Câu 1: Ngày 03/8/1966, Bác Hồ đã có thư khen CBCS Cảnh sát
PCCC Hà Nội, đó cũng là lời dạy của Bác với lực lượng Cảnh sát
PCCC, đồng chí hãy cho biết xuất xứ, nội dung bức thư đó? Trong 50
năm qua, lực lượng Cảnh sát PCCC thực hiện lời dạy của Bác như
thế nào?
Trả lời:
I. Hoàn cảnh ra đời bức thư Hồ Chí Minh tặng CBCS Cảnh sát
PCCC Hà Nội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta,
anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là người Cha
thân yêu của Công an nhân dân. Sinh thời, trên cương vị Chủ tịch nước,
Bác Hồ đặc biệt quan tâm đặc biệt đối công tác phòng cháy, chữa cháy và
lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy. Tư tưởng của Người mãi mãi
là di sản quý báu, là ngọn đuốc soi đường, là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động và mục tiêu phấn đấu cho toàn lực lượng Cảnh sát PCCC.
Cùng với phong trào cách mạng của cả dân tộc, năm 1945 một số
anh em binh sỹ Sở Cứu hỏa Sài Gòn - Chợ Lớn đã bắt liên lạc với cán bộ
cách mạng, đã tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết tố cáo sự áp bức bóc lột
của thực dân Pháp ở đồn điền cao su Phú Riềng, xưởng đóng tàu Ba Son,
đồng thời thành lập tổ chức Thanh niên tiền phong và Việt Minh của Sở
để tổ chức giành chính quyền cơ sở.
Ngày 24/8/1945, Sở Chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn là một trong 6
đơn vị treo cờ đỏ sao vàng đầu tiên của thành phố, cờ đỏ sao vàng đã
phấp phới bay trên đỉnh tháp tập của Sở Chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn.
Tiếp đó, ngày 28/8/1945 anh em của Sở Chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn đi
trên xe chữa cháy tham gia diễu hành cùng hàng vạn người của thành
phố. Sở đã giao 2 chiến sỹ chữa cháy bảo vệ lá cờ đỏ sao vàng và một
trong hai chiến sỹ đã hy sinh dưới tháp tập đó là đồng chí Hạnh Bum do
1
thực dân Pháp bắn. Vào lúc 8h00 ngày 24/9/1945, chiến sỹ Sở chữa lửa
được lệnh rút ra căn cứ, đến tối 24/9, lực lượng chúng ta đã tổ chức đánh
vào Sở chữa lửa cướp xe chữa cháy rút về Gò Đen, Bến Lức, Long An,
nhưng có 3 xe chữa cháy bị kẹt lại ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Lực
lượng, phương tiện này đã tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau khi Hiệp định Giơ- ne- vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam
được ký kết (20-7-1954), cách mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn
mới, giai đoạn cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, nhằm mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ, thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là thời kỳ cách mạng chuyển giai đoạn, nhiệm vụ đặt ra cho lực
lượng Công an nhân dân rất nặng nề. Đó là phải giữ vững an ninh trật tự,
phục vụ công tác tiếp quản ở các thành phố, thị xã mới giải phóng, hoàn
thành cải cách ruộng đất; khôi phục kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế-văn hoá ở miền Bắc.
2
Hiệp định Giơ-ne-vơ là sự xác nhận trên phạm vi quốc tế sự
thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp, công nhận độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam. Ảnh tư liệu
Tại miền Bắc, thất bại ở Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, thực dân
Pháp có ý đồ di chuyển phương tiện, xe chữa cháy của Hà Nội rút vào
Nam nhưng Tổ cồng đoàn do đồng chí lái xe Nguyễn Văn Dần (Đảng
viên năm 1949, hoạt động bí mật) chỉ huy đã đấu tranh giữ toàn bộ
phương tiện chữa cháy của Sở cho đến ngày giải phóng Thủ đô.
Ở các địa phương, theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an, lần
lượt được thành lập lực lượng Cảnh sát PCCC thuộc các Ty Công an địa
phương. Cán bộ chiến sỹ của đơn vị chữa cháy thuộc Sở Công an Hà Nội,
Ty Công an Sài Gòn - Chợ Lớn được điều động đến các đơn vị Cảnh sát
PCCC mới thảnh lập làm nòng cốt. Nhiều địa phương, hầu hết số binh sĩ,
công nhân cứu hỏa đã tham gia kháng chiến, giành giật phương tiện khỏi
tay thực dân Pháp.
3
8h sáng ngày 10/10/1954 Ảnh tư liệu.
Ngày 10-10-1954, Thủ đô Hà Nội được giải phóng. Ngay sau đó,
chính quyền nhân dân thành phổ được thiết lập và nhanh chóng đi vào
hoạt động. Đồng thời với các nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, ta đã tiếp
quản Đội Cứu hỏa thuộc Xưởng Cổng chính, Sở Giao thông công chính
Hà Nội. Đội có 8 người do đồng chí Nguyễn Thái Lang phụ trách.
Ngày 11/10/1954, đoàn cán bộ thuộc Sở Liêm Phóng vào tiếp quản
Đội Cứu hỏa Hà Nội.
Trước yêu cầu của công tác phòng hoả, cứu hoả để bảo vệ Thủ đô
mới giải phóng, tháng 12-1954, Bộ Công an thành lập Đại đội Cứu hỏa
thuộc Ban Trị an Dân cảnh - Sở Công an Hà Nội gồm 60 cán bộ, chiến sĩ
và 7 xe cứu hỏa do đồng chí Nguyễn Thái Lang giữ chức vụ Đại đội
trưởng, đồng chí Lục Vân Giỏi giữ chức vụ Đại đội phó. Trong giai đoạn
này công tác phòng cháy, chữa cháy được Đảng, Nhà nước quan tâm và
đưa vào phong trào bảo vệ trị an và thể hiện rõ nhất với khẩu hiệu 3
phòng: “Phòng gian - Phòng hoả - Phòng tai nạn.”
Ngày 1-1-1955, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, nhân dân Hà
Nội tổ chức cuộc mít tinh trọng thể để chào mừng Chủ tịch Hổ Chí Minh,
Trung ương Đảng và Chính phủ về Thủ đô sau 9 năm trường kỳ kháng
chiến gian khổ. Cuộc mít tinh có 25 vạn đồng bào tham dự. Đây là một
ngày lễ có ý nghĩa chính trị lo lớn không những ở trong nước mà cả trên
trường quốc tế. Trung ương Đảng giao cho Bộ Công an và Sở Công an
Hà Nội tăng cường lực lượng và chủ động phối hợp với quân đội triển
khai thực hiện tốt công tác bảo vệ. Tại khu vực lễ đài có một tiểu đội cảnh
sát cứu hoả gồm 7 chiến sĩ do đồng chí Lục Văn Giỏi chỉ huy thường trực
sẵn sàng phòng khi có trường hợp bất trắc. Kết thúc buổi mít tinh, từ trên
lễ đài, Bác Hồ bước xuống, đi thẳng đến tiểu đội cảnh sát cứu hoả. Bác
vui vẻ thân mật chúc: “Nhân dịp năm mới, Bác chúc các chú thất nghiệp.
4
Nếu các chú có việc thì nhà dân cháy hết”. Lời chúc giản dị của Bác có ý
nghĩa hết sức sâu sắc, vừa động viên lực lượng cảnh sát phòng hoả, cứu
hoả không ngừng phấn đấu vì sự nghiệp bảo vệ an toàn tài sản của Nhà
nước, tính mạng, tài sản của nhân dân, vừa nhắc nhở muốn “thất nghiệp”
phải làm thật tốt công tác phòng Trong thời kỳ này ở một số địa phương
xảy ra nhiều vụ cháy do địa chủ và bọn phản động phá hoại. Có tháng xảy
ra 30 vụ cháy, trong đó, có những vụ cháy gây ra hậu quả khá nghiêm
trọng và khó điều tra như vụ cháy ở khách sạn Metropol (Hà Nội).Trước
tình hình đó, Bộ Công an đã kịp thời ra Chỉ thị số 373/TA-HS ngày 6-51955 về xây dựng lực lượng phòng hỏa, cứu hỏa chuyên nghiệp. Hầu hết
các sở, ty công an ở miền Bắc đều thành lập đội phòng hoả, cứu hoả để
làm nòng cốt trong phong trào phòng hoả, cứu hoả ở địa phương.
Để kịp thời đối phó với tình hình cháy nổ xảy ra, ngày 27-6-1955,
Bộ Công an ra Chỉ thị số 479/TA-TP về việc “Hướng dẫn phòng hỏa, cứu
hỏa ở các thành phố, thị xã”. Chỉ thị nêu rõ: “Việc phòng hoả, cứu hỏa là
nhiệm vụ chung của mọi người nhằm bảo vệ tính mạng và tài sản của
nhân dân, bảo vệ các công trình kiến thiết, các cơ sở kinh tế của Nhà
nước, ngăn chặn hành vi phản cách mạng và phá hoại của kẻ địch”. Sau
chỉ thị đó, lực lượng phòng hoả, cứu hoả chuyên nghiệp đã tích cực phát
động và xây dựng phong trào quần chúng phòng hoả, cứu hoả ở khắp các
thành phố, thị xã. Được sự lãnh đạo của các cấp chính quyền, với sự nhiệt
tình tham gia của các tầng lớp nhân dân, các đội dân phòng lần lượt được
thành lập và hoạt động tích cực. Ban đầu, cứ 20 nhà kề nhau trên đường
phố thành lập một tổ dân phòng, từ 3 đến 5 tổ thành lập đội dân phòng.
Dần dần, ở nhiều địa phương, phong trào quần chúng phòng hoả, cứu hỏa
được phát triển và hoạt động có nề nếp.
Từ thực tế trên đây, ngày 30-12-1955, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ
thị số 3366/CP-TTg “Về việc tổ chức lực lượng cứu hỏa trên toàn miền
Bắc”. Chỉ thị nêu rõ: “Nhiệm vụ chủ yếu của các đơn vị phòng hỏa, cứu
5
hỏa là tập luyện sẵn sàng cứu chữa khi có cháy xảy ra. Phải giáo dục
hướng dẫn và tổ chức nhân dân phòng hỏa, cứu hỏa. Khi có chiến tranh
phải hướng dẫn phòng không, sơ tán. Tổ chức các đơn vị cứu hỏa mang
tính chất bán quân sự chia thành đại đội, trung đội, tiểu đội. Chế độ
thường trực đảm bảo 24/24 giờ. Thường xuyên kiểm tra báo cáo cấp
trên”. Bản Chỉ thị có ý nghĩa quan trọng, đây là cơ sở để xây dựng “Điều
lệnh chiến đấu” của lực lượng cảnh sát phòng hoả, cứu hoả sau này.
Cuối năm 1955, đầu năm 1956, công tác phòng hoả, cứu hoả đã
được tăng cường. Liên Xô đã viện trợ cho ta 8 xe ô tô cứu hoả Gát-51 và
10 máy bơm cứu hoả MII-600. Bộ Công an phân phối cho những địa
phương trọng điểm như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An, Hồng
Quảng.
Ngày 27/3/1956, Bộ Công an có Chỉ thị số 347/TA về việc xâv
đựng lực lượng PCCC chuyên nghiệp ở miền Bắc. Ngày 01/6/1956 Bộ
Công an có quyết định số 1175/V2 quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ, cơ
cấu và chế độ làm việc của đội cứu hỏa, trong đó có quy định rõ đội cứu
hỏa thành phố, thị xã là một bộ phận của Cảnh sát nhân dân.
Thực hiện quy định của Chính phủ và Chỉ thị của Bộ Công an, cuối
năm 1956, 11 đơn vị phòng hỏa, cứu hỏa của các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng,
Nam Định, Hồng Quảng, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nam, Hải Dương,
Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên lần lượt được thành lập; lực lượng cứu
hỏa bắt đầu tập luyện và tập huấn nghiệp vụ PCCC do chuyên gia Liên
Xô hướng dẫn.
Cũng trong thời gian này, ngày 2-6-1956, Bộ Công an ra văn bản
quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ, cơ cấu và chế độ làm việc của Đội
Cứu hỏa, trong đó nói rõ Đội Cứu hỏa ở thành phố, thị xã là một bộ phận
của ngành cảnh sát có nhiệm vụ: giáo dục, tổ chức nhân dân và hướng
dẫn các cơ quan, kho tàng, xí nghiệp, nhà máy, công trường đề phòng hỏa
hoạn, bảo vệ công cuộc kiến thiết quốc gia và bảo đảm an toàn tài sản,
tính mạng của nhân dân Đồng thời luôn luôn giáo dục nâng cao cảnh giác
6
trong cán bộ, công nhân viên và nhân dân chống âm mưu đốt phá của
địch. Sẵn sàng cứu chữa các vụ cháy xảy ra để hạn chế và làm giảm nhẹ
mọi thiệt hại. Trong thời kỳ chiến tranh có trách nhiệm hướng dẫn nhân
dân phòng không, phòng độc. Quán triệt chỉ đạo của Bộ Công an, các địa
phương đã tiến hành xây dựng và củng cố tổ chức đội cứu hỏa, tích cực
đưa công tác phòng hỏa, cứu hỏa tiến lên những bước mới. Hội nghị
Công an toàn quốc lần thứ 11 (9-2-1957) đã đánh giá tổng quát nhiệm vụ
chung của toàn ngành, đồng thời nhấn mạnh:“Chỉnh đốn tổ chức phòng
hỏa, cứu hỏa, giảm đến mức thấp nhất các vụ cháy”. Thực hiện Nghị
quyết của Hội nghị, ngày 17-3-1957 Bộ Công an có Công văn gửi các sở
ty về việc cử người đi học lớp phòng hỏa, cứu hỏa tại Hải Phòng. Sau khi
nhận được công văn trên đã có 11 địa phương ở miền Bắc cử người đi
học. Lớp học đầu tiên khai giảng vào ngày 16-4-1957 Bộ Công an mở lớp
phòng hỏa cứu hỏa cho các cơ quan, xí nghiệp, các ngành kinh tế. Lớp
học gồm 107 người, thời gian học là 15 ngày. Đây là những lớp cán bộ
đầu tiên được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về công tác phòng hỏa,
cứu hỏa. Mặc dù các hoạt động phòng hoả, cứu hoả đã có nhiều cố gắng
song tình hình cháy nổ vẫn có những diễn biến phức tạp. Riêng trong năm
1957, xảy ra 31 vụ cháy. Đa số các vụ cháy xảy ra do thiếu tinh thần trách
nhiệm trong việc chấp hành quy định về phòng hoả, cứu hoả. Nguyên
nhân cơ bản là do cán bộ lãnh đạo ở các cơ sở chưa thực sự quan tâm đến
công tác phòng hoả, cứu hoả. Cán bộ nhân viên các cơ sở kinh tế chưa
được giáo dục hiểu biết về kiến thức phòng hoả, cứu hoả, lơ là mất cảnh
giác.
Để khắc phục tình trạng trên, ngày 21-1-1958, Bộ Công an đã xây
dựng báo cáo về công tác phòng hỏa, cứu hỏa đề nghị Ban Bí thư Trung
ương Đảng đặt vấn đề phòng hỏa, cứu hỏa thành nhiệm vụ cấp thiết, quan
trọng. Từ sau hoà bình lập lại, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, các
thành phố, thị xã, thị trấn, thôn xóm bắt đầu xây dựng lại, phần lớn nhà
cửa đều làm bằng tranh, tre, nứa, lá. Do đó, các cấp ủy Đảng, đoàn thể
phải thường xuyên nhắc nhở ý thức phòng hỏa, cứu hỏa. Đồng thời tổ
7
chức phòng hỏa, cứu hỏa phù hợp với từng nơi, từng địa phương, từng
đơn vị cơ sở.
Cảnh sát PCCC Hà Nội trong những năm kháng chiến chống Pháp
Năm 1958, Bộ Công an có Quyết định thành lập phòng Phòng hỏa,
cứu hỏa (P8) trực thuộc Vụ Trị an dân cảnh (V10). Đây là tổ chức tiền
thân của Cục Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Năm 1958, mô ôt hôm, người đứng đầu cơ quan cảnh sát phòng cháy,
chữa cháy được triê ôu tâ ôp đến Phủ Chủ tịch. Khó có thể diễn tả hết được
tâm trạng của người cán bô ô phòng cháy, chữa cháy trước lúc vào nơi lãnh
đạo cao nhất của đất nước sống và làm viê ôc. Đến nơi mới hay, trong Phủ
Chủ tịch có mô ôt bể nước, nay do yêu cầu nhiê ôm vụ mới nên có người đề
nghị phá bỏ. Mọi người hỏi ý kiến Bác, Bác yêu cầu “phải hỏi các chú
phòng cháy, chữa cháy, nếu không cần bể nước để chữa cháy thì hãy phá
đi”… Trước vai trò rất quan trọng của công tác phòng hỏa, cứu hỏa và từ
8
câu chuyện rất đỗi giản dị ấy đã cho chúng ta thấy được sự quan tâm đặc
biệt sâu sắc và nhận định, đánh giá đúng mực của Bác Hồ đối với công
tác phòng cháy, chữa cháy.
Chùa Quan Nhân xã Nhân Chính, Từ Liêm, Hà Nội địa điểm Phân hiệu
Cảnh sát PCCC sơ tán năm 1972
Tháng 7 năm 1959, Bộ Công an đã đưa đoàn học sinh đầu tiên đi
học tại Trường Trung học PCCC Lênin Grat - Liên Xô gồm 6 đồng chí.
Đến tháng 9/1963 lớp cán bộ đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp ra trường
và về nước nhận công tác. Giai đoạn này, Bộ Công an đặc biệt quan tâm
đến công tác đào tạo chuyên ngành về PCCC, trong đó đã tập trung cử
người đi đào tạo ở các nước có nền khoa học kỹ thuật PCCC tiên tiến
như: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức...
Sau 3 năm (1954 - 1957) nhiệm vụ khôi phục kinh tế căn bản đã
hoàn thành. Đầu năm 1958, miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch cải
tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế, văn hoá (1958-1960).
Trong thời kỳ này, nhiều xí nghiệp, kho tàng, nhà máy được xây dựng đòi
9
hỏi lực lượng cứu hoả phải phát triển để kịp thời bảo vệ những cơ sở kinh
tế đó. Nhiệm vụ chủ yếu của ngành cứu hoả là đề phòng, ngăn chặn, hạn
chế bớt những vụ hoả hoạn xảy ra. Trường hợp xảy ra cháy thì phải kịp
thời cứu chữa bằng mọi phương pháp đã chuẩn bị từ trước.
Sau 3 năm tiến hành cải tạo nền kinh tế quốc dân theo con đường
chủ nghĩa xã hội, miền Bắc nước ta đã có sự thay đổi sâu sắc. Công cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế, văn hoá đã giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đưa
miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để góp phần thực hiện thắng lợi
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất( 1961 -1965) do Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ III của Đảng đề ra, Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần
thứ 15, tháng 1- 1961, nêu rõ nhiệm vụ của lực lượng lực lượng phòng
hoả, cứu hoả là: “Thông qua cuộc vận động bảo vệ trị an ngoài xã hội và
trong cơ quan, xí nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa việc giáo dục quần chúng
đề phòng cháy, nổ ở trong nhân dân, cơ quan, xí nghiệp, đơn vị quân đội”.
Nhằm không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ và năng lực công tác
chuyên môn, Bộ Công an đã tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, trong đó, giao cho Trường Công an Trung ương mở một lớp bổ túc
ngắn hạn gồm 60 cán bộ cứu hỏa. Thời gian học là 6 tháng, từ tháng 31961 đến tháng 9-1961 kết thúc. Nhờ tiếp thu kinh nghiệm và phương
pháp đào tạo của chuyên gia Liên Xô cho nên các học viên đã nhanh
chóng nắm bắt được lý luận cơ bản về nghiệp vụ phòng hoả, cứu hoả.
Trong thời gian này, Bộ Công an cũng giao nhiệm vụ cho đồng chí
Lục Văn Giỏi và đồng chí Nguyễn Tăng Điện nghiên cứu xây dựng dự
thảo “Luật phòng hỏa, cứu hỏa”. Qua 6 lần sửa đổi, bổ sung, bản dự thảo
đã được Ban Nội chính Trung ương có ý kiến chuyển thành “Pháp lệnh
quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng hỏa, cứu
hỏa”.
10
Ngày 27-9- 1961, tại phiên họp thứ 28 của ủy ban Thường vụ Quốc
hội do Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh chủ trì đã thông qua bản Pháp
lệnh. Khi trình lên Chủ tịch nước, sau khi đọc toàn văn, Bác Hồ đã sửa
cụm từ “Phòng hỏa, cứu hỏa” thành cụm từ “Phòng cháy, chữa cháy”.
Bác viết mực đỏ và gạch chân dòng chữ này. Cụ thế: 1962 đến năm 1991
đã có 116 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học PCCC Matxcova Liên Xô, 61 đồng chí được đào tạo tại Trường Trung cấp Lênin Grat, 30
đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học kỹ sư thực hành PCCC ở Cộng
hòa dân chủ Đức. Đặc biệt có 16 đồng chí đă bảo vệ thành công luận án
Phó Tiến sỹ khoa học PCCC ở Liên Xô.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế ở miền Bắc (kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất 1961-1965). Bộ Công an giao cho Vụ Trị an dân cảnh (V10) xây
dựng dự thảo một văn bản pháp quy về PCCC để đề nghị Nhà nước ban
hành. Tham gia xây dựng văn bản này có đồng chí Nguyễn Tăng Điện,
sau này đồng chí là Cục trưởng Cục PCCC, rồi được Nhà nước phong
quân hàm Thiếu tướng giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu
cần, Bộ Công an.
Đến ngày 12/8/1961, bản dự thảo Pháp lệnh được Hội đồng Chính
phủ trình lên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đến ngày 04/10/1961, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký Lệnh số 53/LCT của Chủ tịch nước công bố “Pháp lệnh
quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC” (gọi tắt là
Pháp lệnh PCCC), trong đó tại Điều 3 quy định: Bộ Nội vụ tổ chức ra
Cục Phòng cháy và chữa cháy. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi về chất
trong công tác PCCC của Nhà nước, đồng thời mở ra một trang mới trong
lịch sử của lực lượng Cảnh sát PCCC. Từ đó đến nay, vào dịp tháng 10 và
ngày 04/10 hằng năm lục lượng Cảnh sát PCCC đều tham mưu, đề xuất
lãnh đạo Bộ, UBND địa phương tổ chức các hoạt động về lĩnh vực PCCC
nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng về phòng cháy, chữa cháy
11
cho người dân; lực lượng Cảnh sát PCCC tổ chức thi nghiệp vụ; tổ chức
tuyên truyền phổ biến kiến thức về pháp luật và nghiệp vụ PCCC trên các
phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức mít tinh, hội họp, tuyên dương
thành tích tập thể và cá nhân có nhiều thành tích trong công tác PCCC.
Một tình huống đáng lưu ý là tên gọi của dự thảo Pháp lệnh PCCC
qua từng bước có sự thay đổi: Đầu tiên Bộ Công an dự thảo là “Luật
phòng hỏa, cứu hỏa Việt Nam”; khi trình Văn phòng Nội chính, Phủ Thủ
tướng sửa là “Pháp lệnh quy định việc giám sát của Nhà nước đối với
công tác phòng hỏa, cứu hỏa”; khi trình ủy ban thường vụ Quốc hội sửa
hai chữ “giám sát” thành hai chữ “quản lý”; khi trình Chủ tịch nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên nội dung của tên gọi, chỉ thay đổi cụm
từ “phòng hỏa, cứu hỏa” bằng cụm từ cháy và chữa cháy” cho dễ hiểu
hơn. Người nói vui: Xảy ra cháy thh ì phải “chữa” chứ sao lại “cứu”. Như
vậy, có thể khẳng định sự quan tâm của Bác Hồ và cơ quan lập pháp đối
với công tác PCCC trong giai đoạn này.
Tiếp đó, ngày 28/12/1961, Chính phủ ra Nghị định số 220/CP để
hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối
với công tác PCCC. Ngày 29/12/1961, Chính phủ ra Nghị định 221/CP để
hướng dẫn công tác PCCC rừng. Ở các địa phương miền Bắc, các đơn vị
phòng cháy, chữa cháy: Hà Bắc, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Thái
Bình, Hà Tĩnh...lần lượt được thành lập. Pháp lệnh và các Nghị định trên
đây là những văn bản pháp lý quan trọng, thể hiện sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước đối với công tác phòng cháy, chữa cháy. Đây là sự kiện quan
trọng, đánh dấu một bước trưởng thành của lực lượng cảnh sát phòng
cháy chữa cháy, là cơ sở pháp lý để xây dựng lực lượng Cảnh sát phòng
cháy, chữa cháy từng bước chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn mới của cách mạng. Lãnh
đạo Bộ Công an và Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy đã tổ chức chỉ
12
đạo mở các lớp tập huấn cho toàn lực lượng nhằm giáo dục chính trị, lãnh
đạo tư tưởng làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ vinh dự to lớn,
trách nhiệm nặng nề của Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy trong tình hình
mới.
Trước yêu cầu phát triển của lực lượng phòng cháy, chữa cháy,
ngày 20-8-1962, Bộ Nội vụ đã cử 2 đoàn sang Liên Xô học đại học và
trung cấp phòng cháy, chữa cháy. Tháng 10- 1962, Bộ chỉ đạo trường
Công an Trung ương thành lập Khoa Nghiệp vụ II (Khoa Cảnh sát) có
nhiệm vụ bồi dưỡng, huấn luyện, đào tạo, nghiên cứu lý luận nghiệp vụ
Cảnh sát nhân dân cho toàn lực lượng. Chương trình đào tạo của Khoa
Nghiệp vụ II gồm các chuyên ngành: Hình sự; Phòng cháy, chữa cháy;
Giao thông; Khu vực; Huấn luyện cho nghiệp vụ... Đồng chí Lê Quân
được bổ nhiệm Trưởng khoa Nghiệp vụ II.
Tháng 2-1963, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 17 họp đã
quyết nghị nhiều vấn đề quan trọng, trong đó nhấn mạnh: “Cần phát huy
tác dụng của các biện pháp quản lý vũ khí, các chất nổ, chất cháy, đặc biệt
chú ý đề phòng cháy, giáo dục quần chúng ý thức chấp hành các quy định
phòng cháy, chữa cháy”. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Công an toàn
quốc lần thứ 17, nhằm tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy, chuẩn
bị đối phó với với âm mưu đánh phá miền Bắc bằng không quân của đế
quốc Mỹ, ngày 2-2-1963, Trường Công an Trung ương mở lớp nghiệp vụ
về phòng cháy, chữa cháy gồm 63 đồng chí, thời gian học là 6 tháng, đến
ngày 10-7-1963, lớp học kết thúc. Kết quả có 100% học viên tốt nghiệp.
Để nâng cao hiệu lực của cơ quan quản lý Nhà nước về phòng cháy
chữa cháy, ngày 23-3-1963, ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp
lệnh: “Quy định cơ quan quản lý công tác phòng cháy, chữa cháy và chế
độ cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan phòng cháy, chữa cháy”. Pháp lệnh đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 17/LCT ban hành ngày 5- 41963. Theo quy định của Pháp lệnh thì cơ quan quản lý Nhà nước về công
13
tác phòng cháy, chữa cháy do Bộ Công an đảm nhiệm. Như vậy, công tác
phòng cháy, chữa cháy được xác định là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
do lực lượng Cảnh sát làm nòng cốt. Sau khi có Pháp lệnh, lực lượng
phòng cháy, chữa cháy thuộc Bộ Nội vụ (cũ) được chuyển về Bộ Công an
quản lý. Các đơn vị phòng cháy, chữa cháy trực thuộc ủy ban hành chính
tỉnh, thành phố được chuyển giao sang cho công an cấp tỉnh, thành phố
trực tiếp quản lý. Để từng bước đưa các hoạt động của lực lượng Cảnh sát
Phòng cháy, chữa cháy đi vào nề nếp, thống nhất, chính quy. Cục Cảnh
sát Phòng cháy và chữa cháy đã kịp thời ban hành: “Điều lệnh nội vụ” và
“Điều lệnh chiến đấu”. Những văn bản đó là tài liệu quan trọng phục vụ
cho công tác huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ của lực lượng Cảnh sát Phòng
cháy, chữa cháy theo hướng chính quy, hiện đại.
Trước âm mưu của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc
bằng không quân và hải quân, năm 1963, Chính phủ ra Nghị định 112/CP
quy định về công tác phòng không sơ tán và tổ chức công tác chữa cháy
do địch gây ra. Ngay sau đó, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Mệnh
lệnh về công tác bảo vệ phòng không sơ tán, bảo vệ an ninh trật tự trong
tình hình mới. Thực hiện Mệnh lệnh của Bộ trường, lực lượng Cảnh sát
PCCC đã khẩn trương hướng dẫn các cơ quan tăng cường công tác
PCCC, quản lý vật liệu nổ, các chất dễ cháy, chuẩn bị phương án và các
phương tiện sẵn sàng chữa cháy khi tình huống xấu xảy ra.
Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 18 đã nêu rõ:
Nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PCCC là: PCCC các cơ sở kinh tế quan
trọng, các mặt hàng thiết yếu, các khu vực đông dân cư; chuẩn bị tốt kế
hoạch phòng không nhân dân, chữa cháy kịp thời các điểm cháy do địch
gây ra. Trên cơ sở đó, lực lượng Cảnh sát PCCC đã được củng cố tổ chức,
tăng cường lực lượng, bố trí lại các đội Cảnh sát PCCC, lập các phương
án chủ động chữa cháy do máy bay địch gây ra. Chính vì vậy, trong trận
14
đánh phá đầu tiên của địch ra miền Bắc vào ngày 05/8/1964, ta đã hạn
chế được rất nhiều thiệt hại về người và tài sản.
Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn
và sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ ào ạt
đưa quân Mỹ và quân các nước chư hầu vào Miền Nam, tiến hành cuộc
“Chiến tranh cục bộ với quy mô lớn”; đồng thời dùng không quân và hải
quân mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc nước ta. Trước tình
hình đó, Đảng ta quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ trên
phạm vi toàn quốc. Đối với lực lượng Công an, Bộ Công an đã chỉ đạo
các lực lượng tăng cường công tác phòng không nhân dân, bảo vệ an ninh
trật tự, bảo vệ an toàn giao thông, PCCC... Bộ Công an đã phối hợp với
Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam giao nhiệm vụ cho các
quân khu, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, dân quân, tự vệ địa phương dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ địa phương phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng
Cảnh sát PCCC thực hiện nhiệm vụ PCCC ở cơ sở, nhất là dập tắt ngay
các đám cháy do máy bay địch đánh phá. Từ đây, công tác PCCC trở
15
thành một nhiệm vụ quan trọng của dân quân tự vệ trong cuộc chiến
chống chiến tranh phá hoại của địch. Nhiều đơn vị, chiến sĩ lực lượng
Cảnh sát PCCC đã phối hợp với dân quân tự vệ dũng cảm tham gia chữa
cháy, bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản và tính mạng của nhân dân.
Tháng 7-1965 đồng chí Đinh Mười có quyết định bổ nhiệm Phó
Khoa Nghiệp vụ II - kiêm phụ trách Tổ Phòng cháy, chữa cháy. Được sự
quan tâm của Lãnh đạo Bộ, đội ngũ giáo viên được tăng cường thêm 3
đồng chí: Lê Cừ, Phùng Bái, Nguyễn Luân. Thời kỳ này cán bộ, giáo viên
của Tổ có 7 người phải đảm nhiệm giảng dạy một khối lượng chương
trình, nội dung rất lớn. Trước tình hình đó, Cục Cảnh sát Phòng cháy,
chữa cháy đã cử một số cán bộ tham gia giảng dạy, trong đó: đồng chí Lê
Văn Nam - môn Nghiệp vụ phòng cháy và chữa cháy, đồng chí Đinh
Trung - môn Phòng cháy điện. Ngoài ra, còn mời giáo viên các trường
Đại học Bách khoa, Đại học Thủy lợi giảng các môn khoa học cơ bản.
Thực hiện kế hoạch của Bộ, ngày 10-8- 1965, trường Công an Trung
ương tiếp tục chiêu sinh lớp C256 gồm 56 đồng chí, sau 18 tháng vừa học
tập vừa sẵn sàng chiến đấu, khoá học đã hoàn thành chương trình đào tạo
với kết quả tốt nghiệp 100% đạt yêu cầu, trong đó có 67,8% đạt loại khá
và giỏi.
Cuối năm 1965, do bị thất bại nặng nề ở chiến trường miền Nam,
đế quốc Mỹ đã leo thang, tăng cường đánh phá miền Bắc bằng không
quân. Chúng đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống các cơ sở kinh tế, khu
dân cư, bệnh viên, trường học, đê điều, giao thông vận tải... Tình hình đó
đặt ra cho lực lượng Công an nhân dân những nhiệm vụ mới hết sức nặng
nề và cấp thiết. Công tác phòng không nhân dân được phát động và đẩy
mạnh trên toàn miền Bắc. Việc bảo vệ an toàn cơ quan, kho tàng, xí
nghiệp, bệnh viện, trường học là một trong những nhiệm vụ mà lực lượng
Cảnh sát nhân dân trong đó có lực lượng Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy
phải chủ động phối hợp thực hiện. Trước đòi hỏi phát triển của lực lượng
16
Công an nhân dân nói chung và lực lượng Cảnh sát nhân dân nói riêng, để
đáp ứng yêu cầu chiến đấu và phục vụ chiến đấu, Bộ Công an có chủ
trương xây dựng lực lượng Cảnh sát nhân dân vững mạnh, bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ trong tình hình mới, ngày 30-12-1965, Bộ Công an ra
Quyết định số 155A/CA-QĐ về việc “Thành lập Phân hiệu Cảnh sát nhân
dân” trên cơ sở Khoa Nghiệp vụ II thuộc Trường Công an Trung ương.
Nhiệm vụ của Phân hiệu Cảnh sát nhân dân là: Bổ túc nghiệp vụ cho cán
bộ chiến sĩ Cảnh sát nhân dân, quản lý trại giam và phòng cháy, chữa
cháy; đào tạo cán bộ để bổ sung cho lực lượng cảnh sát nhân dân, quản lý
trại giam và phòng cháy, chữa cháy; nghiên cứu góp phần vào việc tổng
kết và xây dựng lý luận về nghiệp vụ cảnh sát nhân dân, quản lý trại giam
và phòng cháy, chữa cháy.
Tổ chức bộ máy của Phân hiệu Cảnh sát nhân dân gồm 4 khoa và 4
tổ, trong đó có Khoa Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy với phiên hiệu là
Khoa 56. Theo Quyết định số 155A/CA-QĐ, Khoa Cảnh sát Phòng cháy,
chữa cháy lúc mới thành lập gồm các đồng chí: Đinh Mười - Trưởng
khoa, Nguyễn Thành Lâm, Nguyễn Khải, Lê Cừ, Phùng Bái làm giáo
viên, đồng chí Nguyễn Luân lái xe chữa cháy.
Các chiến sĩ PCCC, Công an Hà Nội tình nguyện đăng ký
17
đi chiến trường miền Nam chiến đấu
Năm 1965, đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng cuộc chiến tranh đánh
phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Bộ Công an chỉ thị cho các
lực lượng Công an tăng cường công tác phòng không nhân dân, bảo vệ an
ninh trật tự, bảo vệ an toàn giao thông, PCCC...Bộ Công an đã phối hợp
với Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam giao nhiệm vụ cho
các quân khu, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, dân quân, tự vệ địa phương dưới
sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng
Cảnh sát PCCC thực hiện nhiệm vụ PCCC ở cơ sở, nhất là các vụ cháy do
địch gây ra. Từ đây, công tác PCCC trở thành một nhiệm vụ quan trọng
của dân quân tự vệ trong cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại của địch.
Nhiều đơn vị, chiến sĩ lực lượng Cảnh sát PCCC đã phối họp với dân
quân tự vệ dũng cảm tham gia chữa cháy, bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản
và tính mạng của nhân dân.
Điển hình như các vụ:
- Vụ máy bay Mỹ đánh phá trận địa tên lửa và pháo phòng không
tại Đồng Giao, Ninh Bình ngày 8/6/1965, lực lượng Cảnh sát PCCC đã
cắt được luồng lửa đang cháy xung quanh quả tên lửa rồi di chuyển quả
tên lửa đến địa điểm an toàn (đây là đơn vị được tặng thưởng danh hiệu
đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 01/01/1967);
- Vụ máy bay ném bom trúng Ga Gôi thuộc tỉnh Hà Nam ngày
20/6/1965 làm một đoàn tàu chở thuốc trừ sâu bốc cháy. Lãnh đạo Công
an tỉnh Hà Nam đã điều động 18 chiến sĩ PCCC và 3 xe cứu hoả, cùng
200 thanh niên xung phong để chống chọi với giặc lửa. Sau nhiều giờ
dũng cảm chữa cháy trong hoàn cảnh đặc biệt nguy hiểm, lực lượng
PCCC đã cứu được 10 toa hàng và 01 toa thuốc trừ sâu, nhưng 3 chiến sĩ
Công an Hà Nam và 15 người tham gia chữa cháy đã bị ngộ độc và anh
dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ;
18
- Vụ chữa cháy 4 xà lan lớn chở xăng dầu trên Vịnh Hạ Long (đây
là đơn vị được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân, 01/01/1967);
- Vụ chữa cháy thị xã Đồng Hới, Quảng Bình (đây là đơn vị được
tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
02/9/1973);
- Vụ chữa cháy tàu Alecxandra của Liên Xô chở hàng viện trợ cho
ta ở cảng Hải Phòng và vụ chữa cháy kho xăng dầu Thượng Lý, Hải
Phòng (đây là đơn vị được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân, 02/9/1973);
- Vụ chữa cháy khu lắp ráp tên lửa ở dồi Nhơm, Triệu Sơn, Thanh
Hóa (đây là đơn vị được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân, 02/9/1973);
- Vụ chữa cháy Tổng kho xăng dầu Đức Giang và hàng trăm vụ
cháy lớn phức tạp khác xảy ra trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên
không” ở Hà Nội đã được, cứu chữa kịp thời và đội PCCC Lộc Hà được
phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
02/9/1973.
19
Đặc biệt, vụ không quân Mỹ tập trung đánh phá Hà Nội, mục tiêu
chính là Kho xăng dầu Đức Giang ngày 24/6/1966. Đây là kho dự trữ
xăng dầu lớn nhất phục vụ công tác phát triển kinh tế miền Bắc và phục
vụ chi viện cho miền Nam. Ngay từ khi một số bể xăng dầu bị cháy, lãnh
đạo Bộ Công an đã chỉ đạo Cục Cảnh sát PCCC phải trực tiếp chỉ đạo
công tác chữa cháy, huy động các lực lượng Cảnh sát PCCC lân cận đến
hỗ trợ, điều động những chuyên gia giàu kinh nghiệm phối hợp cùng
Cảnh sát PCCC Công an Hà Nội chữa cháy. Trực tiếp chỉ đạo công tác
chữa cháy là các đồng chí: Đồng chí Nguyễn Văn Luân, Cục trưởng Cục
Cảnh sát PCCC, đồng chí Trương Từ Thức, Trưởng phòng Cảnh sát
PCCC Công an Hà Nội và các đồng chí Trần Háo Hiếu, Lê Văn Nam.
Công an Hà Nội đã điều động 12 xe chữa cháy, 87 CBCS; các tỉnh Hà
Bắc, Hà Tây, Hải Hưng và Trường Cảnh sát PCCC điều động thêm 8 xe
chữa cháy, hàng trăm chiến sĩ đến hỗ trợ; hàng trăm cán bộ của Tổng kho
cũng được huy động vào công tác chữa cháy. Trong điều kiện ta chưa có
bọt chữa cháy, các chiến sĩ phải dùng áp lực nước từ lăng A dập ngọn lửa
từ trong các bể xăng phun ra, đồng thời phun nước làm lạnh các bể xăng
lân cận, phân tán các phi xăng khỏi khu vực nguy hiểm. Lực lượng tham
20
- Xem thêm -