loạt tên tuổi
nữ được người đọc mến mộ như Y Ban, Nguyễn Thị Ấm, Võ Thị Xuân Hà,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan... Võ Thị Hảo cũng là một trong số những cây
bút nữ đã góp phần làm nên sự khởi sắc của truyện ngắn. Dù chưa phải là một
cây bút xuất sắc nhất nhưng sẽ thật thiếu sót nếu nói đến truyện ngắn Việt
Nam sau 1986 mà không nói đến chị. Không ồn ào, không sắc nét màu mè,
không khiến giới phê bình phải tốn nhiều giấy mực để tranh cãi nhưng truyện
của chị lại có sức cuốn hút kỳ lạ đối với người đọc. Ẩn đằng sau những câu
chữ trau chuốt, lối kể chuyện cuốn hút có duyên, lối văn phong vừa cũ, vừa
mới, vừa quen, vừa lạ là những tâm sự day dứt không nguôi về số phận con
người, về cuộc đời và nhân tình thế thái. Đọc truyện của chị thường buồn, đó
là nỗi buồn có lẫn cả vị ngọt ngào và cay đắng, một nỗi buồn giúp tâm hồn ta
trong sáng hơn. Ở một thể loại có tốc độ phát triển khá nhanh từ sau 1975,
truyện ngắn Võ Thị Hảo có nhiều đóng góp tích cực. Về phương diện nội
dung đó là cái nhìn mới về cuộc đời và con người, là cảm hứng sáng tạo cùng
với cách khai thác xử lý đề tài có nhiều mới lạ. Tạo tình huống đặc sắc, gia
tăng yếu tố kỳ ảo, đổi mới ngôn ngữ, giọng điệu, đa dạng trong cấu tạo đoạn
kết, đó là những đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo ở phương diện nghệ
thuật trần thuật. Chính những đóng góp riêng này đã khẳng định tên tuổi cũng
như vị trí của truyện ngắn Võ Thị Hảo trong bức tranh truyện ngắn Việt Nam
sau 1986. Thành công ở thể loại tự sự cỡ nhỏ đã được tích luỹ để tạo đà cho
tiểu thuyết Giàn thiêu ra đời năm 2003. Đây là tiểu thuyết đánh dấu sự trưởng
thành trong ngòi bút ưa thử thách mạo hiểm. Với tiểu thuyết này, Võ Thị Hảo
ít nhất được “cho điểm” ở lòng dũng cảm: Chuyển từ thể loại “tay quen”
truyện ngắn sang thể loại tiểu thuyết. Viết truyện ngắn chính là một bước
chuẩn bị quan trọng để nhà văn xứ Nghệ này gặt hái được thành công trong
- Xem thêm -