Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của nguyễn du trong truyện kiều...

Tài liệu Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của nguyễn du trong truyện kiều

.PDF
76
1520
136

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN NGỮ VĂN NGUYỄN THỊ KIM VÂN NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÍNH CÁCH NHÂN VẬT CỦA NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Sư phạm Ngữ Văn Cán bộ hướng dẫn: PHAN THỊ MỸ HẰNG Cần Thơ, 4 - 2011 -1- ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG CHÍNH Chương 1: Một số vấn đề chung về miêu tả và nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật 1. Nghệ thuật miêu tả trong văn học 1.1 Khái niệm văn miêu tả 1.2 Đặc điểm văn miêu tả 1.3 Nghệ thuật miêu tả trong văn học 2. Nhân vật văn học 2.1 Khái niệm về nhân vật văn học 2.1.1 Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn học 2.1.2 Nhân vật văn học là phương tiện khái quát hiện thực 2.2 Loại hình nhân vật văn học 2.3 Đặc điểm của nhân vật văn học 2.4 Tính cách nhân vật văn học 3. Phân loại hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều 4. Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều 4.1 Các phương thức nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều 4.1.1 Miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngoại hình 4.1.2 Miêu tả tính cách nhân vật thông qua hành động 4.1.3 Miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ 4.1.4 Miêu tả tính cách nhân vật thông qua nội tâm 4.2 Nhận xét Chương 2: Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều 1. Miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngoại hình 2. Miêu tả tính cách nhân vật thông qua hành động 3. Miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ 4. Miêu tả tính cách nhân vật thông qua nội tâm Chương 3: Hiệu quả sử dụng nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều 1. Thể hiện chân thật, hoàn chỉnh và sắc nét tính cách riêng của từng nhân vật 2. Thể hiện sự sáng tạo, điêu luyện trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc của Nguyễn Du PHẦN KẾT LUẬN -2- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khi sáng tác một tác phẩm văn chương, vấn đề thường được độc giả quan tâm đó là những hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Có thể nói, đây là yếu tố đầu tiên để đánh giá sự thành công hay hạn chế của một nhà văn. Vì vậy, ta có thể khẳng định nhân vật chính là linh hồn của tác phẩm văn học. Bởi nhân vật là phương tiện để truyền tải nội dung tác phẩm, tư tưởng, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm. Bên cạnh đó, nhân vật còn là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Muốn hiểu được tác phẩm văn học một cách đầy đủ, trọn vẹn thì chúng ta phải nắm bắt được thế giới nhân vật mà cụ thể là phải đi sâu, khai thác tính cách nhân vật bởi đó cũng chính là phát ngôn của tác phẩm. Thiết nghĩ, con người ngoài xã hội đi vào tác phẩm văn học sẽ bị chi phối bởi lăng kính chủ quan và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Muốn cho nhân vật có hồn thì nhà văn phải có biện pháp nghệ thuật độc đáo trong việc khắc họa nhân vật. Có nhiều cách khác nhau để thể hiện nhân vật. Ở đây người viết quan tâm hơn cả là nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật, bởi tính cách có vai trò rất quan trọng đối với cả nội dung lẫn hình thức của một tác phẩm văn học. Đúng như Hêghen đã nói: “Tính cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức’’[2; tr 345] và Đôxtôiepxki cũng đã từng khẳng định:“Đối với nhà văn, toàn bộ vấn đề là ở tính cách” [2; tr.346]. Tính cách nhân vật được xây dựng trên nhiều phương diện nghệ thuật khác nhau. Tính cách có thể được thể hiện thông qua việc miêu tả ngoại hình, nội tâm, thông qua cử chỉ, hành động lời nói hoặc thông qua mối quan hệ với các nhân vật khác. Vì vậy, có thể nói, việc đi vào tìm hiểu một tác phẩm văn học để khám phá tính cách nhân vật là rất cần thiết đối với cả người học lẫn người dạy. Đối với người học, khám phá đúng và đầy đủ về nhân vật, tính cách nhân vật là chìa khóa để mở cửa bước vào thế giới của tác phẩm, khám phá những kho báu bên trong. Còn đối với người giáo viên dạy văn, việc cần có kiến thức đầy đủ, vững vàng về tính cách nhân vật sẽ giúp giáo viên có định hướng đúng đắn cho học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học. Xét về tác phẩm văn học thì Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm lớn của dân tộc. Đây là một tiểu thuyết bằng thơ thuộc loại hình truyện Nôm thế kỉ XVIII, XIX. Khi vừa xuất hiện Truyện Kiều đã làm cho thi đàn xôn xao hẳn lên, người ta bình luận, khen chê, các nhà nghiên cứu đã tốn biết bao giấy mực cho Truyện Kiều. Còn đối với nhân dân, Truyện Kiều là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống thường ngày. Họ ngâm Kiều, bình Kiều, xem Truyện Kiều như một đề tài bất tận, họ nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ bằng những câu Kiều như dòng sữa ngọt ngào của mẹ. Qua đó, ta thấy Truyện Kiều đã chiếm một vị trí trọng yếu trong lịch sử văn học Việt Nam. Đúng như Đặng Thai Mai – Chủ tịch Hội liên hiệp văn học Việt Nam đã khẳng định: “Không ai có thể phủ nhận rằng trong toàn bộ văn học ngày xưa, Truyện Kiều là một thành công vĩ đại nhất, là áng văn chương tiêu biểu hơn hết” [15; tr.1141]. Từ những lý do trên, người viết đã chọn Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều làm đề tài nghiên cứu. Đề tài này không những giúp cho người viết tiếp thu được những kiến thức về văn học, tìm hiểu sâu -3- hơn nghệ thuật miêu tả tính cách đặc sắc của thiên tài Nguyễn Du, mà còn giúp người viết vận dụng được những kiến thức lí luận văn học chung về nghệ thuật miêu tả nhân vật, tính cách nhân vật vào một tác phẩm văn học cụ thể. Bằng sự hiểu biết ít ỏi của mình, người viết chỉ mong sẽ góp một phần nhỏ trong việc khám phá thêm một khía cạnh đặc sắc về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du nói riêng và của thơ ca nói chung. 2. Lịch sử vấn đề Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong tác phẩm là một trong những bình diện thể hiện rõ tài năng của nhà văn. Khi xây dựng tính cách nhân vật trong tác phẩm, không chỉ đòi hỏi nhà văn phải có sự am hiểu tường tận về nhân vật mà còn phải tìm được cách thể hiện riêng cho tính cách của từng nhân vật mà mình sẽ viết. Nếu chỉ có vốn hiểu biết mà cách thể hiện không độc đáo thì tính cách nhân vật cũng hóa ra tầm thường, không tạo được sức hút đối với người đọc. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu về nhân vật và tính cách nhân vật của các nhà lí luận, cũng như những công trình nghiên cứu có liên quan đến nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong Truyện Kiều của các nhà phê bình văn học. Người viết đã chọn lựa và lấy làm cơ sở để thực hiện đề tài Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều một cách có hệ thống hơn. Bàn về nhân vật và tính cách nhân vật, trong quyển Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên, tác giả Đoàn Đức Phương trong chương III, phần Nhân vật và tính cách đã nêu lên rất đầy đủ và chi tiết. Ông đã đưa ra khái niệm về nhân vật văn học rất cụ thể: “Nhân vật trong văn học là một hiện tượng mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách” [5; tr.126]. Theo đó, ông cho rằng nhân vật không chỉ là những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể là những sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của con người, được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con người. Đồng thời, ông còn nhận định về vai trò, tầm quan trọng của nhân vật trong tác phẩm văn học. Theo ông, “Văn học không thể thiếu nhân vật, vì đó chính là phương diện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng” [5; tr.126]. Cũng trong chương này, tác giả Đoàn Đức Phương đã đi vào việc phân chia loại hình nhân vật. Ông đưa ra hai tiêu chí để phân loại. Xét về vai trò nhân vật trong tác phẩm, ông chia nhân vật thành ba tuyến: nhân vật chính, nhân vật phụ và nhân vật trung tâm; còn xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ đối với lí tưởng xã hội thì ông lại chia nhân vật ra thành hai tuyến: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Theo đó, ông đã đưa ra những cơ sở rất thuyết phục để chứng minh cho luận điểm của mình. Bàn về tính cách, ông cũng đã nêu lên một vài khía cạnh: “Tính cách là bản sắc riêng, độc đáo của một con người cá biệt, cụ thể nhưng lại mang những nét chung, tiêu biểu cho nhiều người khác ở mức độ nhất định, đồng thời nó có một quá trình phát triển hợp với lôgic cuộc sống” [5; tr.129]. Không dừng lại ở đó, ông còn đi sâu nghiên cứu đặc điểm của tính cách ở nhiều phương diện khác nhau như: tính chung, tính riêng, tính lôgic… Từ đó rút ra kết luận: “Tính cách có một vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội dung và hình thức của một tác phẩm văn học” [5; tr.129]. Trong quyển Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên, khi đề cập đến nhân vật và tính cách nhân vật, trong chương III - Nhân vật trong tác phẩm văn học, các -4- tác giả cho rằng: “Nhân vật văn học là con người được thể hiện bằng phương tiện văn học” [13; tr.278]. Đồng thời, các tác giả cũng đã nêu lên vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học. Nhân vật có hai vai trò chính: Thứ nhất, nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn học nhằm tái hiện đời sống, đóng vai trò như những “tấm gương của cuộc đời” [13; tr.278]. Thứ hai: nhân vật là phương tiện khái quát hiện thực. Tức là nhà văn sáng tạo văn học là để thể hiện những cá nhân của xã hội và những quan niệm về cá nhân đó. Bên cạnh đó, các tác giả cũng khẳng định, ý nghĩa của nhân vật được thể hiện qua tính cách. Tính cách này, vừa là tính cách xã hội lịch sử, vừa là quan niệm về tính cách và tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện. Đồng thời, các tác giả cũng phân chia các loại hình nhân vật văn học dựa trên nhiều phương diện bao gồm: kết cấu, hệ tư tưởng, cấu trúc. Từ đó, các tác giả cũng nêu lên các phương thức, phương tiện và biện pháp thể hiện tính cách nhân vật. Lại Nguyên Ân, trong quyển 150 thuật ngữ văn học khi nghiên cứu về nhân vật và tính cách nhân vật cũng đã trình bày một vài khía cạnh. Ông cho rằng nhân vật văn học là “Hình tượng nghệ thuật về con người” [1; tr.249], là các con vật, loài cây… được nhân cách hóa. Theo ông, nhân vật văn học in dấu những xu hướng tiến hóa của tư duy nghệ thuật như nhân vật lý tưởng hóa (sử thi), nhân vật mặt nạ, cố định (chủ nghĩa cổ điển), nhân vật là người anh hùng mới (chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa)… . Bên cạnh những kiểu nhân vật đã nêu, Lại Nguyên Ân còn đưa ra các phương tiện để xếp loại nhân vật. Dựa vào vai trò của nhân vật trong tác phẩm ta có “nhân vật chính”, “nhân vật phụ”; dựa vào việc thể hiện lí tưởng ta lại có “nhân vật chính diện” (tích cực), “nhân vật phản diện” (tiêu cực); xuất phát từ thể loại, ta phân ra: “nhân vật tự sự”, “nhân vật trữ tình”, “nhân vật kịch”… Tiêu chí phân loại của Lại Nguyên Ân gần như thống nhất với các tác giả của quyển Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên được đề cập ở trên. Riêng về tính cách, Lại Nguyên Ân đã nêu lên khái niệm khá cụ thể: “Tính cách là hình ảnh con người, được phác họa đến mức đủ rõ và đủ tính xác định, thông qua đó, làm bộc lộ kiểu ứng xử (hành vi, suy nghĩ, lời nói) có căn cứ lịch sử, đồng thời cũng làm bộc lộ quan niệm của tác giả về tồn tại con người” [1; tr.332]. Ông còn cho rằng, sự hình dung về tính cách còn được thể hiện qua những biểu hiện bề ngoài lẫn bên trong cá nhân nhân vật. Nói chung, lí luận về nhân vật, tính cách nhân vật mỗi tác giả khi lí giải đều nêu lên những ý kiến rất riêng, độc đáo với những dẫn chứng cụ thể, sinh động và cũng đầy thuyết phục. Trên đây là những công trình tiêu biểu về nhân vật và tính cách nhân vật văn học của các nhà lí luận. Về vấn đề nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người viết nhận thấy đây cũng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, nhận xét và đánh giá. Họ đã tìm thấy ở Truyện Kiều những giá trị nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm nên cái hay, nét độc đáo cho nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Theo Hoài Thanh trong Tạp chí văn học bình luận số 6 tháng 12/1965 khi bàn về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du ông đã nói: “Cách dùng chữ của Nguyễn Du bao giờ cũng đúng lúc, đúng chỗ, đúng tình, đúng cảnh”, ông còn nói thêm: “Về mặt miêu tả, Nguyễn Du có sẵn vốn từ ngữ không một nhà văn nào khác có thể sánh kịp trong lịch sử văn học Việt Nam” [4; tr.1140]. Hay trong bài luận Nguyễn Du và quyền sống con người bên cạnh việc nêu lên vấn đề về quyền sống của con -5- người trong Truyện Kiều, ông còn đưa ra những nhận xét về phương diện nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật: “Cái chính của nghệ thuật Nguyễn Du là ở chỗ đã nhào nặn lại, sáng tạo ra cả một thế giới nhân vật có thật” [4; tr.1263]. Như vậy, ông không chỉ cho rằng Nguyễn Du là một bậc thầy về nghệ thuật miêu tả nhân vật, trong đó bao gồm cả nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật bởi một nhân vật chỉ có thật khi nó mang trong mình những nét tính cách riêng biệt, độc đáo. Đồng thời, ông còn khẳng định tầm vóc của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc. Đến Dương Quảng Hàm trong quyển Việt Nam văn học sử yếu, khi bàn đến văn chương Truyện Kiều cũng có nhận xét: “Tả cảnh thì theo lối phác họa, mà cảnh nào cũng linh hoạt khiến cho người đọc cảm thấy cái thú vị của mỗi cảnh. Tả người thì vai nào rõ ra tính cách của vai nấy, chỉ một vài nét mà như vẽ thành bức truyền thần của mỗi vai, khám phá được tâm lí của vai ấy, khiến cho nhiều vai như Sở Khanh, Tú Bà đã thành những nhân vật làm mô dạng cho đời sau” [7; tr.68] Nhìn chung, cũng như Hoài Thanh, ông đã khẳng định với nghệ thuật miêu tả, đặc biệt là miêu tả tính cách thì Nguyễn Du xứng đáng là một thiên tài. Dù chưa đi vào phân tích cụ thể nhưng những nhận định mới và có hướng gợi mở này đã tạo nền tảng, tiền đề cho người viết, giúp người viết có cái nhìn hoàn chỉnh hơn về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Bàn về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong Truyện Kiều, tác giả Đỗ Minh Tuấn trong chuyên luận Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã đưa ra vài nhận định: “Nguyễn Du đã khai thác các yếu tố màu sắc, âm thanh và tình cảm trong ngôn ngữ để thể hiện chính xác và tinh vi những sắc thái tình cảm khác nhau nhất, tế nhị, mơ hồ và xao động nhất” [19; tr.161]. Như vậy, ta thấy ông không chỉ nghiên cứu, tìm hiểu bút pháp trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều mà còn quan tâm đến nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật. Ông khẳng định: “Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ trữ tình có chọn lọc trên cơ sở phù hợp với tính cách của nhân vật, với trạng thái tâm hồn nhân vật” [19; tr.189]. Nhìn chung, ông đã đưa ra được những đặc điểm cơ bản trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để miêu tả tính cách nhân vật, đồng thời cũng đưa ra những cơ sở lập luận rất thuyết phục bằng cách đi vào phân tích một số câu thơ có sự xuất hiện của ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều. Thế nhưng, ông chưa đi sâu vào phân tích và làm rõ vấn đề mà chỉ dừng lại ở một khía cạnh nhỏ là miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ mà chủ yếu là từ láy. Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong quyển Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp đã đưa ra nhận xét về tính cách nhân vật trong Truyện Kiều như sau: “Nhân vật gặp tình huống có kịch tính cao. Tình huống ấy được phản ánh vào nội tâm thành bi kịch. Những âm mưu tính toán của nhân vật chính là bộc lộ tính cách bên trong của nhân vật” [8; tr.232]. Ta thấy, tác giả đã đề cập đến một vấn đề đó là nghệ thuật miêu tả nội tâm của nhân vật để làm bộc lộ tính cách của từng nhân vật. Đây là một nét mới, độc đáo trong việc phát hiện thêm một khía cạnh về miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Tuy nhiên, công trình của ông chỉ dừng lại ở vấn đề phân tích nội tâm nhân vật để làm nổi bật tính cách nhân vật chứ chưa khai thác sâu ở những khía cạnh khác như nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động… để làm nổi bật nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. -6- Đến với quyển Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, giáo sư Phan Ngọc cũng đã góp một vài ý kiến về phương diện nghệ thuật. Ở công trình này, bên cạnh việc tập trung khảo sát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, ông còn nghiên cứu thủ pháp phân tích tâm lí nhân vật, ngôn ngữ nhân vật nhằm làm nổi bật tính cách của từng nhân vật. Trong chương IV – Tiểu thuyết phân tích tâm lí, ông đã chứng minh được bút pháp miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du khi đi vào phân tích tâm lí của hầu hết các nhân vật, ông cho rằng: “Đây là lối phân tích thật sự khoa học” [16; tr.172] nhằm mục đích bộc lộ tính cách của từng nhân vật. Về ngôn ngữ nhân vật, ông khẳng định: “Đây là ngôn ngữ “đục mờ”, vì đằng sau sự giao tiếp thực tiễn, có một thông báo riêng nhằm mục đích nêu bật tính cách của từng nhân vật” [16; tr.159]. Trong quá trình phân tích ta thấy, ông đã tiến hành so sánh, đối chiếu với tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và đã chứng minh được rằng: “Ngôn ngữ nhân vật có cú pháp riêng, từ vựng riêng, không lặp lại ở một người nào khác” [16; tr.160]. Có thể nói, công trình này đã đóng góp thêm cho nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nhiều nét đặc sắc, mới lạ. Tuy nhiên, ông cũng chưa đi sâu vào nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật mà chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh tiêu biểu. Bàn về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Giáo sư Lê Trí viễn trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam – tập 3 cũng có vài nhận định. Tiêu biểu ở phần 4 - Một vài nét về bút pháp của Nguyễn Du, ông đã khẳng định: “Cái tạo nên nét đặc sắc trong nghệ thuật Truyện Kiều là đã sáng tạo nên những con người, những con người thật hơn người thật” [23; tr.167]. Để làm sáng tỏ cho những nhận định của mình, ông đã đi vào phân tích các nhân vật trong Truyện Kiều từ Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng đến Mã Giám Sinh, Tú bà, Hoạn Thư… Đặc biệt, ông còn chú ý đến bút pháp phân tích nội tâm nhân vật, mà chủ yếu là nhân vật Thúy Kiều nhằm bộc lộ tính cách của nhân vật trong từng hoàn cảnh cụ thể. Từ những cơ sở trên, ông khẳng định: “Có vài nhân vật Nguyễn Du chỉ vẽ bằng một vài nét mà người nào ra người ấy, bề ngoài và bên trong khít khao làm cho tính cách nổi bật” [23; tr.167]. Những nghiên cứu của giáo sư Lê Trí Viễn ở phương diện nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều tuy chỉ mang tính khái quát, chưa thật sự đi sâu vào từng khía cạnh, nhưng những gợi ý của ông cũng đã mở ra hướng nghiên cứu cho người viết, giúp người viết có cái nhìn toàn diện hơn về đề tài của mình. Trên đây là những nhận định về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Tuy nhiên, những nhận định trên vẫn còn chưa sâu, chưa làm nổi bật được vấn đề. Bàn về Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều ta có thể kể đến hai công trình tiêu biểu sau: Trước tiên là công trình của giáo sư Lê Đình Kỵ. Trong quyển Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, ông đã đánh giá Nguyễn Du trên cả hai phương diện: cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ. Về phương diện nghệ thuật, ông đã chứng minh cái tài của Nguyễn Du thể hiện ở tất cả các khía cạnh từ bút pháp miêu tả không gian nghệ thuật điêu luyện đến bút pháp phân tích tính cách nhân vật biến hóa, đa dạng. Đặc biệt, ông đã đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật miêu tả nội tâm để làm bộc lộ tính cách của các nhân vật trong Truyện Kiều. Trong chương I, phần 3 Nhân vật và tính cách ông đã dụng công rất lớn để phân tích, chứng minh bút pháp miêu tả đời sống nội tâm phong phú và phức tạp của các nhân vật qua đó làm nổi bật tính cách của -7- từng nhân vật. Ông khẳng định: “Nhân vật Truyện Kiều nói chung hiện ra trong sự tác động lẫn nhau và chịu sự tác động của hoàn cảnh cụ thể” [10; tr.285] và Nguyễn Du đã khai thác nhân vật theo hướng “Soi sáng hoạt động tâm lý để bộc lộ tính cách nhân vật” [10; tr.231]. Từ đó, ông đi đến kết luận: “Nguyễn Du đã làm cho tính cách nhân vật của mình rõ nét lên rất nhiều” [10; tr.233]. Bên cạnh đó, ông còn khái quát lại nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong tác phẩm từ những nhân vật chính diện đến hệ thống nhân vật phản diện. Ông cho rằng, mỗi nhân vật đều có ngoại hình riêng, tâm lí riêng… không ai giống ai: “Nhân vật sống được là khi có giá trị xã hội và tâm lí toát ra từ diện mạo riêng biệt không lẫn lộn được” [10; tr.235]. Trên cơ sở đó, ông đã tiến hành so sánh, đối chiếu Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để người đọc thấy được sự sáng tạo của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật: “Tính cách các nhân vật Truyện Kiều được xác định và có tính thống nhất chặt chẽ. Nguyễn Du đã lược bỏ chi tiết này, nhấn mạnh một mặt kia, sáng tạo thêm những nét khác cốt soi sáng nhân vật từ bên trong” [10; tr.231]. Qua đó, ông đã nêu lên nhận định: “Nguyễn Du đã biết thông qua các chi tiết ngoại hình để soi rọi vào tâm lý bên trong của nhân vật. Đối với Nguyễn Du một nét mặt, một màu da, một dáng điệu, một cử chỉ, một tư thế, không chỉ là cái bên ngoài mà thông qua đó có thể làm hiển hiện ra thần thái của nhân vật” [10; tr.245]. Nhìn chung, giáo sư Lê Đình Kỵ đã đưa ra được những cơ sở rất thuyết phục nhằm khẳng định sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du khi miêu tả tính cách nhân vật trong Truyện Kiều. Tiếp đến là công trình nghiên cứu của giáo sư Đặng Thanh Lê với quyển Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm. Trong quyển này bà đề cập nhiều đến nhân vật cũng như đã quan tâm đến nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong Truyện Kiều. Trong chương III, phần Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều, bà đã đi sâu nghiên cứu về phương diện miêu tả tính cách nhân vật ở những khía cạnh như: môi trường hoạt động của nhân vật, ngoại hình, ngôn ngữ, hành động… Bà cho rằng: “Nguyễn Du đã để cho các nhân vật xuất hiện với nhiều loại tính cách tiêu biểu cho nhiều loại người trong xã hội. Không phải nhân vật nào trong Truyện Kiều cũng đều được Nguyễn Du theo dõi toàn bộ cuộc đời nhưng nhân vật nào cũng được Nguyễn Du khắc họa thành một con người tiêu biểu” [11; tr.263]. Và bà đã khẳng định: “Hầu hết các nhân vật Truyện Kiều đều là những nhân vật hoàn chỉnh trong những nét tính cách cơ bản dù vận mệnh không hoàn chỉnh” [11; tr.263]. Đi sâu hơn vào nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật, ở công trình này bà cho rằng các nhân vật trong Truyện Kiều không chỉ được miêu tả làm bộc lộ tính cách mà còn có sự phát triển tính cách trong từng nhân vật. Đây cũng là một khía cạnh mới trong nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Ta thấy, bà đã đặt nhân vật vào từng hoàn cảnh cụ thể của tác phẩm rồi tiến hành phân tích, đánh giá. Cuối cùng, bà đưa ra kết luận: “Sự hình thành và phát triển của các tính cách nhân vật Truyện Kiều rất nhất quán, phong phú, hợp lí” [11; tr.263]. Từ những cơ sở trên, bà đã đi sâu vào phân tích và chứng minh cho những luận điểm của mình bằng cách so sánh Truyện Kiều với các truyện thơ Nôm khác. Từ đó, bà khẳng định với nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã trở thành một thiên tài: “Với Nguyễn Du, miêu tả nội tâm nhân vật, trình bày trạng thái tâm hồn của con người trở thành một yếu tố đặc biệt quan -8- trọng để xây dựng tính cách nhân vật và đồng thời là một thành tựu rực rỡ của nghệ thuật Truyện Kiều” [11; tr.250]. Có thể nói, hai công trình nghiên cứu của giáo sư Lê Đình Kỵ và giáo sư Đặng Thanh Lê đã đưa ra những cơ sở có hệ thống hơn về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong Truyện Kiều. Dù chưa nghiên cứu, xây dựng thành một hệ thống nhưng so với các tác giả khác đây là hai công trình có phần đào sâu hơn, chăm chút hơn về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Trên đây là những ý kiến, nhận xét có liên quan đến đề tài mà nguời viết đang nghiên cứu. Nhìn chung, các tác giả đã chứng minh được ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du trong việc miêu tả tính cách các nhân vật trong Truyện Kiều ở từng khía cạnh như: cách dùng từ, sử dụng ngôn ngữ hay cách Nguyễn Du miêu tả nội tâm, ngoại hình, hành động của nhân vật nhằm bộc lộ tính cách nhân vật. Thế nhưng, vấn đề Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều thì vẫn chưa có một công trình nào mang tính hệ thống, chuyên biệt. Dù vậy, những ý kiến, nhận định trên vẫn là những tiền đề giúp người viết bắt đầu khái quát được vấn đề của mình để tổng hợp và khái quát lại nhằm thực hiện đề tài Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều thuận lợi và có cơ sở vững chắc hơn. 3. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, trước hết, người viết muốn tìm hiểu những biện pháp nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Từ đó sẽ thấy được tài năng nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du một cách tập trung hơn, có hệ thống hơn. Bên cạnh đó, người viết cũng mong muốn mình sẽ hiểu rõ hơn những cơ sở lí luận về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật, có điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm văn học chữ Nôm một cách sâu sắc hơn. Việc tìm hiểu này sẽ giúp cho người viết hiểu thêm về giá trị của nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong tác phẩm của văn học. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để người viết có thể vận dụng những kiến thức về lí luận vào việc phân tích tác phẩm cụ thể nhằm thể hiện khả năng phân tích và năng lực cảm thụ tác phẩm văn chương của mình. Đây cũng là điều kiện để người viết có thể tích lũy thêm vốn kiến thức nhằm phục vụ cho quá trình giảng dạy sau này. 4. Phạm vi nghiên cứu Đối tượng mà người viết nghiên cứu ở đây là Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nhằm tìm hiểu một cách có hệ thống hơn những phương thức nghệ thuật mà Nguyễn Du đã sử dụng để miêu tả tính cách nhân vật như: miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, nội tâm nhằm làm bộc lộ tính cách nhân vật. Do trong Truyện Kiều có khá nhiều nhân vật (khoảng 30 nhân vật) nên người viết sẽ chỉ tìm hiểu ở hai tuyến nhân vật, nhân vật chính diện: Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân, Từ Hải và nhân vật phản diện: Mã Giám sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư. Để thực hiện đề tài này, người viết chọn Truyện Kiều – Đối chiếu chữ Nôm quốc ngữ của nhà xuất bản Viện bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh năm 1992 làm tư liệu tham khảo chính. Đồng thời người viết còn nghiên cứu thêm những cơ sở lí luận về nhân vật và tính cách nhân vật cũng như các biện pháp, cách thức thể hiện nhân vật văn học của các nhà lí luận, những ý kiến của các tác giả xung quanh -9- Truyện Kiều và những tác phẩm truyện thơ Nôm khác có liên quan để so sánh nhằm làm nổi bật vấn đề cần thực hiện. 5. Phương pháp nghiên cứu Để đáp ứng những mục tiêu mà đề tài đặt ra trước hết người viết tìm đọc những tư liệu lí luận về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật. Bên cạnh đó, người viết cũng sẽ tìm đọc những tài liệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều của các nhà nghiên cứu. Trong đó, người viết đặc biệt chú ý đến những công trình có đề cập đến nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều để nắm vững kiến thức nhằm tạo cơ sở vững chắc giúp người viết đi sâu vào tìm hiểu Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Trên cơ sở những tài liệu đó, người viết sẽ sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh để thấy được giá trị đặc sắc cũng như tài năng của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật. Trong quá trình thực hiện đề tài người viết có kết hợp thao tác giải thích, chứng minh và phân tích. Đây cũng là phương pháp chính trong quá trình thực hiện nhằm làm nổi bật vấn đề. Bên cạnh đó, người viết cũng có liên hệ với một số ý kiến cụ thể của các tác giả và trích dẫn một số dẫn chứng cụ thể từ tác phẩm và các sách tham khảo để bài viết có cơ sở vững chắc hơn. Luận văn đi từ khái quát đến cụ thể sau đó sẽ khái quát tổng hợp lại vấn đề đã trình bày trên cơ sở cái nhìn chung về Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. -10- PHẦN NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MIÊU TẢ VÀ NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÍNH CÁCH NHÂN VẬT 1. Nghệ thuật miêu tả trong văn học 1.1 Khái niệm văn miêu tả Theo ông Bùi Tất Tươm trong Giáo trình cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt: “Miêu tả là thao tác dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác hình dung được sự vật, sự việc” [22; tr.385]. Theo đó, ông đưa ra khái niệm văn miêu tả là “văn bản dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc hình dung được sự vật, sự việc hoặc tính chất của một nhân vật nào đó” [22; tr.385]. Ông Đỗ Ngọc Thống trong quyển Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông thì cho rằng: “Văn miêu tả là một trong những văn bản rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong sáng tạo văn chương. Đây là loại văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét đánh giá của con người” [18; tr.3]. Và ông nhận định mục đích của văn miêu tả là làm cho đối tượng miêu tả được hiện lên trước mắt người đọc càng cụ thể càng tốt. Đến với các tác giả trong quyển Sách giáo khoa Làm văn lớp 10 thì: “Văn miêu tả là dùng lời nói hay lời văn làm sống lại một sự vật, một cảnh tượng, một con người, làm sao cho người nghe, người đọc có thể tưởng tượng điều đó như đang ở trước mắt” [3; tr.5]. Bên cạnh đó, các tác giả cũng cho rằng văn miêu tả hay thường có nhân tố tự sự, nó sẽ làm sống dậy con người và cuộc sống (con người từ ngoại hình đến nội tâm, cuộc sống từ thiên nhiên đến xã hội). Từ đó, các tác giả khẳng định văn miêu tả rất phong phú: “kể chuyện cũng là tả, tả cảnh, tả tình, tả tâm lí, tả hành động của con người” [3; tr.5]. Bàn về văn miêu tả, tác giả Nguyễn Công Lý trong quyển Tập làm văn – Giáo trình dành cho sinh viên khoa ngữ văn cao đẳng và đại học đại cương cũng đã nêu lên rất đầy đủ và chi tiết. Theo ông, “Văn miêu tả thường được hiểu là thể văn dùng ngôn ngữ (lời nói, lời văn) để làm sống lại, tái hiện lại một sự vật, một cảnh tượng, một con người… một cách sinh động, cụ thể, chân thực như nó vốn có, làm cho người đọc, người nghe có thể tưởng tượng đối tượng được tả như đang ở trước mắt mình” [14; tr.47]. Từ khái niệm đó ông cho rằng quá trình miêu tả là quá trình tái tạo hiện thực khách quan. Và bất kì một hiện tượng nào trong hiện thực khách quan cũng có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả. Nhìn chung, qua những khái niệm về văn miêu tả trên, người viết nhận thấy các tác giả đều có một điểm chung là: Văn miêu tả là một văn bản dùng ngôn ngữ để làm sống lại một cách sinh động, cụ thể, chân thật một sự vật, một cảnh tượng, một con người làm sao cho người đọc, người nghe có thể tưởng tượng đối tượng được tả như đang ở trước mắt. 1.2 Đặc điểm văn miêu tả Theo ông Đỗ Ngọc Thống trong quyển Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông khi tìm hiểu về đặc điểm văn miêu tả ta thấy có những đặc điểm cơ bản sau. Trước tiên là về khả năng của người viết văn miêu tả bởi: “Muốn có một văn bản miêu tả đầy sinh khí, người viết phải có sự quan sát tinh tế cùng óc tưởng tượng, -11- liên tưởng phong phú” [18; tr.49]. Vì vậy, quan sát là yếu tố số một không thể thiếu trong quá trình miêu tả. Nhưng quan sát kĩ cũng chưa là điều kiện quyết định để có một văn bản miêu tả hấp dẫn mà người viết cần phải có một sự quan sát tính tế, óc tưởng tượng – liên tưởng phong phú và sâu sắc, sự sáng tạo dồi dào. Có như vậy thì mới có thể viết được một văn bản đầy sức sống, mang tính chân thực, sinh động và tràn ngập hơi thở của hiện thực cuộc sống. Một đặc điểm khác của văn miêu tả là: “Văn miêu tả không chỉ để tả, để nhằm thông báo một cách khách quan, đầy lí trí mà là tả cảnh ngụ tình, để gởi gắm tâm tư, tình cảm của mình đối với đối tượng được tả” [18; tr.49]. Vậy, văn miêu tả phải là loại văn chứa đầy tình cảm của người viết, có thể bộc lộ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua ngôn ngữ miêu tả. Thứ đến, văn miêu tả thường sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm. Để tái hiện đối tượng được miêu tả sinh động, y như nó vốn có ngoài cuộc sống, các nhà văn thường dùng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm, giàu hình ảnh. Ngoài ra, trong văn bản miêu tả, ngườc đọc sẽ dễ nhận thấy ở trong đó sự phong phú và đa dạng của tính từ. Vì tả không chỉ để tả, nhằm thông báo mà để ngụ tình nên khi viết người viết thường sử dụng hàng loạt tính từ chỉ màu sắc, dáng vẻ, tính chất, giàu hình tượng để đánh giá, bình phẩm thì văn miêu tả mới có sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Cũng nhờ vậy mà văn miêu tả mới có thể vừa bộc lộ tình cảm của tác giả lại vừa bộc lộ được tính chất của đối tượng được tả. Không chỉ thế, trong văn miêu tả, mà đặc biệt ở các kiểu bài tả đồ vật, tả loài vật, tả phong cảnh, các tác giả thường sử dụng biện pháp tu từ. Trước hết là so sánh, nhờ biện pháp này mà đối tượng được miêu tả trở nên sống động hơn, cụ thể hơn. Một biện pháp cũng rất phổ biến nữa là biện pháp tu từ nhân hóa. Với biện pháp này, đối tượng được miêu tả sẽ có hồn hơn, có sự sống và gần gũi với con người hơn. Một đặc điểm quan trọng trong văn miêu tả nữa là, trong văn miêu tả người viết không chỉ đơn thuần dùng văn để miêu tả mà còn phải biết kết hợp với ngôn gữ của văn kể chuyện trong miêu tả. Bởi lẽ, vừa tường thuật, vừa tả, vừa kể thì mới tạo cho bài văn có sinh khí và hấp dẫn hơn. 1.3 Nghệ thuật miêu tả trong văn học “Nghệ thuật – đó là kiểu tư duy bằng hình tượng” [18; tr.12] và sáng tạo nghệ thuật là một quá trình bao gồm cả nhận thức và thể hiện. Hoạt động sáng tác của nhà văn là một hoạt động “chiếm lĩnh” thực tại. Nghĩa là, nhà văn sẽ hướng đến những đối tượng, những phương diện nào đó của đời sống mà mình thực sự hiểu biết, quan tâm và xúc động, để cho cả trí tuệ và tâm hồn “nung chảy” đối tượng, lắng nghe cho đến lúc tìm được tiếng nói của riêng mình. Khi nhà văn tìm thấy cái thái độ chủ quan của mình đối với cuộc sống, đối với những người khác, đối với sự vật đang nói đến và thể hiện cái thái độ đó bằng những từ ngữ riêng giúp người đọc hiểu và cảm nhận được vấn đề mà mình đang muốn nói đến, lúc đó nhà văn đã tạo nên nghệ thuật, nghệ thuật miêu tả trong văn học. “Nếu như hội họa sử dụng đường nét, màu sắc…; âm nhạc sử dụng âm thanh; điêu khắc sử dụng hình khối… thì văn chương sử dụng ngôn ngữ để miêu tả” [18; tr.11]. Vì sử dụng ngôn ngữ nên “bức tranh” mà văn miêu tả “vẽ” nên không thể được người đọc nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, sờ mó thấy… một cách trực tiếp như với các bức tranh, các bản nhạc hay các pho tượng. Người đọc chỉ có thể cảm nhận được tất cả những điều đó một cách gián tiếp thông qua trí tưởng tượng của mình. Và chính điều đó đã làm cho miêu tả trong văn chương trở thành -12- một nghệ thuật. Nó không đặt ra nhiệm vụ miêu tả sao cho thật chính xác, khách quan càng tỉ mỉ càng tốt mà nó chỉ yêu cầu người viết văn miêu tả phải lựa chọn được các chi tiết đặc sắc sao cho với một số ít chi tiết, đối tượng miêu tả phải được “hiện lên” một cách sinh động và có hồn. 2. Nhân vật văn học 2.1 Khái niệm về nhân vật văn học 2.1.1 Nhân vật văn học là con người được miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn học Văn hào Đức W. Goethe có nói: “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con người cũng chỉ hứng thú đối với con người” [21; tr.73]. Và trong văn học, con người cũng là nội dung quan trọng nhất của văn học. Theo Trần Đình Sử: “Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [21; tr.73]. Khi đọc bất cứ văn bản nào, trước hết người đọc đều bắt gặp những con người được miêu tả, trần thuật cụ thể. Đó chính là những nhân vật văn học. Có thể đó là những nhân vật có tên như: Thúy Kiều, Kim Trọng, Chí Phèo, Chị Dậu, A Phủ, Mị, Tràng… Có thể đó là những nhân vật không có danh tính nhưng vẫn được biết đến nhờ cái “tên” mà nhà văn đặt ra một cách ước lệ: người đưa tin trong những vở bi kịch Hi Lạp cổ, thằng bán tơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, chị vợ nhặt trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân... Nhân vật còn là những con vật trong truyện cổ tích, thần thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những đồ vật. Chúng được gọi là nhân vật khi chúng mang tính cách của con người. Bên cạnh đó, nhân vật có thể được thể hiện bằng những hình thức khác nhau. Đó có thể là những con người được miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, có tiểu sử như thường thấy trong tác phẩm tự sự, kịch. Đó có thể là những người thiếu hẳn những nét đó, nhưng lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn như nhân vật người trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩ, cảm nhận như những nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình. Khái niệm nhân vật đôi khi được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ thấy như một hình tượng nổi bật trong tác phẩm. Chẳng hạn, nói nhân dân là nhân vật chính của Chiến tranh và hòa bình của Lep - Tônxtôi, chiếc quan tài là nhân vật chính của truyện Chiếc quan tài của Nguyễn Công Hoan,nhưng chủ yếu vẫn là chỉ hình tượng con người trong tác phẩm. Đồng thời, ta có thể hiểu nhân vật văn học là một hình tượng nghệ thuật ước lệ, có những dấu hiệu để ta nhận ra. Thông thường, nhân vật được thông qua bằng những cái tên xác định như: Chị Sứ, Nguyệt, Lãm, Độ, Hoàng, Núp… Đó là các dấu hiệu tiểu sử, nghề nghiệp hoặc đặc điểm riêng như: chàng mồ côi, anh lính, thằng ngốc, hai anh em sinh đôi… Sâu hơn là các đặc điểm tính cách như: ông tư sản học làm sang, tên đạo đức giả, tên sở khanh, kẻ keo kiệt… Các dấu hiệu, đặc điểm ấy thường được đúc kết thành các “công thức” giới thiệu nhân vật. Các công thức ấy được chứng thực trong các quan hệ, được bộc lộ, phát triển hoặc điều chỉnh trong các xung đột, và cuối cùng ta có một hình tượng hoàn chỉnh về nhân vật văn học. Nhân vật văn học khác với nhân vật trong hội họa, điêu khắc, nó được bộc lộ trong hành động (hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các ngôn ngữ) và quá trình. Nó luôn hứa hẹn những điều sẽ xảy ra, những điều chưa biết trong quá trình giao tiếp. Đồng thời, nhân vật văn học còn mang tính chất hồi cố, bởi vì mỗi bước phát triển đều làm nhớ lại công thức nhận biết ban đầu, đều làm cho nó thêm sâu, hoặc điều chỉnh cho nó xác đáng, nhưng không bao giờ bỏ quên hay rời xa cái chuẩn ban đầu. -13- 2.1.2 Nhân vật văn học là phương tiện khái quát hiện thực Nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới văn học có được chiều sâu và tính hình tượng. Một tác phẩm cá biệt có thể vắng nhân vật, nhưng văn học nói chúng thì không thể thiếu nhân vật. Khi nhân vật xuất hiện, cái gọi là “hiện thực cuộc sống” không còn tồn tại như một khái niệm khô khan, trừu tượng nữa mà trở nên có hình khối rõ ràng, có đủ “ba chiều” để mời gọi người đọc tưởng tượng, khám phá và suy ngẫm. Hơn thế, nhân vật nhiều khi trở thành “đối tác” sống động của độc giả, có thể khơi lên những chủ đề đối thoại thực sự có ý nghĩa về cuộc đời và con người. Đầu tiên, nhân vật có chức năng miêu tả và khái quát các loại tính cách xã hội. Với chức năng này, nhân vật đã chứng tỏ được ưu thế của văn học trong việc phản ánh bản chất của đời sống xã hội qua hình tượng mang tính chất kết tinh là tính cách. Trong đời sống, ta được tiếp xúc với rất nhiều loại tính cách khác nhau. Đây chính là một hiện tượng thú vị của cuộc sống khách quan, đòi hỏi được văn học nghiên cứu và thể hiện. Tìm hiểu các nhân vật được xây dựng một cách thành công, trước hết, ta vừa có cảm tưởng như được gặp lại những con người của đời sống thực, rất rõ nét, sau nữa, ta nhận thấy nhiều mối tương quan cơ bản và có tính lịch sử của thực tại được tái hiện sinh động trong đó. Đó là do bản chất riêng, nổi bật và bền vững của một con người, là sản phẩm của sự kết hợp theo quy luật nhất định vô số yếu tố vừa chủ quan, vừa khách quan. Ngoài việc thể hiện tính cách, nhân vật văn học còn có chức năng tương tự chức năng của một chiếc chìa khóa giúp nhà văn mở cánh cửa bước vào hiện thực rộng lớn, tiếp cận những đề tài, chủ đề mới mẻ. Theo một góc nhìn nào đó, có thể nói, đề tài miền núi trong văn học Việt Nam sau nam 1945 đã “đẻ ra” một loại nhân vật mới mà trước đây chưa từng gặp như: Mỵ, A Phủ, Ính, Sạ… trong Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Nhưng có thể nói ngược lại, chính những nhân vật trên đã tạo nên tiền đề quan trọng giúp nhà văn đi vào khám phá đề tài cuộc sống của các dân tộc vùng cao – một đề tài lớn còn ít được quan tâm, do vậy mà hứa hẹn nhiều đóng góp có ý nghĩa. Không chỉ thế, nhân vật còn là một hình tượng thẩm mĩ, vì vậy, nhân vật còn có chức năng nữa là góp phần biểu hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về thế giới, con người. Dĩ nhiên, quan niệm nghệ thuật về thế giới, con người của nhà văn không chỉ được biểu hiện qua nhân vật mà qua tổng hợp toàn bộ các yếu tố hợp thành một tác phẩm hay một sự nghiệp sáng tác. Phải thừa nhận rằng, với các nhân vật cụ thể, thái độ đánh giá về các tính cách, về các vấn đề xã hội của nhà văn có được điều kiện để bộc lộ tốt hơn. Cần khẳng định thêm là dù nhân vật được xây dựng theo “mô hình xác thực” hay theo “mô hình hư cấu”, phần chủ quan của người viết luôn chiếm tỉ trọng lớn, và nó phải là yếu tố có tính thứ nhất mà ta cần quan tâm tới khi phân tích nhân vật văn học. Như vậy, khi bước vào thế giới của tác phẩm văn học, ta sẽ mắc sai lầm nếu xem xét nhân vật như những con người có thật, rồi đem tiêu chuẩn “giống như thật” ra để xem xét, đoán giá trị của nó. Sau cùng, ta có thể nói tới chức năng của nhân vật văn học trong việc tạo nên mối liên kết giữa các sự kiện trong tác phẩm và cái vẫn thường gọi là cốt truyện. Một phần lớn nhờ nhân vật mà kết cấu nhiều tác phẩm đạt được sự thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ và nhiều tiềm năng biểu đạt của các phương tiện ngôn từ được phát lộ, rồi tự chúng trở thành những phương tiện nghệ thuật độc lập, có thể được nghiên cứu riêng như một đối tượng thẩm mĩ chuyên biệt. -14- 2.2 Loại hình nhân vật văn học Xét trên nhiều phương diện khác nhau thì loại hình nhân vật cũng rất phong phú và đa dạng. Về phương diện thể loại: nhân vật trong truyền thuyết, truyện cổ tích, thần thoại… đều mang những đặc điểm khác nhau. Nhân vật trong truyền thuyết là những nhân vật có thật trong lịch sử: An Dương Vương, Nguyễn Huệ, chàng Lía, Quận He… được tác giả nhân gian hư cấu thêm những chi tiết làm cho nhân vật trở nên phi thường. Nhân vật trong truyện cổ tích có thể là con người hay thế giới loài vật, đồ vật… được nhân hóa mang tính cách như con người. Nhân vật cổ tích thể hiện niềm tin, ước mơ của nhân dân nên thiện và ác là hai giới tuyến được tác giả phân biệt rõ ràng. Ngoài ra, nhân vật trong các sáng tác trữ tình cũng không giống nhân vật trong những sáng tác tự sự hay sáng tác kịch. Nếu nhân vật trong sáng tác tự sự được thể hiện thông qua hoàn cảnh xuất thân, ngoại hình, diễn biến tâm trạng… thì nhân vật kịch được thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ, hành động, còn nhân vật trong tác phẩm trữ tình được hiện lên qua dòng cảm xúc. Sự khác biệt này là do đặc trưng về thể loại mang lại. Bên cạnh sự khác nhau về thể loại, sự khác biệt về phương pháp sáng tác cũng làm cho nhân vật có đặc điểm khác nhau. Nhân vật trong chủ nghĩa cổ điển đa phần là giai cấp quý tộc, thượng lưu. Họ đại diện cho cộng đồng, sống vì lợi ích của cộng đồng hơn là vì lợi ích của cá nhân. Còn nhân vật trong chủ nghĩa lãng mạn lại để cho tiếng nói của cái “Tôi” lên ngôi, chi phối mọi mặt từ suy nghĩ, tình cảm, đến hành động. Riêng về nhân vật trong chủ nghĩa hiện thực thì lại trở về cuộc sống với bề bộn những vui buồn, những lo toan cơm, áo, gạo, tiền; những bất công trong xã hội đương thời… Chính vì vậy, nhân vật trong chủ nghĩa hiện thực là những con người gần gũi với thế giới của cuộc đời thực. Ngoài những phương diện đã nêu, loại hình nhân vật chủ yếu còn được xem xét, phân biệt ở ba khía cạnh: Kết cấu, ý thức hệ và cấu trúc. Xét về phương diện kết cấu: trong một tác phẩm văn học có thể có một hoặc nhiều nhân vật. Riêng trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thường có nhiều nhân vật tùy vào vai trò của nhân vật đối với cốt truyện, tùy vào sự xuất hiện thường xuyên hay chỉ xuất hiện thoáng qua, được tác giả miêu tả cụ thể, chi tiết hay chỉ được nhắc đến người ta phân nhân vật thành: nhân vật trung tâm, nhân vật chính, nhân vật phụ. Xét về mặt cấu trúc thì ta lại có: nhân vật chức năng, nhân vật mặt nạ, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Nhân vật chức năng là “cái tượng trưng cho đời sống tinh thần được hình thức hóa trong sáng tác” [21; tr.77]. Nhân vật này thường xuất hiện phổ biến trong văn học cổ đại và trung đại. Các nhân vật này thường không có đời sống nội tâm, các phẩm chất, các đặc điểm của nhân vật là cố định, không thay đổi từ đầu đến cuối. Hơn nữa, sự tồn tại và hoạt động của các nhân vật này chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định, đóng vai trò nhất định. Xét về mặt ý thức hệ: về hệ tư tưởng, quan hệ đối với lý tưởng, nhân vật được chia làm hai loại: nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực). Có những thể loại nói chung chuyên viết về nhân vật chính diện: tụng ca, sử thi, bi kịch… Lại có những thể loại chuyên thể hiện nhân vật phản diện: thơ châm biếm, truyện cười, hài kịch… “Nhân vật chính diện là nhân vật mang lí tưởng, quan điểm tư tưởng cao đẹp của tác giả, của thời đại” [2; tr.73]. Đó là tấm gương để ca ngợi, khẳng định giá trị của con người. Nhìn chung, nhân vật chính diện thường được tác giả đề cao, -15- khi nhân vật này có ý nghĩa mẫu mực cao độ cho lối sống của một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc thì nó được gọi là nhân vật lí tưởng. Số lượng nhân vật chính diện trong tác phẩm nhiều, ít khác nhau tùy thuộc vào thể loại và mỗi nhân vật chính diện lại có vai trò và tầm quan trọng khác nhau. Bàn về nhân vật phản diện theo Lê Bá Hán trong Từ điển thuật ngữ văn học thì “nhân vật phản diện là nhân vật văn học mang những bản chất xấu xa, trái với đạo lí và lí tưởng của con người, được miêu tả trong tác phẩm với thái độ chế giễu, lên án, phủ định” [6; tr.194]. Như vậy, các tác giả đã dựa vào hành động, tư tưởng, đạo đức của từng nhân vật để phân loại nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Các tác giả trong Lí luận văn học – Tập 2 do Phương Lựu chủ biên cũng có cùng ý kiến trên. Họ khẳng định: “Nhân vật phản diện là những nhân vật mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo lí và lí tưởng, đáng lên án và đáng phủ định” [13; tr.285]. Như vậy, theo các ý kiến trên thì nhân vật phản diện có những đặc trưng tính cách trái với nhân vật chính diện. Như vậy, các tác giả đều cho rằng nhân vật phản diện là nhân vật đối lập, trái ngược hoàn toàn với nhân vật chính diện. Tuy nhiên, các tác giả cũng thống nhất rằng: việc phân loại nhân vật chính diện và nhân vật phản diện chỉ có tính chất tương đối chứ không hoàn toàn tuyệt đối. Sự phân loại này còn phụ thuộc vào mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Đặc biệt là trong văn học cận hiên đại thì sự phân biệt này càng có nhiều phức tạp, nhân vật phản diện không hẳn hoàn toàn có những phẩm chất xấu và ngược lại. Theo Bakhtin, nhân vật tiểu thuyết “cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các đặc điểm chính diện lẫn đặc điểm phản diện, vừa có cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc”. Do đó việc phân loại nhân vật chính diện và nhân vật phản diện có trường hợp chí mang tính ước lệ, tương đối. Khi xếp nhân vật vào phạm trù nào, chủ yếu là xét cái khuynh hướng và phẩm chất cơ bản của nó. Nhìn chung, những sự phân biệt loại hình nhân vật này còn rất tương đối, loại hình này bao hàm yếu tố của loại kia. Các loại hình nhân vật này tuy phân bố không đồng đều, nhưng vẫn có thể song song tồn tại trong một nền văn học, một thời kì văn học thậm chí một tác phẩm văn học. Chủ yếu là chúng ta cần thấy được nét ưu trội trong cấu trúc của từng loại. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với cuộc sống. Cho nên, nhân vật nhiều lúc là bóng dáng của tác giả, phát ngôn của nhân vật chính là phát ngôn của tác giả. Chúng ta tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu tác giả. Bởi tình cảm, cái nhìn, suy nghĩ của nhân vật trong tác phẩm cũng chính là cái nhìn, suy nghĩ của tác giả đối với cuộc đời. 2.3 Đặc điểm của nhân vật văn học Trước hết ta thấy, nhân vật văn học không phải là bản sao của con người ngoài đời. Nó là một hiện tượng, một đơn vị nghệ thuật, được sáng tạo theo những ước lệ của văn học. Ngay cả khi nhà văn xây dựng nhân vật khá sát vào nguyên mẫu, thậm chí giữ lại cả danh tánh của nguyên mẫu thì ta cũng không thể đồng nhất hai hiện tượng đó lại với nhau. Mỗi nhân vật văn học thường có một chùm dấu hiệu khu biệt để người đọc có thể nhận biết dễ dàng. Dấu hiệu đầu tiên là cái tên của nó hay cái “tên” ước định mà tác giả hoặc người kể chuyện tạm đặt. Những dấu hiệu khác là đặc điểm diện mạo, tiểu sử, tính cách, lời nói, hành động và số phận nhân vật. Chính nhờ có chùm dấu hiệu khu biệt này mà ta có thể tính, đếm được số lượng nhân vật có tróng tác phẩm, cũng như có thể tách riêng từng nhân vật ra để phân tích. Một điều đáng chú ý là các dấu hiệu xác định đường nét riêng của nhân vật luôn có mối quan hệ chặt -16- chẽ với nhau, xoay quanh điểm trung tâm là tính cách. Ngoài đời, giữa cái tên của một con người với đặc điểm tính cách con người có thể không có mối liên hệ tất yếu. Nhưng trong tác phẩm văn học, đôi khi nhà văn làm cho chúng trở thành tất yếu. Trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, những cái tên nhân vật như: Lãm, Nguyệt, Tính, Nguyệt lão không hề được gọi ra một cách ngẫu nhiên. Chúng báo hiệu những đặc điểm riêng của tính cách cũng như chức năng cụ thể của từng nhân vật mà tác giả sẽ miêu tả chi tiết hoặc làm nổi bật trong tác phẩm. Bên cạnh việc đặt tên, khi xây dựng nhân vật, nhà văn cũng hết sức chú ý làm sáng tỏ quan hệ logic giữa các phương diện như: hành xử, nói năng, số phận, tính cách. Nếu không đảm bảo logic đó, nhân vật văn học rất dễ rơi vào tình trạng giả tạo, khó được độc giả chấp nhận. Ngoài ra, nhân vật văn học còn có những điểm đặc thù, phân biệt rất rõ với nhân vật được thể hiện trong một số loại hình nghệ thuật khác như: hội họa, điêu khắc. Văn học là nghệ thuật ngôn từ và hình tượng văn học là hình tượng phi vật thể. Bởi vậy muốn “thấy” được nhân vật văn học, người đọc buộc phải phát động hết mọi khả năng liên tưởng, tưởng tượng của mình. Xem một bức tranh có nhân vật, hay một bức tượng người, hoạt động liên tưởng và tưởng tượng của người xem diễn ra khá thuân lợi vì hình ảnh nhân vật có tính chất hữu hình, đập ngay vào mắt. Trong giây lát, ta có thể lĩnh hội tính toàn vẹn của nó. Ở tác phẩm văn học, câu chữ được triển khai đều đặn theo thời gian, vì thế “chân dung” nhân vật cũng chỉ được hiện hình dần trong tâm trí độc giả. Dĩ nhiên, trong lúc đọc, độc giả vừa phải nhớ những chi tiết miêu tả nhân vật mà mình đã “đi qua” nằm rải rác trong tác phẩm, vừa phải biết ráp nối, xâu chuỗi chúng lại với nhau để có được một ý niệm hoàn chỉnh về nhân vật. Chính do đặc điểm này của hoạt động nhận thức về nhân vật văn học, người ta nói rằng nhân vật văn học là loại hình nhân vật quá trình. Điều cần nói thêm là sự hình dung về một nhân vật cụ thể ở từng người là không giống nhau. Từ điểm này, người ta có thể nghĩ rằng “sức tải” ý nghĩa, tư tưởng của một nhân vật văn học về cơ bản phong phú hơn “sức tải” ý nghĩa, tư tưởng của một nnhân vật trong tác phẩm thuộc nghệ thuật tạo hình. 2.4 Tính cách nhân vật văn học Tính cách là một hiện tượng lịch sử xã hội, xuất hiện trong hiện thực khách quan. Theo Lại Nguyên Ân trong quyển 150 thuật ngữ văn học “tính cách là hình ảnh con người được phát họa đến mức đủ rõ và đủ xác định. Thông qua đó làm bộc lộ một kiểu ứng xử” [1; tr.333]. Trong thực tế, có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu tính cách. Trong văn học cũng vậy, mỗi nhân vật có một tính cách khác nhau. Nó là dấu ấn cá nhân của mỗi con người, là đặc điểm để phân biệt người này với người khác, nhân vật này với nhân vật khác. Tính cách là biểu hiện ở phương thức, hành vi ổn định, lặp đi lặp lại nhiều lần. Chẳng hạn như Tào Tháo trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một con người đa nghi, gian hùng, hết lần này đến lần khác sự đa nghi khiến hắn giết lầm những trung thần nhưng hắn vẫn khẳng định “thà giết lầm, còn hơn bỏ sót”. Đồng thời, ta còn thấy, tính cách nhân vật văn học thường mang tính ước lệ. Tính cách đó có thể được miêu tả đơn điệu, phiến diện hay nhiều mặt, phong phú. Nó có thể được lí tưởng hóa hoàn toàn như cô Tấm trong Tấm Cám, Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng… Hoặc khắc họa như những con người vốn có trong đời sống như chị Dậu trong Tắt đèn, Chí Phèo trong Chí Phèo… Tính cách nhân vật văn học có thể là một kiểu bắt chước máy móc của anh con rễ đối với bố vợ, hoặc -17- keo kiệt đến mức thà chết chứ không chịu mất ba quan, hoặc ứng xử đầy mâu thuẫn như những nhân vật trong những tác phẩm hiện thực chủ nghĩa. Bên cạnh đó, tính cách nhân vật còn được thể hiện qua cách hành động, giao tiếp, suy nghĩ của nhân vật. Việc xây dựng các xung đột, miêu tả ngoại hình hay hành động, khắc họa nội tâm, lựa chọn ngôn ngữ là những phương tiện không thể thiếu để khắc họa tính cách. Theo Lê Bá Hán trong Từ điển thuật ngữ văn học thì “Chỉ có một sức sáng tạo tài năng, vốn sống phong phú, phát hiện sâu sắc mới thực sự làm cho tính cách văn học có được sức sống trên trang sách” [6; tr.346]. Trong tác phẩm văn học, tính cách có một vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội dung và hình thức của tác phẩm. Đối với nội dung tính cách có nhiệm vụ cụ thể chủ đề, tư tưởng tác phẩm hay nói cụ thể hơn, thông qua sự hoạt động và mối quan hệ của tính cách, người đọc sẽ đi đến một sự nhận thức khái quát về mặt tư tưởng. Tính cách cũng là nhân tố chủ yếu tạo nên diễn biến của quá trình phát triển cốt truyện. Cũng qua hệ thống tính cách, người đọc có thể đánh giá khả năng biểu hiện nội dung của các yếu tố hình thức: ngôn ngữ, kết cấu, những quy luật loại thể. Nói chung tính cách được hiểu như là đặc điểm của nhân vật, khuynh hướng xã hội và là quy luật hành động của nhân vật. Đồng thời tính cách văn học còn là “một hiện tượng khái quát nghệ thuật, thể hiện cách hiểu biết, cách đánh giá và lí tưởng của tác phẩm” [13; tr.345]. 3. Phân loại hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều Trong quyển Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm giáo sư Đặng Thanh Lê đã thống kê: “Trong Truyện Kiều có khoảng ba mươi nhân vật, đó là tác phẩm có số lượng nhân vật cao nhất của văn học cổ Việt Nam” [11; tr.208]. Điều đó hoàn toàn chính xác bởi, khi so sánh Truyện Kiều với các truyện cổ tích và các truyện thơ Nôm khác, chúng ta thấy Truyện Kiều và Phạm Công Cúc Hoa là hai tác phẩm đứng đầu với ba mươi nhân vật kế đó đến Nhị Độ Mai với hai mươi nhân vật, Thạch Sanh với mười nhân vật, Hoàng Trù, Phan Trần, Sọ Dừa với bảy nhân vật, và Cây khế với hai nhân vật. Theo nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê, khi thống kê trong Truyện Kiều có ba mươi nhân vật thì việc thống kê đó chỉ có ý nghĩa tương đối do quan niệm thống kê. Bởi vì nhân vật được thống kê là những nhân vật trực diện xuất hiện. Ba mươi nhân vật trực diện xuất hiện đó được nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê sắp xếp theo hai hệ thống chính đó là hệ thống nhân vật chính diện: Vương Ông, Vương Bà, Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải, Kim Trọng, Đạm Tiên, Mã Kiều , mụ quản gia, sư Giác Duyên, sư Tam Hợp. Hệ thống nhân vật phản diện gồm: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Hoạn Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến, Đạo Cô, thằng bán tơ, mụ mối, cha Thúc Sinh, Ưng Khuyển, quan lại, Tôn Thổ Quan. Sự phân chia này theo bà Đặng Thanh Lê là “dựa trên chức năng chủ yếu trong tương quan với nhân vật chính và có ý nghĩa tương đối” [11; tr.208]. Ngoài việc phân chia nhân vật Truyện Kiều ra hai tuyến chính diện và phản diện, bà Đặng Thanh Lê còn quan niệm trong Truyện Kiều còn có tuyến nhân vật thứ ba – tuyến nhân vật trung gian. Bà cho rằng: “Có trường hợp nhân vật có thể sắp xếp được thuộc cả hai loại vị trí chức năng một và hai” [11; tr.208]. Bởi theo bà, trong Truyện Kiều có những nhân vật không hoàn toàn tuân thủ theo sự phân chia đó mà có thể có nhân vật biểu hiện tính cách trung gian. Ví dụ điển hình là nhân vật Thúc Sinh. Xếp Thúc Sinh vào hệ thống nhân vật chính diện khi người ta nhìn nhận công lao của chàng đối với Thúy Kiều bởi Thúc Sinh là ân nhân của Thúy Kiều, đã chuộc nàng ra khỏi lầu xanh. Thế nhưng, không thể xếp Thúc Sinh -18- vào hệ thống nhân vật chính diện khi nhân vật này thuộc loại khách làng chơi, đi tìm cuộc sống hưởng thụ ở chốn lầu xanh. Điều đó trái với quan niệm của nhân dân về mẫu người chính diện. Mặt khác, Thúc Sinh là người gián tiếp đẩy Thúy Kiều vào lầu xanh lần thứ hai khi chàng trở nên nhu nhược trước Hoạn Thư. Như vậy, ta thấy trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng nhiều nhân vật có tính cách khác nhau, nằm trong những hệ thống khác nhau, hoạt động trong các giới hạn phạm vi khác nhau… Tất cả đã góp phần tạo nên giá trị tác phẩm. Trên cơ sở đó, tác giả đã tập trung vào việc “trình bày tính cách và vận mệnh của nhân vật Thúy Kiều đồng thời khắc họa rõ nét những hình tượng nhân vật đó” [11; tr.216]. Người có cùng quan điểm với nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê là giáo sư Lê Đình Kỵ. Trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực giáo sư Lê Đình Kỵ cũng phân chia nhân vật Truyện Kiều theo hai hệ thống chính diện và phản diện. Thế nhưng, cách phân chia của ông có phần cụ thể hơn, bởi ông cho rằng: “Trong Truyện Kiều không chỉ có hai loại nhân vật đại diện cho chính nghĩa và gian tà đưa ra từ đầu theo lối tiên nghiệm chủ nghĩa. Cũng là nhân vật phản diện mà Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh lập thành một tuyến nhân vật, song song với tuyến nhân vật khác là Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến, Thúy Kiều là nhân vật chính diện nhưng cũng không cùng tuyến với Kim Trọng” [10; 208]. Như vậy, trong hệ thống chính diện và phản diện, ông Lê Đình Kỵ lại chia theo tuyến nhỏ hơn. Và chính điều này đã giúp ông đi sâu vào tìm hiểu từng nhân vật, làm nổi bật tính chất hiện thực trong mỗi nhân vật đó. Bên cạnh đó, ông cũng cùng ý kiến với bà Đặng Thanh Lê khi quan niệm về nhân vật trung gian bởi, theo ông Thúc Sinh cũng là nhân vật thuộc tuyến này. Ông cho rằng: “Trong người Thúc Sinh có cái mầm Kim Trọng lẫn Sở Khanh… hai cái mầm trái ngược ấy dựa vào nhau mà làm nên Thúc Sinh. Tùy theo từng hoàn cảnh như thế nào mà cái này sẽ lấn át cái kia” [10; tr.264]. Tóm lại, ông Lê Đình Kỵ và bà Đặng Thanh Lê đều dựa trên “sự tương quan” với nhận vật chính để phân loại nhân vật Truyện Kiều. Ở khuynh hướng thứ hai, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử quan niệm “Các nhân vật trong Truyện Kiều đều được miêu tả theo quan niệm đấng, bậc của ý thức hệ phong kiến. Kiều là “bậc bố Kinh”, là “bậc tài danh”, Từ là “đấng anh hùng”, Đạm Tiên là “đấng tài hoa”, …Các nhân vật phản diện là quân vô loài. Đối với nhân vật “đấng, bậc” thì cảm nhận và miêu tả theo phong cách trang trọng, tao nhã. Đối với “quân vô loài” thì tả theo bút pháp tả thực” [20; tr.37]. Như vậy, ta thấy cách phân chia của ông Trần Đình Sử cũng gồm hai tuyến: một bên là “đấng bậc”, một bên là “quân vô loài”. Ta thấy cách phân chia hệ thống nhân vật của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử rất mới mẽ. Tuy nhiên, đó chỉ là những gợi ý ban đầu chứ thật sự là một phương pháp nghiên cứu được phổ biến rộng rãi. Vì vậy, dù là một hướng nghiên cứu mới, giúp chúng ta phát hiện ra những cái độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du nhưng chúng ta vẫn không thể xem đó là một phương pháp tối ưu được. Riêng cách phân chia hệ thống nhân vật của giáo sư Lê Đình Kỵ và Đặng Thanh Lê tuy là phương pháp cổ điển nhưng nó lại có tầm khái quát rộng và là hướng nghiên cứu cơ bản nhất. Hướng nghiên cứu này giúp ta phân biệt rõ ràng hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Qua đó cũng cho ta thấy rõ thái độ yêu ghét của tác giả với mỗi nhân vật. Nhưng nhược điểm của cách phân chia này là như đã trình bày, nhân vật trong Truyện Kiều rất phong phú, đa dạng nên những nhân vật mang tính chất trung gian rất khó phân loại. Tuy nhiên, cách phân chia nhân vật theo hướng nghiên cứu này vẫn đóng vai trò rất -19- quan trọng trong việc tiếp cận Truyện Kiều, giúp người viết tìm hiểu về nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều một cách có hệ thống hơn. Như vậy, cho đến nay hướng nghiên cứu nhân vật Truyện Kiều theo tuyến nhân vật chính diện và phản diện của giáo sư Lê Đình Kỵ và giáo sư Đặng Thanh Lê là hướng nghiên cứu có tầm phổ quát. Người viết sẽ dựa trên hướng nghiên cứu này để thống kê từ đó tìm hiểu sâu hơn về nghệ thuật miêu tả tính cách từng nhân vật nhằm rút ra được Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Ở đây, người viết tập trung hướng nghiên cứu nghệ thuật miêu tả tính cách của các nhân vật chính diện: Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân, Từ Hải và các nhân vật phản diện: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư. Người viết hy vọng qua việc nghiên cứu này sẽ khái quát được nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều để góp phần tạo nên những kiến thức bổ ích cho công tác giảng dạy sau này. 4. Nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều 4.1 Các phương thức nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều Với thể loại tự sự có nhiều biện pháp để miêu tả tính cách nhân vật. Ở bài viết này, người viết chỉ xét trên các phương diện tiêu biểu như: miêu tả tính cách nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ và nội tâm nhân vật. 4.1.1 Miêu tả tính cách nhân vật thông qua ngoại hình Ngoại hình nhân vật chính là dáng vẻ bên ngoài của nhân vật bao gồm những yếu tố như: hình dáng, trang phục, cử chỉ, tác phong, diện mạo… Nói chung, ngoại hình là những gì liên quan đến con người mà chúng ta nhìn thấy được. Đối với Nguyễn Du, khi miêu tả nhân vật thì ngoại hình luôn là yếu tố quan trọng được ông đặc biệt quan tâm bởi đó cũng chính là cơ sở để bộc lộ tính cách nhân vật. Nếu như trong văn học hiện đại, khi miêu tả ngoại hình nhân vật, các tác giả thường hướng đến những chi tiết chân thực, cụ thể, sinh động thì trong văn học cổ điển các tác giả lại hướng tới những chi tiết mang tính ước lệ, tượng trưng, thường chỉ điểm sơ qua một vài nét tiêu biểu. Và Nguyễn Du cũng là một trong những tác giả chịu ảnh hưởng của khuynh hướng này. Với Truyện Kiều, ông đã phác họa nên những nhân vật với ngoại hình riêng biệt. Chính vì vậy mà ngoại hình của các nhân vật trong Truyện Kiều đã được ông thể hiện rất sinh động, mỗi nhân vật đều hiện lên với diện mạo không lầm lẫn với ai. Từ đó, làm cho tính cách nhân vật được bộc lộ một cách cụ thể, sinh động nhất. Tuy nhiên, Nguyễn Du vẫn có sự cách tân, sáng tạo độc đáo, ông đã thổi vào đó khá nhiều chất liệu của đời sống. Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, Nguyễn Du đã lựa chọn và tìm ra những nét tiêu biểu nhất để khắc họa nhân vật giúp cho người đọc dễ dàng nắm bắt đựoc những nét riêng biệt, cá thể của nhân vật. Đồng thời, nắm bắt được những đặc điểm ẩn bên trong của tính cách nhân vật. Đây cũng chính là biểu hiện sự thống nhất giữa hình thức bên ngoài với tính cách bên trong của nhân vật góp phần tạo nên phong cách riêng của Nguyễn Du. Nói chung, với nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật trong Truyện Kiều thì phương thức miêu tả ngoại hình là một yếu tố rất quan trọng nhằm góp phần bộc lộ tính cách nhân vật. Đồng thời, cũng giúp cho người đọc nắm bắt được dễ dàng những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm, giúp cho việc cảm thụ tác phẩm rõ ràng hơn, sâu sắc hơn. -20-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng