Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tổ chức ngôn từ trong thơ hát nói của nguyễn công trứ...

Tài liệu Nghệ thuật tổ chức ngôn từ trong thơ hát nói của nguyễn công trứ

.PDF
143
187
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ MƠ NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC NGÔN TỪ TRONG THƠ HÁT NÓI CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Thái Nguyên, năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn i ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ MƠ NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC NGÔN TỪ TRONG THƠ HÁT NÓI CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60.22.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS HÀ QUANG NĂNG Thái Nguyên, năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ii MỤC LỤC Trang bìa ........................................................................................................... i Mục lục .............................................................................................................. ii Danh mục các bảng .......................................................................................... vi MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT............................................................. 10 1.1 ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ........................................................ 10 1.1.1 Khái niệm ........................................................................................ 10 1.1.2 Đặc điểm ngôn ngữ thơ ................................................................... 10 1.1.2.1 Đặc điểm vần ............................................................................ 11 1.1.2.2 Đặc điểm nhịp ........................................................................... 14 1.1.2.3 Tính nhạc trong thơ ................................................................... 17 1.1.3 Đặc điểm ngôn ngữ thơ trung đại.................................................... 20 1.2 ĐỊNH NGHĨA TỪ, NGHĨA CỦA TỪ, CỤM TỪ, ….......................23 1.3 ĐÔI NÉT VỀ CA TRÙ, HÁT NÓI, VỊ TRÍ CỦA THƠ HÁT NÓI . 25 1.3.1 Đôi nét về ca trù .............................................................................. 25 1.3.2 Đôi nét về hát nói ...........................................................................27 1.3.3 Vị trí của thơ hát nói........................................................................ 27 1.4 ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ HÁT NÓI ...................................... 29 1.4.1 Đặc điểm của từ ngữ ....................................................................... 29 1.4.2 Đặc điểm của khổ thơ..................................................................... 30 1.4.3 Đặc điểm của dòng thơ ................................................................... 31 1.4.4 Đặc điểm của mƣỡu ........................................................................ 31 1.4.5 Đặc điểm của luật bằng – trắc ......................................................... 32 1.4.6 Đặc điểm của vần ............................................................................ 34 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn iii 1.4.7 Đặc điểm của nhịp. .......................................................................... 34 1.4.8 Tính nhạc trong thơ hát nói ............................................................. 35 1.5 GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ NGUYỄN CÔNG TRỨ 35 1.5.1 Giới thiệu về cuộc đời, con ngƣời Nguyễn Công Trứ .................... 35 1.5.2 Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Công Trứ....................................... 38 CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÖC TRONG THƠ HÁT NÓI CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ ................................................................................. 40 2.0 DẪN NHẬP....................................................................................... 40 2.1 ĐẶC ĐIỂM CỦA KHỔ THƠ ........................................................... 40 2.1.1 Kiểu bài đủ khổ ............................................................................... 41 2.1.2 Kiểu bài dôi khổ .............................................................................. 42 2.2 ĐẶC ĐIỂM CỦA DÕNG THƠ ........................................................ 48 2.2.1 Đặc điểm về số âm tiết / dòng thơ ................................................... 49 2.2.2 Đặc điểm về số dòng / bài ............................................................... 54 2.3 ĐẶC ĐIỂM CỦA MƢỠU ................................................................ 56 2.4 ĐẶC ĐIỂM CỦA LUẬT BẰNG – TRẮC ....................................... 57 2.4.1 Luật bằng trắc chi phối cách ngắt nhịp ........................................... 57 2.4.2 Luật bằng trắc quy định cách gieo vần ........................................... 58 2.4.3 Luật bằng – trắc trên các dòng thơ .................................................. 60 2.5 ĐẶC ĐIỂM CỦA VẦN .................................................................... 65 2.5.1 Lối gieo vần chân……….………………………………………65 2.5.2 Lối gieo vần lƣng………………………………………………..68 2.5.2.1 Gieo vần lƣng ở âm tiết thứ 2 .................................................. 68 2.5.2.2 Gieo vần lƣng ở âm tiết thứ 3 ................................................... 68 2.5.2.3 Gieo vần lƣng ở âm tiết thứ 4 ................................................... 69 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn iv 2.5.2.4 Gieo vần lƣng ở âm tiết thứ 5 ................................................... 70 2.5.2.5 Gieo vần lƣng ở âm tiết thứ 6 ................................................... 70 2.5.2.6 Gieo vần theo lối vắt dòng ........................................................ 71 2.5.2.7 Gieo vần tập trung..................................................................... 71 2.6 ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỊP.................................................................... 73 2.7 TÍNH NHẠC ..................................................................................... 79 2.7.1 Vai trò của thanh điệu trong nhịp thơ, vần thơ .............................. 80 2.7.1.1 Vai trò của thanh điệu trong nhịp thơ ....................................... 80 2.7.1.2 Vai trò của thanh điệu trong vần thơ ........................................ 81 2.7.2 Vai trò của âm cuối trong các vần thơ ......................................... 82 2.7.3 Vai trò của âm chính trong các vần thơ ....................................... 84 CHƢƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM TỪ NGỮ TRONG THƠ HÁT NÓI CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ ................................................................................. 89 3.0 DẪN NHẬP....................................................................................... 89 3.1. NHIỀU TỪ NGỮ TẬP TRUNG THỂ HIỆN MỘT CHỦ ĐỀ ......... 89 3.1.1 Các từ ngữ biểu thị tài năng ......................................................... 89 3.1.2 Các từ ngữ biểu thị thú ăn chơi ................................................... 96 3.1.3 Các từ ngữ biểu thị “mệnh” ......................................................... 98 3.1.4 Các từ ngữ chỉ không gian, thời gian......................................... 101 3.2 XUẤT HIỆN NHIỀU TỪ NGỮ MANG ĐIỂN TÍCH, ĐIỂN CỐ..104 3.3 XUẤT HIỆN NHIỀU ĐỘNG TỪ MẠNH ..................................... 106 3.4 XUẤT HIỆN MỘT LƢỢNG LỚN CÁC HƢ TỪ .......................... 108 3.5 XUẤT HIỆN NHIỀU ĐẠI TỪ ....................................................... 111 3.6 XUẤT HIỆN LỐI NÓI KHẨU NGỮ ............................................. 113 3.7 XUẤT HIỆN NHIỀU TỪ HÁN VIỆT……………………………114 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn v 3.8 XUẤT HIỆN LỚP TỪ CỔ............................................................115 KẾT LUẬN .................................................................................................. 117 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 119 PHỤ LỤC .................................................................................................... 123 PHỤ LỤC 1 .................................................................................................. 123 PHỤ LỤC 2 .................................................................................................. 123 PHỤ LỤC 3 .................................................................................................. 129 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn vi DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1 Tiêu chí khu biệt các âm vị nguyên âm ............................................12 Bảng 1.2 Bảng đối lập về âm điệu và âm vực của thanh điệu .......................15 Bảng 2.1 Bảng về cách kết thúc dòng thơ hát nói............................................55 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Ca trù thuộc loại hình nghệ thuật dân tộc đặc sắc của dân tộc Việt Nam, đƣợc UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Vốn đƣợc hình thành trên nền tảng âm nhạc dân gian Bắc Bộ nên ca trù có sức lan tỏa rất lớn. Phạm vi ảnh hƣởng của ca trù là hầu hết là các tỉnh, thành phố thuộc đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ nhƣ: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh…Và một số tỉnh thuộc Trung du miền núi phía Bắc nhƣ: Phú Thọ, Bắc Giang…Sau một thời gian dài tồn tại, nếp sinh hoạt ca trù đã bị lãng quên trong đời sống văn hóa của ngƣời dân. Ca trù đang đứng trƣớc nguy cơ bị diệt vong nếu chúng ta không quan tâm đúng mức. 1.2 Sự xuất hiện của thơ hát nói đã góp phần làm phong phú và đánh dấu sự phát triển cho ca trù nói chung. Rất nhiều các nhà Nho tài tử say mê hát nói, trong lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta phải kể đến các đại biểu lớn nhƣ Cao Bá Quát, Nguyễn Quý Tân, Nguyễn Bá Xuyến, Chu Mạnh Trinh,…trong đó có Nguyễn Công Trứ – “ông hoàng thơ hát nói”. 1.3 Phải đến Nguyễn Công Trứ thì thơ hát nói mới đƣợc hoàn thiện về mặt hình thức thể loại. Nguyễn Công Trứ là ngƣời đầu tiên mang đến cho thơ hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó. Vì là “thơ điệu nói” nên kết cấu của các bài hát nói thƣờng xen giữa yêu cầu ngâm và yêu cầu nói. Nội dung trong thơ hát nói rất phù hợp với trạng thái hai cực: “phần cô đọng quá là dành cho thơ luật còn phần khai triển quá như truyện và ngâm là dành cho lục bát và song thất lục bát”. [19] Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX với nhiều biến động dữ dội, phức tạp. Không những vậy, sự đan xen của hệ tƣ tƣởng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Tam giáo đồng nguyên Nho – Phật – Đạo cộng với sự xâm nhập của Gia tô giáo ở phƣơng Tây do các giáo sỹ truyền đạo, bƣớc đầu đã làm thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan trong các nhà Nho đƣơng thời. Vấn đề về quyền sống, về ý thức cá nhân con ngƣời đã trỗi dậy mạnh mẽ. Trong các bài thơ hát nói, ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ đã bộc lộ một cách trực tiếp, rõ ràng mà không cần phải thông qua ngoại cảnh, tâm trạng nhân vật nhƣ trong khúc ngâm, truyện Nôm. So với các nhà Nho đƣơng thời nhƣ Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, Nguyễn Quý Tân… thì thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ hơn hẳn về số lƣợng, nội dung lẫn hình thức thể hiện. “Trên mảnh đất văn học Hát nói đầy tinh thần tự tồn, tự hào dân tộc đó, Nguyễn Công Trứ là người dày công gieo hạt, cần mẫn chăm sóc và gặt hái bội thu nhất” (Nguyễn Viết Ngoạn [34]). Tuy nhiên, điều làm nên sự thành công, sức hấp dẫn của thơ hát nói Nguyễn Công Trứ còn là việc tác giả sử dụng, tổ chức ngôn từ. Do đó việc tìm hiểu “Nghệ thuật tổ chức ngôn từ trong thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ” là việc cần thiết mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu để góp phần nhìn nhận, khẳng định tài năng và sự đóng góp của Nguyễn Công Trứ với thể hát nói. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1 Lịch sử nghiên cứu về tác giả Nguyễn Công Trứ Lịch sử nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ đã xuất hiện từ rất sớm. Ngƣời đặt nền móng đầu tiên là Lê Thƣớc (1928) với cuốn “Sự nghiệp và thi văn của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ”. Đây đƣợc coi là tƣ liệu có giá trị to lớn, mở đầu cho các công trình nghiên cứu, đánh giá về nhân cách và con ngƣời Nguyễn Công Trứ. Tác giả đã đứng trên quan điểm đạo đức Nho gia để nhìn nhận Nguyễn Công Trứ theo tiêu chí lập công, lập đức, lập ngôn. Theo Lê Thƣớc, Nguyễn Công Trứ là nhân vật lịch sử thuộc hàng ngũ vĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 nhân, siêu phàm nên mọi hành vi và ngôn luận đều khác thƣờng. “Xưa nay những kẻ anh hùng hào kiệt đã có cái tài “xuất chúng” thì thường hay có cái khí “siêu nhân”…Đã là người hào kiệt thì quả không chụi lẩn quất trong cái khuôn sáo người thường. Có lẽ cũng vì thế nên trong sự hành vi của cụ Nguyễn Công Trứ, nhiều khi lạ mắt trái tai, mà trong văn chương của cụ cũng lắm khi trái với cái tục kiến của người đời” [21, tr. 493]. Khi trào lƣu Thơ mới xuất hiện, Lƣu Trọng Lƣ (trong cuốn “Nguyễn Công Trứ, nhà thi sĩ của Nghệ Tĩnh sau một trăm năm”, Tao đàn số 1) đã dùng quan điểm Nho gia và Lão trang để đánh giá, nhìn nhận về con ngƣời Nguyễn Công Trứ [28]. Năm 1944, Nguyễn Bách Khoa – một nhà nghiên cứu thuộc thế hệ tri thức mới đã đứng trên lập trƣờng duy vật biện chứng, trên quan điểm giai cấp để phân tích tƣ tƣởng và thơ văn Nguyễn Công Trứ qua cuốn “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ” [23]. Năm 1978, thông qua cuốn “Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX”, Nguyễn Lộc coi con ngƣời “Nguyễn Công Trứ là một khối mâu thuẫn lớn” [29]. Trong “Lời giới thiệu cuốn thơ văn Nguyễn Công Trứ” năm 1983 [6], Trƣơng Chính đã đi theo quan điểm của hệ thống tƣ tƣởng triết học – đạo đức để bác bỏ lại quan điểm của Nguyễn Lộc. Theo Trƣơng Chính thì cần phải thấy đƣợc những biến đổi trong tƣ tƣởng của Nguyễn Công Trứ thì mới hiểu đƣợc bản chất con ngƣời ông. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của Nguyễn Công Trứ, tác giả Nguyễn Đăng Thục trong bài “Ý nghĩa ngày kỷ niệm nhà hiền triết Nguyễn Công Trứ” [54] đã khẳng định: “Nguyễn Công Trứ ở Việt Nam đã trả lời cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 nguyện vọng của dân tộc về lý tưởng con người toàn diện, con người tri thức, con người ý chí hành động, con người tình cảm nghệ thuật…”. Từ cuối những năm 80 trở về trƣớc, rất nhiều tác giả coi Nguyễn Công Trứ là nhân vật lịch sử bởi ông đã tham gia đàn áp một số cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân nhƣ cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành, Nông Văn Vân. Trên “Tạp chí nghiên cứu lịch sử” số 3, 5 (1978), xuất hiện rất nhiều các bài viết về Nguyễn Công Trứ nhƣ bài viết của Chƣơng Thâu “Góp phần đánh giá con người và tư tưởng của Nguyễn Công Trứ”, của Vũ Huy Phúc “Mấy nhận xét sơ bộ về nhân vật lịch sử Nguyễn Công Trứ”, của Nguyễn Quang Phan – Nguyễn Danh Phiệt “Vài ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Công Trứ”, của Văn Lang “Về binh nghiệp của Nguyễn Công Trứ”, của Minh Thành “Nguyễn Công Trứ trong giới nghiên cứu từ trước tới nay”, của Văn Tạo “Về vấn đề đánh giá nhân vật lịch sử và việc đánh giá Nguyễn Công Trứ”,… Năm 1988, một công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ ở phƣơng diện triết học của Hán Chƣơng và Vũ Đình Trác đã đƣợc giới thiệu ở hải ngoại, đó là cuốn “Triết lý chấp sinh Nguyễn Công Trứ”, do Hội hữu xuất bản [9]. Những tham luận trong cuộc hội thảo “Chuyên đề Nguyễn Công Trứ Con người, cuộc đời và thơ” đƣợc tổ chức tại trƣờng Viết văn Nguyễn Du ngày 15/12/1994 đã khắc phục đƣợc một số quan điểm nhìn nhận về con ngƣời Nguyễn Công Trứ của một số tác giả nêu trên, bởi họ chịu sự chi phối của hệ tƣ tƣởng đạo đức phong kiến. Cũng tại cuộc hội thảo “Danh nhân Nguyễn Công Trứ: cuộc đời và sự nghiệp” diễn ra tại Hà Tĩnh ngày 19/12/2008, hơn 40 bài báo cáo đều tập trung vào hai chủ đề chính là danh nhân Nguyễn Công Trứ – dấu ấn lịch sử và thời đại, danh nhân Nguyễn Công Trứ –nhà văn hóa lớn”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 Trong thời gian gần đây, những cuốn sách viết về Nguyễn Công Trứ ngày càng nhiều nhƣ “Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử” do Đoàn Tử Huyến chủ biên [21], cuốn “Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ qua 81 giai thoại” của Huyền Li [26] đã dựng lên bức chân dung về Nguyễn Công Trứ qua cái nhìn dân gian, rất nhiều những giai thoại hay đƣợc thêu dệt lên, khác với những lý giải nghiên cứu của hậu thế về con ngƣời thật của “ông Hy Văn tài bộ”. Trong cuốn “Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác phẩm”, Trần Nho Thìn [52] đã viết về Nguyễn Công Trứ trong hai thế kỷ XIX, XX và đánh giá ông qua hai bộ sử là “Đại Nam thực lục” và “Đại Nam chính biên” Trên đây là một loạt những công trình của các tác giả nghiên cứu về con ngƣời Nguyễn Công Trứ ở các phƣơng diện tôn giáo, lịch sử, triết học. 2. 2 Lịch sử nghiên cứu về thơ hát nói Hát nói là một trong những làn điệu tiêu biểu, cơ bản của ca trù. Lịch sử nghiên cứu về thơ hát nói có một số vấn đề đáng lƣu ý sau: Trƣớc hết, chúng ta cần bàn đến nguồn gốc ra đời của thơ hát nói. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chƣa có sự thống nhất. Năm 1923, trong bài “Văn chương trong lối hát ả đào” (báo “Nam Phong”, số 69), “Khảo luận về cuộc hát ả đào” (báo “Nam Phong”, số 70), Phạm Quỳnh và Nguyễn Đôn Phục rất băn khoăn khi không tìm đƣợc câu trả lời về nguồn gốc của thơ hát nói bởi chúng chỉ là “những án khoa truyền khẩu”. Trong “Việt Nam văn học sử yếu” [19], trong “Chuyện thơ” [46], Dƣơng Quảng Hàm và Hoài Thanh đều có chung quan điểm coi hát nói là một biến thể của lục bát và song thất lục bát. Trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên”, Phạm Thế Ngũ [36] cũng có ý kiến trùng với Dƣơng Quảng Hàm và Hoài Thanh nhƣng tác giả còn đƣa thêm một giả định khác để chứng minh hát nói bắt nguồn từ lối nói trong tuồng và một số hình thức dân ca khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Khác với các quan điểm trên, tác giả cuốn “Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại”, Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức khẳng định: “Hát nói vốn bắt nguồn từ thể nói sử cổ truyền của dân tộc”. [37, tr. 263]. Còn tác giả Vi Phong (trong “Dân ca Nghệ Tĩnh”) [39] lại cho là “hát nói có thể có nguồn gốc từ hát giặm ở chính quê hương mình”. Ngô Ngọc Linh và Ngô Văn Phú trong “Tuyển tập thơ ca trù” lại nhấn mạnh “Hát nói là một điệu của ca trù quán, được xây dựng trên cơ sở làn điệu hát Giai của lối hát Cửa đình”. [27, tr. 23] Tóm lại, hát nói là một thể thơ có nguồn gốc khá phức tạp. Không những vậy, rất nhiều các bài hát nói còn không có tên, không đƣợc các nhà Nho lƣu giữ cẩn thận vào văn tập. Những tác phẩm mà chúng ta có đƣợc hiện nay là kết quả sƣu tầm trong thời gian dài của một số tác giả nhƣ Giải nguyên Lê Thƣớc, Song an Hoàng Ngọc Phách, Trƣơng Chính, Nguyễn Đức Mậu, Ngô Ngọc Linh, Ngô Văn Phú,… Các bài thơ hát nói có rất nhiều giá trị về nội dung. Cái hay, cái đặc sắc của thơ hát nói đƣợc thể hiện rõ trong phần mở đầu cuốn sách “Đào nương ca” của Nguyễn Văn Ngọc [35]. Khả năng đồng hóa kỳ diệu của thơ hát nói đƣợc nhắc tới trong “Việt Nam ca trù biên khảo” của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề [16],… Qua bài viết “Vị trí của hát nói trong dòng văn học chữ Nôm”, Nguyễn Xuân Diện [10] đã khẳng định tầm quan trọng của thơ hát nói đối với văn học dân tộc. Gần đây nhất (2008) ở viện Văn học, Nguyễn Đức Mậu đã bảo vệ rất thành công luận án Tiến sỹ với đề tài “Thể loại hát nói trong sự vận động của lịch sử văn học”,… 2.3 Lịch sử nghiên cứu về thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ Phần lớn các nhà nghiên cứu chỉ trọng tâm vào nguồn gốc, đặc điểm thơ hát nói, rất ít ngƣời đi sâu vào tìm hiểu thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 Lác đác có một số bài viết với dung lƣợng khá “khiêm tốn” của một số tác giả nhƣ “Hát nói Nguyễn Công Trứ” của Nguyễn Đức Mậu [30] trên “Tạp chí văn học” năm 2000, “Nguyễn Công Trứ, ông hoàng hát nói” của Nguyễn Viết Ngoạn [34] trong “Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh” năm 2001,… Ngoài ra, nội dung của một số cuốn sách nhƣ “Thơ văn Nguyễn Công Trứ” của Lê Thƣớc – Hoàng Ngọc Phách – Trƣơng Chính [55], “Thơ văn Nguyễn Công Trứ” của Trƣơng Chính [7], “Hát nói Nguyễn Công Trứ – Chuyên luận & tinh tuyển” của Nguyễn Đức Mậu [32],… phần lớn đều giới thiệu các bài thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. Điểm lại hàng loạt những công trình nghiên cứu trên đây, chúng tôi nhận thấy lịch sử nghiên cứu về tác giả Nguyễn Công Trứ, về thơ hát nói nói chung, thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ nói riêng có rất nhiều thành tựu. Nhƣng chủ yếu tập trung ở ba vấn đề: Một là nhìn nhận, đánh giá về nhân cách và con ngƣời Nguyễn Công Trứ trên ba phƣơng diện lịch sử, triết học, tôn giáo. Hai là tìm hiểu về nguồn gốc, nội dung tƣ tƣởng của các bài thơ hát nói trên phƣơng diện văn học. Ba là tìm hiểu thơ hát nói với tƣ cách là một loại hình nghệ thuật của âm nhạc. Nhƣ vậy, có thể khẳng định là chƣa có một công trình khoa học chuyên biệt nào mang tính hệ thống, nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về ngôn ngữ thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ dƣới góc độ ngôn ngữ học. 3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận văn là nghệ thuật tổ chức ngôn từ trong 60 bài thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ do Trƣơng Chính sƣu tầm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 3.2 Phạm vi nghiên cứu Trong quá trình thực hiện, chúng tôi sẽ: Đối chiếu, so sánh 60 bài thơ hát nói do Trƣơng Chính sƣu tầm với Từ khúc của Trung Quốc, với một số bài hát nói của các tác giả khác nhƣ Nguyễn Bá Xuyến, Cao Bá Quát, Nguyễn Quý Tân, Nguyễn Khuyến, Dƣơng Khuê,… 3.3 Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu nghệ thuật tổ chức ngôn từ trong thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ nhằm chứng tỏ sự vƣợt bậc về tài năng của Nguyễn Công Trứ so với các tác giả thơ hát nói khác nhƣ Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Quý Tân, Nguyễn Khuyến, Dƣơng Khuê,… 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Xây dựng một cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu nghệ thuật tổ chức ngôn từ trong thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. Khảo sát, thống kê, tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ về từ ngữ, vần, nhịp, luật bằng – trắc, khổ thơ, dòng thơ, mƣỡu và các yếu tố tạo ra tính nhạc. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp sau: Phƣơng pháp thống kê để thống kê các đặc điểm cấu trúc, đặc điểm từ ngữ trong thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. Phƣơng pháp miêu tả để khảo sát cụ thể đặc điểm cấu trúc, đặc điểm từ ngữ trong thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ dựa trên cơ sở phân tích các cứ liệu cụ thể. Ngoài ra, trong luận văn này chúng tôi còn sử dụng các thủ pháp so sánh, đối chiếu thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ với Từ khúc của Trung Quốc và với các bài thơ hát nói của các tác giả khác nhƣ Nguyễn Bá Xuyến, Cao Bá Quát, Nguyễn Quý Tân, Nguyễn Khuyến, Dƣơng Khuê,… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 6. Đóng góp của luận văn Thông qua việc miêu tả đặc điểm ngôn ngữ thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ, luận văn của chúng tôi sẽ góp phần làm sáng tỏ sự hoàn thiện thể loại của thơ hát nói về mặt kết cấu hình thức. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Cơ sở lý luận Chƣơng 2. Đặc điểm cấu trúc trong thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ Chƣơng 3. Đặc điểm từ ngữ trong thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1 ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ 1.1.1 Khái niệm Trong “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”, ngôn ngữ thơ ca đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Các phương tiện ngôn ngữ được dùng trong thơ ca mang đặc trưng riêng, thường có sắc thái biểu cảm, có hình ảnh”. [58, tr. 171] Còn Nguyễn Phan Cảnh trong cuốn “Ngôn ngữ thơ” lại cho rằng ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thơ “không phải là gì xa lạ mà chính là lời ăn tiếng nói của nhân dân được nâng cao”. [4, tr. 62] Nhƣ vậy, ngôn ngữ thơ ca có thể hiểu là ngôn ngữ chọn lọc trong đời sống hàng ngày để các tác giả thêu dệt nên những tác phẩm thơ giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm,…theo ý muốn chủ quan của riêng mình. 1.1.2 Đặc điểm ngôn ngữ thơ So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ đời thƣờng, ngôn ngữ thơ ca có một số đặc điểm sau: Các thông báo trong thơ bao giờ cũng đƣợc xây dựng dựa trên những nét tƣơng đồng về ngôn ngữ theo một tiêu chí nào đó nên nó thƣờng đa nghĩa và có tính chất nƣớc đôi. Ngôn ngữ thơ thƣờng mang đậm dấu ấn cá nhân vì nó là sản phẩm của riêng ngƣời sáng tác. Ngôn ngữ thơ thƣờng ngắn gọn, hàm xúc, giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm và sắc thái tu từ. Mỗi dòng thơ giống một nốt nhạc của tâm hồn nên nó thƣờng đọng lại trong lòng ngƣời đọc những ngân vang sâu lắng. Trong ngôn ngữ thơ ca, vần, nhịp và tính nhạc thƣờng đƣợc chú ý hơn cả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 1.1.2.1 Đặc điểm vần Định nghĩa vần: Cho đến nay vẫn chƣa có một định nào về vần mang tính chất phổ quát cho mọi nền thơ. Một số nhà nghiên cứu trƣớc đây coi “vần là sự lặp lại y nguyên, là sự đồng nhất một số âm tố ở hai từ hiệp vần với nhau”. Điều này chƣa thỏa đáng bởi các âm chính ngoài sự đồng nhất hoàn toàn còn có sự đồng nhất về một đặc trƣng nào đó (đặc trƣng âm sắc / đặc trƣng âm lƣợng). Chúng tôi đồng ý với Mai Ngọc Chừ coi nhịp đồng nhất với tiết tấu và “vần là sự hòa âm, sự cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ và thực hiện những chức năng nhất định như liên kết các dòng thơ, gợi tả, nhấn mạnh sự ngừng nhịp.” [8, tr. 12]. Đặc điểm chung của vần thơ Việt Nam: Những âm tiết mang vần bao giờ cũng chứa một hàm chứa một lƣợng thông tin cao để làm tăng sức mạnh biểu đạt nội dung tƣ tƣởng cho các dòng thơ, bài thơ. Vì vần là “tiêu điểm” sáng ngời, là “thi nhãn” của dòng thơ nên vần phải đƣợc gieo ở những vị trí thích hợp. Trong tiếng Việt và các loại hình ngôn ngữ đơn lập thì “đơn vị hiệp vần của vần không phải là từ mà là âm tiết”. [8, tr. 50]. Từ đa tiết sẽ không đƣợc chấp nhận khi tham gia hiệp vần. Vần thơ có hai mặt là đồng nhất và khác biệt. Mặt đồng nhất của vần: Cấu trúc của một âm tiết tiếng Việt do năm thành phần tạo nên là âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu. “Quy mô lớn nhất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 trong vần thơ Việt Nam là đồng nhất bốn trong số năm thành phần cấu tạo âm tiết”. [8, tr. 56]. Chẳng hạn, cặp vần“thuyền” và “quyên” có 3 sự đồng nhất là âm đệm “u”, âm chính “yê” và âm cuối “n”. Ngoài ra, trong vần còn có hiện tƣợng đồng nhất hoàn toàn nhƣng không đáng kể. Chẳng hạn, cặp vần “quyên” và “quyền có 4 thành phần đồng nhất là âm đầu “q”, đệm âm “u”, âm chính “yê”, âm cuối “n”. Sự xuất hiện của những cặp vần đồng nhất hoàn toàn sẽ làm cho “nhạc thơ” bị chững lại, việc biểu đạt nội dung mới trên dòng thơ sẽ bị hạn chế. Bên cạnh sự đồng về mặt âm tố, các vần thơ tiếng Việt còn có sự đồng nhất về đặc trƣng âm sắc, đặc trƣng âm lƣợng. Dƣới đây là bảng tiêu chí khu biệt các nguyên âm của Đoàn Thiện Thuật [53]. Bảng 1.1 Tiêu chí khu biệt các âm vị nguyên âm Cố định Âm sắc Âm lƣợng Bổng Không cố định Trung hòa Trầm Nhỏ i w u Lớn vừa e / o Lớn / a/a / Bổng ie Trung hòa Trầm w uo Dựa vào các tiêu chí trong bảng trên chúng ta có thể “giải thích được vì sao khi hai âm tiết không có sự đồng nhất về âm tố mà vẫn có thể hiệp vần được với nhau, tạo nên được sự hòa âm nhất định”. [8, tr. 57]. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 “Nao nao dòng nước uốn quanh, Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.” (Nguyễn Du – Truyện Kiều) Cặp vần “quanh” và “ghềnh” có sự đồng nhất về đặc trƣng âm sắc bổng vì chúng có chứa hai nguyên âm hàng trƣớc là | |, |e|. Mặt khác biệt của vần thơ Việt Nam chính là sự khác nhau về một trong năm thành phần cấu tạo âm tiết là âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu. Nhờ các yếu tố khác biệt này mà “các vần thơ không bị lâm vào tình trạng lặp vần”. [8, tr. 63]. Ví dụ: “Người sao một hẹn thì nên Người sao chín hẹn thì quên cả mười”. (Ca dao) Cặp vần “nên”, “quên” có 2 sự khác biệt là khác biệt âm đầu |n|, |c|, và khác biệt âm đệm |-u-|. Tóm lại, mặt đồng nhất và mặt khác biệt có thể coi là đặc điểm mang tính phổ quát cho mọi nền thơ. Tuy nhiên, chúng ta không nên hiểu đồng nhất là sự lặp lại y nguyên, mà chỉ là sự giống nhau ở một thành phần nào đó trong cấu trúc âm tiết, phần còn lại chính là điểm khác biệt. Nhƣ vậy, hai âm tiết khi tham gia hiệp vần phải khác nghĩa nhau. “Vần không phải là một đơn vị ngôn ngữ có ý nghĩa tự thân. Nó chỉ có khả năng làm tăng sức mạnh biểu đạt ý nghĩa của các đơn vị khác, các đơn vị từ vựng...Thường thường, sức mạnh biểu đạt ý nghĩa của vần dễ biểu lộ ra khi người ta đối chiếu, so sánh, liên hệ trực tiếp hai từ hoặc hai âm tiết bắt vần với nhau”. [8, tr. 47] Có nhiều cách gieo vần nhƣng phổ biến hơn cả vẫn là lối gieo vần chân và lối gieo vần lƣng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất