Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian việt nam...

Tài liệu Nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian việt nam

.PDF
71
342
120

Mô tả:

Ket-noi.com chia sẻ miễn phí LỜI CẢM ƠN Trong thời gian nghiên cứu để hoàn thành khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo khoa Lịch Sử - trường ĐHSP Hà Nội 2. Tôi xin cảm ơn sự gúp đỡ của các thầy cô, đặc biệt là hai cô giáo Th.s Hoàng Thị Nga và Th.s Nguyễn Thị Nga, đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Thư viện trường ĐHSP Hà Nội 2, Thư viện Quốc Gia, Thư viện trường Đại học Văn hóa đã cung cấp cho tôi nhiều tài liệu có giá trị để tôi hoàn thành công trình này. Là một sinh viên lần đầu tiên nghiên cứu khoa học nên khóa luận của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, 5/2013 Tác giả khóa luận Vũ Thị Thanh Hằng LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài khóa luận này là do sự cố gắng, nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu của bản thân với sự giúp đỡ nhiệt tình của hai cô giáo Th.s Hoàng Thị Nga và Th.s Nguyễn Thị Nga. Công trình này không trùng lặp với các kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Tác giả khóa luận Vũ Thị Thanh Hằng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 NỘI DUNG ................................................................................................. 6 Chương I: Khái quát về múa rối nước dân gian Việt Nam ..................... 6 1.1. Cơ sở, điều kiện hình thành nghệ thuật múa rối nước dân gian Việt Nam ................................................................................................... 6 1.1.1. Điều kiện tự nhiên .............................................................................. 6 1.1.2. Điều kiện kinh tế ................................................................................ 8 1.1.3. Điều kiện văn hóa – xã hội ................................................................. 9 1.2. Sự ra đời của múa rối nước dân gian Việt Nam ................................ 11 1.3. Quá trình phát triển của múa rối nước dân gian Việt Nam ................ 15 1.3.1. Thời kì hình thành (thời kỳ nhà Lý) .................................................. 15 1.3.2. Thời kì phát triển .............................................................................. 15 Tiểu kết chương 1 Chương II: Nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian Việt Nam ......................................................................................................... 20 2.1. Đặc điểm của quân trò múa rối nước ................................................. 20 2.1.1. Quân trò ........................................................................................... 20 2.1.2. Thân rối ........................................................................................... 22 2.1.3. Đế rối .............................................................................................. 23 2.1.4. Nhân vật ........................................................................................... 24 2.2. Vật liệu trong tạo hình múa rối nước dân gian .................................. 26 2.3. Quy trình thiết kế tạo hình rối nước dân gian Việt Nam ................... 28 2.3.1. Tạo hình tính cách nhân vật .............................................................. 28 2.3.2. Thiết kế phục trang ........................................................................... 33 2.3.3. Thiết kế máy móc điều khiển ............................................................ 38 2.4. Dụng cụ thực hiện gia công động tác rối........................................... 43 Tiểu kết chương 2 Chương III: Đặc điểm, vai trò của nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian Việt Nam .......................................................................... 46 3.1. Đặc điểm của nghệ thuật tạo hình múa rối nước dân gian ................. 46 3.2. Vị trí, vai trò của nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian Việt Nam .......................................................................................... 50 3.3. Đóng góp của tạo hình rối chuyên nghiệp với tạo hình rối dân gian . 54 Tiểu kết chương 3 KẾT LUẬN ............................................................................................... 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 58 PHỤ LỤC.................................................................................................. 62 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Múa rối nước là một sáng tạo nghệ thuật đặc biệt của người Việt mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Nó chứa đựng và lưu giữ nhiều sinh hoạt tinh thần, vật chất của nhân dân Việt Nam trong lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước. Múa rối nước là nghệ thuật của người nhân dân, đặc biệt là của nông dân vừa gần gũi lại vừa thiêng liêng, là biểu tượng cho ước mơ của cộng đồng. Chính vì thế mà tìm hiểu về múa rối nước cũng chính là tìm hiểu về nét đẹp của văn hóa Việt Nam. Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống độc đáo lấy mặt nước làm sân khấu, là nơi cho con rối diễn trò, đóng kịch. Buồng trò rối nước có kiến trúc hai tầng tám mái, là nơi người điều khiển ngâm mình điều khiển con rối bằng cách giật dây hoặc khua sào có đính với con rối ở đầu dây và đầu sào. Múa rối nước thường gắn với hội hè, lễ Tết… Múa rối nước là một bộ môn nghệ thuật sân khấu nước kì lạ, độc đáo, đặc sắc chỉ có ở Việt Nam. Trong nghệ thuật múa rối nước chứa đựng, hội tụ nhiều tinh hoa của nghệ thuật dân gian Việt Nam: Nghệ thuật điêu khắc dân gian, nghệ thuật hội họa truyền thống, nghệ thuật sáng tác các tích trò, nghệ thuật dân gian và đặc biệt là kĩ thuật dân gian. Có lẽ vì vậy mà múa rối nước đã trở thành xứ giả văn hóa của Việt Nam, thu hút sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo bạn bè năm châu. Múa rối nước chỉ có ở Việt Nam, là loại hình nghệ thuật độc nhất vô nhị và đang được đệ trình để UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Đặc biệt, trong múa rối nước thì nghệ thuật tạo hình có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì con rối là linh hồn, là cái cốt lõi của nghệ thuật múa rối. Các nghệ nhân với tài năng của mình đã làm nên những quân rối có thể cử 1 động, nhảy múa trên mặt nước – điều tưởng chừng như không thể làm được. Nhờ có nghệ thuật tạo hình mà các nhân vật trong múa rối nước trở nên sinh động, làm nổi bật lên tính cách của mình. Mỗi quân rối được hoàn thành phải trải qua rất nhiều công đoạn. Với đôi bàn tay khéo léo, lòng đam mê, yêu quý bộ môn nghệ thuật này, người nghệ nhân tạo hình đã làm nên thành công của múa rối nước. Nghệ thuật múa rối nước dân gian là sự hòa quyện của nghệ thuật điêu khắc truyền thống với việc sử dụng nước làm sân chơi đã tạo nên sự độc đáo bất ngờ, nếu không có nghệ thuật tạo hình thì sẽ không có múa rối nước Việt Nam. Là sinh viên chuyên ngành Lịch sử Văn hóa; đồng thời lại có niềm yêu thích đặc biệt đối với nghệ thuật múa rối nước cổ truyền của dân tộc, người viết muốn đi sâu tìm hiểu về môn nghệ thuật này. Vì vậy mà người viết đã lựa chọn đề tài: “Nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Sử sách chính thức ghi nhận sự ra đời của di sản văn hóa múa rối nước là từ thời nhà Lý (1010 - 1225), cụ thể là ở thời Lý Nhân Tông. Tuy nhiên do tục lệ bí truyền ở các phường hội chỉ cho phép người làm trò gì biết trò ấy, phường nào biết phường ấy, không ai được tiết lộ cho nhau biết nên trải qua gần nghìn năm lịch sử, nghệ thuật múa rối nước của dân tộc vẫn giữ được tính nguyên sơ, cụ thể. Nửa thế kỉ gần đây, với sự độc đáo cùng với việc bảo tồn và phát huy, múa rối nước trở thành đã trở thành đề tài nghiên cứu của các học giả và nhiều ấn phẩm khác đã ra mắt bạn đọc như: Năm 1976, Tô Sanh đã cho ra mắt bạn đọc cuốn “Nghệ thuật múa rối nước”, NXB Văn hóa, Hà Nội. Trong công trình này, Tô Sanh giới thiệu cho 2 bạn đọc có thêm kiến thức về nghệ thuật múa rối nói chung và nghệ thuật múa rối nước nói riêng; về nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển của bộ môn nghệ thuật này. Ngoài ra, trong tác phẩm cũng đã nói đến kỹ thuật biểu hiện, vai trò, tính chất, đặc điểm của nghệ thuật múa rối. Tuy nhiên tác phẩm này vẫn chưa khai thác đến mảng nghệ thuật tạo hình quân rối nước. Tác giả Nguyễn Huy Hồng đã lấy tên cuốn sách của mình là “Rối nước Việt Nam” (1996), NXB Sân khấu, Hà Nội. Trong công trình, tác giả đã trình bày cái nhìn tổng quan về nghệ thuật múa rối ở Việt Nam và đặc biệt là về nghệ thuật múa rối nước. Sau đó, tác giả đã đi sâu hơn, tìm hiểu về nghệ thuật rối nước trên tất cả các mặt, các phương diện. Và vấn đề nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước cũng đã được tác giả chú ý khai thác nhưng chưa sâu, mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu những nét chung, nét khái quát về nó. Đặc biệt gần đây nhất, giám đốc Nhà hát múa rối nước Trung ương Lê Văn Ngọ cùng các cộng sự đã nghiên cứu đề tài khoa học: “Bảo tồn và phát triển múa rối nước cổ truyền Thăng Long - Hà Nội”. Đây là công trình chào mừng kỉ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đó chính là nguồn tài liệu quý báu để nhà hát múa rối Thăng Long nghiên cứu, xây dựng thêm chương trình ngày càng phong phú, hấp dẫn hơn. Ngoài ra, trên các bài báo cũng có rất nhiều bài viết về bộ môn nghệ thuật này như: Thúy Nga với bài “Rối nước đặc sản của sân khấu dân tộc” in trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật; Lê Mỹ Ý (2006), “Rối nước – sự tồn tại kì diệu của tự nhiên”, tạp chí Sân khấu… Các tác phẩm này với nội dung giới thiệu cho bạn đọc biết về múa rối nước: nguồn gốc hình thành, nghệ thuật múa rối (sân khấu, buồng trò, nhân vật, tích trò)… Nhưng các tác phẩm này cũng chỉ đề cập đến nghệ thuật múa rối nước nói chung chứ chưa tìm hiểu chuyên sâu về nghệ thuật tạo hình. 3 Như vậy, trong các tác phẩm trên, chưa có tác phẩm nào đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian Việt Nam. Vì vậy, đề tài là sự bổ khuyết vào chỗ trống đó, để góp phần làm nổi bật nét đẹp, nét độc đáo trong loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Thông qua đề tài này, người viết muốn làm rõ về nguồn gốc, đặc điểm, quy trình tạo hình rối và khẳng định vai trò của nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian ở Việt Nam. * Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài này nhằm giải quyết một số nhiệm vụ chính như sau: - Cơ sở, điều kiện hình thành múa rối nước. - Sự ra đời của múa rối nước. - Quá trình phát triển của múa rối nước. - Đặc điểm của quân trò múa rối nước. - Quy trình thiết kế tạo hình rối. - Dụng cụ thực hiện gia công động tác rối. - Đặc điểm, vị trí, vai trò của nghệ thuật tạo hình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Đề tài giới hạn thời gian nghiên cứu là tìm hiểu nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước từ nguồn gốc hình thành (thời kỳ nhà Lý) cho đến nay. Về không gian: Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu về múa rối nước ở các phường rối ở đồng bằng châu thổ Sông Hồng: phường rối Đào Thục (Hà Nội), Nam Chấn (Nam Định), Thanh Hà (Hải Dương), làng Nguyễn (Thái Bình)… 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. * Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp đối chiếu và so sánh nhằm rút ra những nhận định chính xác. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp liệt kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp… 6. Đóng góp của khóa luận Về mặt lý luận: Đề tài sẽ mang đến cho bạn đọc những hiểu biết về nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian, vai trò của nó trong thành công của múa rối nước Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Với việc làm nổi bật nghệ thuật tạo hình đặc sắc trong múa rối nước, đề tài sẽ góp phần nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo tồn môn nghệ thuật này. Đồng thời qua đó cũng quảng bá rộng rãi hơn cho người dân trong nước cũng như bạn bè nước ngoài biết đến môn nghệ thuật múa rối nước. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì khóa luận được cấu trúc làm ba chương: Chương I: Khái quát về múa rối nước dân gian Việt Nam. Chương II: Nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian Việt Nam. Chương III: Đặc điểm, vai trò của nghệ thuật tạo hình trong múa rối nước dân gian Việt Nam. 5 NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ MÚA RỐI NƯỚC DÂN GIAN VIỆT NAM 1.1. CƠ SỞ, ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC DÂN GIAN VIỆT NAM 1.1.1. Điều kiện tự nhiên Theo PGS. Tiến Sĩ Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [33; 10]. Như vậy, con người chính là chủ thể của văn hóa, các giá trị của văn hóa đều do con người sáng tạo ra. Việt Nam là khu vực nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Ở đây có nhiều hệ thống sông lớn đã bồi đắp phù sa tạo nên các đồng bằng châu thổ rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho nghề nông trồng lúa nước ra đời và phát triển. Vì vậy mà vai trò của nước là vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người, nó không chỉ cung cấp nước để lao động sản xuất mà còn để vui chơi, giải trí. Từ nước mà người dân đã sáng tạo nên trò múa rối nước. Hay như ở phương Tây, do có khí hậu khắc nghiệt, có mùa đông rất lạnh và có tuyết rơi. Ở đây cũng có nhiều sông lớn, nhưng vì khí hậu khắc nghiệt vậy nên không thể tập trung sản xuất lúa nước như ở Việt Nam. Nhưng cũng chính từ thiên nhiên như vậy, con người nơi đây đã sáng tạo nên một môn nghệ thuật độc đáo – đó là múa ba lê, trượt băng. Như vậy, con người ở môi trường nào thì sẽ sáng tạo ra văn hóa, trò chơi dân gian gắn liền với môi trường ấy. Rối nước chính là “con đẻ” của người dân Việt cũng như múa ba lê, trượt băng là con đẻ của xứ băng. Ngoài ra, ở các làng quê còn có hệ thống ao hồ dày đặc, đó cũng là một trong những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của múa rối nước. Ao làng 6 thường là một hồ rộng, được bao bọc xung quanh bởi những mô đất, những hàng cây. Nước ao hồ xanh đục, có thể che giấu các dụng cụ máy móc điều khiển của quân rối để không cho khán giả biết. Nếu như nước quá trong, dễ nhìn thấy rõ những dụng cụ dưới nước là làm lộ bí mật, làm giảm hứng thú. Mặt khác, mặt nước ao hồ giữa trời, được ánh sáng mặt trời chiếu vào làm cho nó lung linh huyền ảo, tạo ra không gian vừa thực vừa hư. Rối nước là nghệ thuật của ao làng. Do sinh sống nơi địa hình trũng úng, người nông dân quen với nước, hiểu về nước nên họ làm nghệ thuật bằng nước. Ao làng được sử dụng làm khuôn viên biểu diễn, và ở đây, những vũ điệu rối xuất hiện trên mặt nước một cách tài tình trong tiếng nhạc đệm, âm thanh, tận dụng thiên nhiên, kết hợp màu trời, sắc nước, màu xanh của cây cối và hoa lá. Sự đóng góp của ao làng vào nghệ thuật múa rối là không nhỏ. Phải nhận định rằng: Ao làng với bờ bãi quanh nó vừa đẹp cả nơi diễn lẫn nơi xem. Buồng trò rối nước nổi lên giữa ao hòa hợp vào cảnh thiên nhiên thành một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Mặt nước mỗi khi có làn gió thoảng qua gợi sóng làm bóng hình nhà rối lung linh chuyển động cùng mây trời sắc nắng. Đàn cá rối tung tăng quẫy lộn trên mặt ao làm đàn cá thật trong ao quẫy, nhảy theo, thực thực hư hư. Sân khấu rối nước không trang trí mà không thể kể hết được cảnh giả biến hiện trên mặt ao cùng bóng hình nhân vật với cả sắc màu, cử chỉ, hình khối, dáng vẻ. Ao đã là một thành phần hữu cơ của cảnh quan thiên nhiên của đời sống xã hội, kinh tế, tình cảm, tinh thần. “Ao không chỉ là một công trình thủy lợi nông nghiệp nhỏ (Hydraulique agricole) thông thường mà còn là nguồn sinh sống thiết thực hàng ngày “còn ao rau muống, còn đầy chum tương”…Và bây giờ, ao làng lại là nơi để những nghệ sĩ nông dân múa rối nước bày tỏ, tạo nên nét đẹp văn hóa riêng của nông thôn Việt Nam” [20; 47]. 7 Sinh ra trên một đất nước vùng nhiệt đới, nước nhiều hơn đất, rối nước đã có vị trí đáng lưu ý trong nền văn minh sông Hồng, trong truyền thống văn hóa Việt Nam. 1.1.2. Điều kiện kinh tế Chúng ta có thể khẳng định rằng rối nước bắt nguồn từ những trò chơi, từ nghệ thuật tạo hình của người lao động Việt Nam và đặc biệt là của người nông dân. Họ là những con người chân lấm tay bùn, hàng ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, đã sống và gắn bó với nước ngay từ những ngày còn trong bụng mẹ. Nguồn nước chính là thứ không thể thiếu đối với một cộng đồng nông nghiệp. Đó là yếu tố quan trọng hàng đầu: nhất lúa, nhì phân, tam cần, tứ giống nên có thể nói nước gắn bó với người nông dân Việt, thân thiết và máu mủ vô cùng. Họ sống, lao động, sinh hoạt… gắn liền với nước và ngay cả khi vui chơi, giải trí cũng không tách rời khỏi yếu tố nước. Rối nước manh nha từ trong công cuộc trị thủy – một trong bốn họa nguy hiểm hàng đầu đó là thủy (nước), hỏa (lửa), đạo (trộm), tặc (giặc). Những người dân Việt cổ đã thành công không chỉ trong việc cải tạo thiên nhiên, bắt nó làm ra hạt gạo nuôi sống mình mà còn phục vụ cho đời sống tinh thần của bản thân. Múa rối nước chính là biểu hiện cho tài năng, óc sáng tạo của con Lạc cháu Rồng đựa trên hoàn cảnh của một vùng nhiệt đới có lượng mưa cao và diện tích nước lớn. Trên thế giới có khá nhiều cộng đồng sinh sống bằng nghề nông, những quốc gia với diện tích nước lớn nhưng múa rối nước với sân khấu mặt nước đặc sắc và độc đáo này chỉ duy nhất có ở Việt Nam. Những con rối thô sơ của nghệ thuật tạo hình buổi ban đầu trong những trò chơi tự phát đã dần hoàn thiện với trình độ tinh vi và nghệ thuật hơn đen lại một loại hình nghệ thuật đầy sức hấp dẫn, lôi cuốn bởi sự kì diệu và biến hóa khôn cùng. 8 Như vậy, bên cạnh điều kiện tự nhiên, đặc trưng kinh tế thì sự tài năng và trí tuệ, óc sáng tạo của con Lạc cháu Rồng là yếu tố quyết định cho sự ra đời của nghệ thuật rối nước Việt Nam. 1.1.3. Điều kiện văn hóa – xã hội Múa rối nước là một bộ môn nghệ thuật xuất phát từ trò chơi của nhân dân lao động, đặc biệt là của những người nông dân, những người thợ thủ công ở nông thôn sáng tạo nên. Nông thôn Việt Nam, với cảnh thiên nhiên của đồng ruộng, với lũy tre, ao cá, con sông, con rạch, cây đa, giếng nước, đình làng… Nông thôn Việt Nam với con trâu đang ăn cỏ ngoài bờ đê, ngoài cánh đồng, có đàn sáo ríu rít bay quanh, có con cò bay lả bay la, có cánh diều sáo vang lên những âm thanh quen thuộc, có tiếng giã gạo và tiếng chuông chùa xa xa. Những cảnh vật và âm thanh ấy đã tạo nên cho người nông dân có một tình cảm riêng biệt, thắm thiết nồng nàn, đậm đà tình yêu quê hương đất nước. Dù cho thiên tai hay địch họa, người nông dân cần cù và yêu nước, vẫn bám chặt lấy mảnh đất thiêng liêng, từ bao đời nay không lúc nào ngơi công việc cấu tạo mảnh đất đó, xây dựng những con người ở nơi đó, làm thế nào để tất cả đều trở nên đậm đà hơn, thắm thiết hơn. Chính hoàn cảnh thiên nhiên và hoàn cảnh đấu tranh cho quê hương như vậy, đã đưa tâm tư tình cảm của người nông dân Việt Nam vào nghệ thuật múa rối nước. Ngâm bùn lội nước để làm nghệ thuật không phải là một công việc bình thường thích thú với nhiều người. Nếu không phải là những người sống ân tình với nước tới mức “sống ngâm da, chết ngâm sương” như cư dân trồng lúa nước, thì khó có được sự truyền cảm nồng nhiệt vào hành động của nhân vật rối nước, lòng yêu mến giữ gìn nó đến nghiệt ngã chỉ “cha truyền con nối” và bảo tồn nó qua bao biến thiên lịch sử của hàng nghìn năm dựng nước – giữ nước tới giờ. 9 Nghệ nhân rối nước thường là những nông dân ở lứa tuổi trung niên trở lên, chuyên tay cày, tay cuốc, quanh năm lăn lộn với hòn đất cây lúa, ngày ngày hai sương một nắng ngoài đồng ruộng, nên coi việc múa rối nước như là một thú ăn chơi. Họ đóng tiền góp gạo dựng phường lập hội, tạc quân, chế máy – bỏ nhiều công sức ra đóng cọc, căng dây, dựng buồng trò, luyện tập, biểu diễn mà không đòi hỏi tiền thù lao mà chỉ mong vui làng vui xóm. Họ làm nghệ thuật một cách bình dị, tự phát, tự nguyện và hi sinh cao độ. Nghệ thuật này không phù hợp với phụ nữ, phần vì sức khỏe, phần vì tục lệ, phần vì rối nước xưa chưa thật chú trọng vào diễn lời, mà chỉ cốt thể hiện hành động bằng động tác. Múa rối nước thể hiện tư duy văn hóa Việt Nam gốc nông nghiệp lúa nước. Rối nước là sản phẩm của tư duy nông nghiệp với các hoạt động sống gắn liền với điều kiện thiên nhiên nóng ẩm, mưa nhiều và địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi, ao, hồ dày đặc. Việc tận dụng mặt nước làm sân khấu trình diễn là thể hiện thành quả văn hóa nảy sinh từ sự thích nghi với môi trường thiên nhiên trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sinh ra và gắn bó với nước, họ đã hòa hợp với môi trường nước và xem nó là một người bạn gần gũi, góp phần cùng họ tạo nên bộ môn nghệ thuật này. Múa rối nước cũng là nghệ thuật của hội làng. Ta gặp ở đây các nghi thức như: tế lễ, thui trâu, rước kiệu, cắm cờ hay các trò chơi dân gian như: kéo co, đánh đu, đánh vật, trọi trâu, múa sư tử... Ngoài ra còn phải kể đến các trò vui khác diễn ra trong dịp hội làng như: sư gõ mõ, vãi tụng kinh… ở chùa. Có thể nói hầu hết các sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng làng xóm đều được quân rối nước tái hiện. Thêm vào đó, các nghệ nhân rối nước đã tái hiện trên sân khấu của mình cuộc sống lao động bình thường: cày, bừa, chăn trâu, gánh cỏ, xay lúa, giã gạo… bên cạnh việc phản ánh sinh hoạt tinh thần thì sân khấu rối nước phản ánh cả sinh hoạt văn hóa vật chất. 10 Trong lũy tre xanh, sân khấu rối nước chính là kết tinh của các giá trị văn hóa dân gian. Và thứ “đặc sản văn hóa lúa nước” quả là miếng đất tốt cho người nông dân – nghệ sĩ tỏ bày tài nghệ, lòng mong muốn, lòng tự hào, niềm suy tư và tình cảm của mình với cộng đồng làng xóm. 1.2. SỰ RA ĐỜI CỦA MÚA RỐI NƯỚC DÂN GIAN VIỆT NAM Theo giáo sư Trần Văn Khê và nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Hồng thì nguồn gốc, xuất xứ của múa rối nước cho đến nay không ai biết chính xác. Nhiều nghệ nhân lão thành có nhắc lại theo trí nhớ đại khái về thời điểm ra đời của múa rối nước, nhưng không có đủ cơ sở tư liệu để khẳng định tính khoa học lịch sử. Cái mà chúng ta hiện viện dẫn về nguồn gốc của múa rối nước là từ tấm bia “Sùng Thiện Diên Linh”. Tuy thế, chúng ta có thể khẳng định dưới thời Lý (1010 – 1225) thì nghệ thuật múa rối nước của dân tộc đã khá phát triển. Bia “Sùng Thiện Diên Linh” dựng năm 1121 đời vua Lý Nhân Tông (1072 – 1128) tại chùa Đọi (Phủ Lý – Hà Nam) đã chứng minh cho điều này. Văn bia “Sùng Thiện Diên Linh” có tên đầy đủ là tấm bia “Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh” do Thượng thư bộ hình của vua Lý Nhân Tông là Nguyễn Công Bật soạn. Tác giả đã kể về việc vua Lý Nhân Tông tổ chức một buổi lễ long trọng nhân dịp kỉ niệm ngày sinh vua cha trong đó có biểu diễn múa rối tại bến sông Trường Lô (sông Hồng): “Gặp lúc Trung thu cảnh đẹp, muôn việc nghỉ ngơi Vua cho mở cổng lớn hoàng cung Lên xe ngọc mà ra chín lần cửa Cưỡi xe vàng mà rong ruổi đường to … Hướng Trường Lô sông biếc Ngự điện báu Linh Quang” [18; 40]. 11 Ở văn bia này, trò rối nước được miêu tả cụ thể: “Thả Rùa Vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn… Phơi mai để lộ bốn chân, dưới lòng sông lờ lững Rùa Vàng liếc mắt nhìn bờ Hé môi phun nước Ngửa trông dải mũ nhà vua Cúi xét bàn trời lồng lộng Trông vách núi cheo leo Dàn nhạc Thiền réo rắt Cửa động mở ra Thần tiên xuất hiện Đều là giáng điệu Thiên cung Há phải phong tư trần thế Các nàng vươn tay nhỏ, dâng khúc Hồi phong Nhăn mày thúy, ca ngợi vận đẹp Chim quý từng đàn ca múa Các con thú chạy loăng quăng Người đi hái củi, thợ săn giương cung”... [18; 39]. Đó chính là trò rối nước “Kim Ngao”. Quân rối rùa vàng to lớn quá mức tưởng tượng. Nó mang trên lưng cả một sân khấu rối cạn có cấu tạo ba ngọn núi có mấy cái động vậy mà vẫn phơi ra, bốn chân rùa vẫn lộ rõ trên dòng sông chảy lững lờ và dập dờn sóng vỗ. Rùa vàng ngửa đầu chầu vua, liếc mắt nhìn bờ và hé môi phun nước. Rùa vàng diễn trò trong tiếng nhạc thiền réo rắt để rồi sân khấu rối cạn mở ra để trình diễn: các nàng tiên múa hát khúc Gió về, hát bài ca ngợi vận tốt các con vật làm trò, cảnh người đi hái củi, cảnh đi săn… “Sân khấu Rùa vàng này sau đó lại được kéo lên bờ để vừa biểu diễn vừa làm trò” [37; 37]. 12 Cũng trong bia đó có đoạn “người nôm đánh chuông” mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã ghi lại trong quyển Lý Thường Kiệt, và có đoạn "các nàng tiên hoa tay mềm mại múa điệu hội phong – nhíu đôi lông mày biếc, mà hát bài ca hưu văn" mà Tô Sanh đã ghi lại theo bản dịch văn bia "Sùng Thiện Diên Linh". Sự phát triển của trò rối nước đã quá rõ: diễn ra đã có lời và có động tác, có sự kết hợp giữa hai yếu tố này: “Nàng tiên từ trên không sa xuống Cất lên tiếng hát véo von Ca ngợi công đức đầu tiên của vị vua hiền” [32; 57]. Như vậy, có thể nói rằng văn bia “Sùng Thiện Diên Linh” đã cho chúng ta một bằng chứng khẳng định: Nghệ thuật múa rối dưới thời Lý (thế kỉ XI, XII) đã rất thịnh hành và có một trình độ khá cao. Khi nói về cái nôi của nghệ thuật múa rối nước Việt Nam, nhà văn Hữu Ngọc đã từng mô tả ngôn ngữ của nghệ thuật múa rối nước như sau: “Không rõ múa rối nước có ở các nước khác hay không, hay chỉ ở Việt Nam mới có thôi, nhưng có một điều chắc chắn là múa rối này vẫn tiếp tục được lưu truyền và ngày càng được khán giả ưa chuộng. Để thưởng thức rối nước trong bối cảnh nguyên thủy của nó, cần phải trở về cái nôi của loại hình nghệ thuật này – vùng làng quê châu thổ sông Hồng của Việt Nam” [25; 20]. Như vậy, có thể khẳng định rằng, múa rối nước đã ra đời ở miền Bắc Việt Nam. Và cụ thể: Vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng chính là nơi sản sinh ra nghệ thuật múa rối nước cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Các phường rối dân gian truyền thống đều tập trung quanh kinh thành Thăng Long, đó là các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh… Vùng đồng bằng sông Hồng là vùng đất lâu đời của người Việt, là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Đây được coi là cái 13 nôi của văn hóa – lịch sử dân tộc. Múa rối nước là một dẫn chứng tiêu biểu. Đồng bằng sông Hồng có địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng. Ở khu vực này có một mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, gồm các dòng sông lớn: sông Hồng, sông Mã, sông Thái Bình… cùng các ao hồ dày đặc. Chính yếu tố nước đã tạo nên sắc thái riêng biệt trong tập quán canh tác, cư trú cũng như trong sinh hoạt cộng đồng của cư dân khu vực, tạo nên nền văn minh lúa nước. Nước có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân. Nhờ có nước mà con người có thể làm ra cây lúa, hạt gạo để duy trì sự sống. Và trong lúc nông nhàn, cũng bắt nguồn từ nước, người dân đã dùng những con rối thô sơ diễn trên mặt nước, tái hiện cảnh sinh hoạt hàng ngày, những cảnh lao động sản xuất. Từ đó dần dần hình thành nên bộ môn nghệ thuật múa rối nước. Trong đó, mảnh đất Sài Sơn (Quốc Oai – Hà Nội) hay chính là vùng chùa Thầy, nơi có nhà thủy đình sớm nhất nước ta được các nhà nghiên cứu hàng đầu về rối nước – Nguyễn Huy Hồng và Tô Sanh đánh giá là có nhiều điều kiện hơn cả để trở thành cái nôi của nghệ thuật múa rối nước Việt Nam với tổ nghệ là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Tương truyền, Từ Đạo Hạnh là người hiểu biết uyên thâm về nho, y, lý, số nên thường làm thuốc chữa bệnh cứu người. Ông còn thích múa hát và thường dạy dân diễn trò múa rối nước, trò diễn chèo nên dân chúng gọi ông là “thầy”, và truyền rằng bài “Giáo trò” và nhân vật chú Tễu là do chính tổ sư Từ Đạo Hạnh tạo nên. Rồi ngôi chùa cùng ngọn núi nơi ông chủ trì, tĩnh tọa cũng có tên là chùa Thầy, núi Thầy. Chùa Thầy tọa lạc bên sườn núi, chân núi, phía trước có hồ Long Trì rộng lớn. Dưới hồ có ngôi thủy đình trông như một đóa sen từ mặt nước vươn lên. Đây chính là nơi diễn trò múa rối nước đầu tiên của nước ta. Việc xuất hiện ngôi thủy đình sớm như vậy cho thấy sự thành công của múa rối nước, của văn hóa dân gian Việt Nam. 14 1.3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA MÚA RỐI NƯỚC DÂN GIAN VIỆT NAM Múa rối nước là môn nghệ thuật truyền thống, lâu đời của dân tộc Việt Nam. Quá trình phát triển của môn nghệ thuật này có thể chia ra làm hai thời kì. 1.3.1. Thời kì hình thành (Thời kỳ nhà Lý) Ở thời kì này, múa rối nước còn là một hình thức trò chơi của nhân dân lao động, thợ thủ công, nông dân, không phổ biến rộng mà hoạt động trong phạm vi vài gia đình, một vài dòng họ, một vài địa phương. Dựa vào tấm bia Sùng Thiện Diên Linh, chúng ta có thể khẳng định múa rối nước ra đời vào thời kì nhà Lý. Thời nhà Lý đã hình thành một nhóm người chơi rối của nhân dân lao động, tiến lên thành một phường, một gánh, bắt đầu diễn ở địa phương có đông người xem, sau đó dần lan rộng ra ngoài xóm làng, được nhiều vùng lân cận biết đến, đình chùa, cung đình biết đến, diễn trong những ngày hội lễ lớn. Căn cứ vào tấm bia Sùng Thiện Diên Linh, chúng ta có thể thấy được, ngay từ khi ra đời, trò múa rối nước đã được vua quan sử dụng làm thú vui trong triều đình. Bằng chứng là việc vua Lý Nhân Tông đã sử dụng trò rối nước “Kim ngao” để diễn trong dịp kỷ niệm ngày sinh của cha mình. Như vậy, múa rối nước trong thời kỳ này không chỉ phát triển sâu rộng ở nông thôn mà ở trong triều đình cũng được giai cấp phong kiến chấp nhận. 1.3.2. Thời kì phát triển Sau thời nhà Lý, trong suốt thời kì phong kiến ở nước ta, nghệ thuật múa rối lan rộng ra các vùng, có nhiều cơ sở múa rối nước hoạt động, tiến đến các địa phương xa hơn và lan rộng hầu như khắp miền miền Bắc (châu thổ sông Hồng hoặc đồng bằng Bắc Bộ). Đã có những cuộc gặp gỡ giữa các phường rối với nhau, và đã có những cuộc thi đấu, học hỏi, từ đó ảnh hưởng lẫn nhau. Trải qua bao cuộc xâm nhập về tôn giáo, phong kiến, đế quốc, ngoại 15 bang, nghệ thuật múa rối nước, tuy có bị chế ngự, có thời kỳ còn bị nghiêm cấm (khi nhà Minh mang quân sang xâm lược, mưu toan hủy diệt nền văn hóa bản địa, độc tôn văn hóa xâm lược nên đã cắt đứt giai đoạn phát triển thịnh đạt của nghệ thuật múa rối nước truyền thống của kỷ nguyên Đại Việt), nhưng nội dung chi tiết chủ yếu vẫn là phản ánh sinh hoạt đời sống nông thôn, với các tiết mục lệ thuộc về kỹ xảo. Từ năm 1930 – 1945: Sau khi Đảng ra đời và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại chính quyền. Đến cách mạng tháng Tám, chính quyền thuộc về tay nhân dân. Toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp, phường rối có nơi bị đình đốn, có nơi còn hoạt động được, chủ yếu để phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Có thể nói rằng múa rối nước dân gian bấy giờ đã phát triển trong hoàn cảnh hết sức khó khăn: “Nhiều quân rối bị giặc đốt cháy, con rối mất, phường rối tan, chỉ có một số ít là tồn tại. Tiết mục về lễ giáo phong kiến bị bãi bỏ dần, tiết mục lịch sử sản xuất và chiến đấu đuợc tăng cường” [32; 68]. Trong thời kì này, chỉ có nông dân múa rối nước và cũng chỉ biểu diễn cho hàng xóm của mình. Chính vì vậy mà các vở rối nước đều là dàn cảnh giống ở vùng nông thôn: có ruộng lúa, ao cá, lũy tre, cây đa, giếng nước, đền làng… Các cảnh trong vở rối bao gồm: cảnh cày bừa, chọi trâu, tát nước, gặt lúa, đập lúa, đua thuyền, cảnh trẻ con bơi lội… Từ năm 1954 đến năm 1973: Thời kỳ hòa bình lập lại ở Đông Dương năm 1954, các phường rối nước cổ truyền được phục hồi, phục vụ nhân dân địa phương là chủ yếu. Cũng có phường rối về phục vụ đồng bào ở tỉnh lị và thủ đô. Năm 1956, đoàn múa rối Trung ương được thành lập – đây là mốc quan trọng cho nghệ thuật múa rối Việt Nam. Thời kỳ này, các phường rối đã tổ chức nhiều cuộc liên hoan, hội diễn trao đổi kinh nghiệm về múa rối nước. Những kịch bản rối nước đầu tiên tiến từ trò lên chuyện của đoàn múa rối Trung ương “Trần Hưng Đạo bình 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất