Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngành thuỷ sản trong chiến lược hướng về xuất khẩu...

Tài liệu Ngành thuỷ sản trong chiến lược hướng về xuất khẩu

.PDF
32
85
80

Mô tả:

Đề án: "ngành thuỷ sản trong chiến lược hướng về xuất khẩu " MỤOC LỤC Trang Mở đầu 2 Phần 1: Vị trí của ngành thuỷ sản trong chiến lược hướng về xuất khẩu 1.1 Khái quát về ngành thuỷ sản . 4 1.1.1 Lợi thế để phát triển ngành thuỷ sản 5 1.1.2 Những thách thức của ngành thuỷ sản Việt nam 7 1.2 Chủ trương phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu 7 1.3 Thị trường thuỷ sản quốc tế và những cơ hội cho xuất khẩu 10 thuỷ sản Việt nam 1.3.1 Thị trường thuỷ sản thế giới 11 1.3.2 Mỹ-thị trường thuỷ sản đầy tiềm năng 12 1.3.3 Hiệp định thươnh mại Việt-Mỹ 13 1.3.3.1 Những cơ hội chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu của 13 Việt nam 1.3.3.2 Thách thức 14 Phần 2: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua 2.1 Tình hình sản xuất nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản của Việt nam 16 2.2. Tình hình xuất khẩu chung của thuỷ sản Việt nam 16 2.3 Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang thị trường Mỹ 18 2.4 Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt 20 nam sang thị trường Mỹ Phần 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang thị trường Mỹ 3.1 Dự báo khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang thị trường Mỹ trong những năm tới 3.2 Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang thị trường Mỹ 3.2.1 Giải pháp mang tầm vĩ mô 3.2.2 Giải pháp cấp doanh nghiệp . 1 24 24 24 25 Kết luận 28 MỞ ĐẦU Trong 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển nền kinh tế- xã hội 1991-2010, nông nghiệp nước ta có những đóng góp quan trọng vào những thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới, là nền tảng vững chắc cho sự ổn định để phát triển của những năm tiếp theo, trong đó đặc biệt phải kể đến những thành tựu nổi bật về xuất khẩu thuỷ sản. Với phương châm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, 10 năm qua xuất khẩu thuỷ sản nước ta đã có những chuyển biến tích cực, cho đến nay các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng, cũng như tỷ trọng khá cao trong cơ cấu xuất khẩu của Việt nam , kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản chiếm khoảng 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và là một trong những nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của nước ta. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn đang ở giai đoạn đầu của q0uá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá giá trị xuất khẩu hàng hoá công nghiệp còn thấp thì việc không ngừng tăng nhanh giá trị xuất khẩu hàng hoá thuỷ sản có ý nghĩa quan trọng không chỉ với hiện tại mà cho cả tương lai. Hàng thuỷ sản Việt nam hiện đã có mặt trên 60 quốc gia và Mỹ là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt nam trong lĩnh vực này. Mỹ là một quốc gia nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới với giá trị nhập 10 tỷ USD bình quân mỗi năm. Do đó, Mỹ là một thị trường luôn sôi động và hấp dẫn cả về nhu cầu, số lượng, chủng loại, chất lượng và giá cả thu hút trên 130 nước xuất khẩu. Trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong những năm qua, Việt nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên thực trạng của ngành thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ vẫn đang gặp những khó khăn, thách thức. Giải pháp nào để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là một câu hỏi lớn và hóc búa đối với ngành thuỷ sản Việt nam . Đề án này nhằm cung cấp một số thông tin về tình hình sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản của nước ta và các phương hướng, biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ . Nội dung của đề tài bao gồm: Phần 1: Vị trí của ngành thuỷ sản trong chiến lược hướng về xuất khẩu . 2 Phần 2: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua. Phần 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang thị trường Mỹ. Qua đây em xin cảm ơn thầy giáo Mai Xuân Được đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. 3 PHẦN 1 : VỊ TRÍ CỦA NGÀNH THUỶ SẢN TRONG CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU 1.1 Khái quát về ngành thuỷ sản . Thuỷ sản là một trong những ngành sản xuất kinh doanh , một ngành hoạt động kinh tế nằm trong tổng thể kinh tế –xã hội của loài người .Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại , không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân đặc biệt là ở vùng nông thôn và vùng ven biển. Nhu cầu thuỷ sản cho nhân loại ngày càng tăng trong khi nguồn lợi của các tài nguyên này lại có giới hạn và đã bị khai thác tới trần , vì vậy ngành nuôi trồng thuỷ sản phát triển để bù đắp vào những thiếu hụt đó . Ngày nay nuôi trồng thuỷ sản đã cung cấp được khoảng 27% tổng 0sản lượng thuỷ sản thế giới , nhưng chiếm tới gần 30% sản lượng dùng làm thực phẩm . Đối tượng nuôi trồng rất phong phú gồm đủ các chủng loại : cá, nhuyễn thể giáp xát , rong tảo và một số loài khác . Nuôi trồng thuỷ sản có quy mô rất khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước : từ quy mô nhỏ gia đình gắn liền với hệ thống canh tác tổng hợp đến những trang trại nuôi chuyên công nghiệp hoá có quy mô lớn . Cùng với việc gia tăng sản xuất , thương mại thuỷ sản toàn cầu cũng phát triển một cách nhanh chóng đặc biệt là các hàng hoá thuỷ sản sống và tươi đang tăng nhanh . Sự bùng nổ dân số thế giới cộng với hậu quả của quá trình công nghiệp hoá , đô thị hoá ngày càng làm thu hẹp đất canh tác trong nông nghiệp cộng thêm sự diễn biến bất lợi của thiên nhiên …sẽ làm cho lương thực thực phẩm là mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới .Trong điều kiện đó sản phẩm thuỷ sản ngày càng chiếm vị trí quan trọng vì vậy phát triển sản xuất thuỷ sản ở những nơi có điều kiện không còn đơn thuần là sự đòi hỏi cấp bách và lâu dài cho việc giải quyết thực phẩm tại chỗ , giải quyết công ăn việc làm mà ngành sản xuất này đang và đầy hứa hẹn có thể trở thành ngành kinh doanh có lãi suất cao với xu hướng ổn định lâu dài trên thị trường quốc tế . Đó là tiền đề quan trọng bậc nhất của sản xuất kinh doanh thuỷ sản và tiếp tục là một trong những xuất phát điểm quan trọng cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta . 4 1.1.1 Lợi thế để phát triển ngành thuỷ sản . Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề phát triển ngành thuỷ sản, coi ngành thuỷ sản là mũi nhọn, coi công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn là bước đi ban đầu quan trọng nhất, coi chuyển một bộ phận diện tích đất đai đang canh tác nông nghiệp và muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản là hướng đi chủ yếu của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn (nghị định 09 NQ-CP ngày 15-06-2000 ) và có những chương trình, chính sách hỗ trợ rất lớn cho công việc chuyển đổi và phát triển ngành thuỷ sản trên toàn quốc . Ngành thuỷ sản đã có một thời khá dài chuyển sang cơ chế kinh tế mới (khoảng 20 năm) của nền kinh tế hướng theo thị trường có sự quản lý của nhà nước, đã tạo được một nguồn nhân lực khá dồi dào trong tất cả mọi lĩnh vực từ khai thác chế biến, nuôi trồng đến thương mại. Trình độ nghiên cứu và áp dụng thực tiễn cũng đã tăng đáng kể. Hàng thuỷ sản liên tục giữ thế gia tăng và ổn định trên thị trường thực phẩm thế giới. Viêt Nam có bờ biển dài 3260 km với 112 cửa sông rạch và 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo vịnh và đầm phá, đảm bảo cho nguồn tài nguyên thuỷ hải sản rất phong phú. Các vùng biển Việt nam có năng lực tái sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới và môi trường biển còn tương đối sạch do đó hải sản được đánh giá là an toàn cho sức khoẻ – một ưu điểm hàng đầu trên thị trường thuỷ sản thế giới hiện nay. Trong vùng biển độc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2, tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh giá khoảng 4 triệu tấn, trong đó lượng thuỷ sản ở tầng nổi chiếm 62,7% nà tầng đáy chiếm 37,3% đảm bảo cho khả năng khai thác 1.4 đến 1.6 triệu tấn thuỷ sản các loại hàng năm trong đó có nhiều loại hải sản quý có giá trị kinh tế cao như : tôm hùm, cá ngừ sò huyết…Với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản Việt nam rất dồi dào, khoảng 1,5 triệu tấn mỗi năm . Nhìn chung có thể phát triền thuỷ sản khắp các nơi trên toàn đất nước, ở mỗi vùng có những tiềm năng đặc thù và sản vật đặc sắc riêng. Tuy nhiên , Việt nam có một số vùng sinh thái đất thấp, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long và châu thổ sông Hồng, nơi có thể đưa nước mặn vào rất sâu tạo ra một vùng nuôi nước lợ hoặc nuôi trồng thuỷ hải sản kết hợp với trồng lúa và các hợp đồng canh tác 5 nông nghiệp khác rộng lớn gần 1 triệu ha. Trong hệ sinh thái này có thể tiến hành các hợp đồng nuôi trồng thuỷ hải sản vừa có chất lượng cao vừa có giá thành hạ mà các hệ thống canh tác khác không thể có những lợi thế cạnh tranh đó được. Lợi thế này đặc biệt phát huy thế mạnh trong cạnh tranh với hệ thống nuôi trồng công nghiệp khi giá cả thuỷ sản trên thị trường thế giới ở mức thấp nhất là mặt hàng tôm. Việt nam chưa phát triển nuôi trồng thuỷ sản công nghiệp nên còn nhiều tiềm năng đất đai để phát triển nuôi mà không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên các vùng cát ven biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho việc phát triển vùng nuôi tôm và các hải sản khác theo phương thức nuôi công nghiệp. Việt nam có nhiều lao động và nguồn nhân lực còn ít được đào tạo, sẽ thích hợp cho những lợi thế khởi điểm mang tính tĩnh khi dùng loại lao động này trong lĩnh vực phát triển nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Chính nhờ những lợi thế trên mà ngành thuỷ sản Việt nam trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn và thế mạnh của kinh tế nước ta. Trong những năm qua ngành thuỷ sản đã đạt được tốc độ phát triển cao, ổn định và mức tăng tổng sản lượng thuỷ sản bình quân hàng năm trên 4% , giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân chiếm 10% đến 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam hàng năm. Năm 1999 tổ chức lưong thực thế giới đã xếp Việt nam vào vị trí thứ 29 trên thế giới và thứ 4 trong các nước ASEAN sau Thái Lan, Inđônêsia, Malaysia về đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Xuất khẩu thuỷ sản không ngừng tăng lên từ năm 1990 đến nay. Mặt khác cơ cấu sản phẩm xuất khẩu rất phong phú: mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam là tôm các loại như: tôm hùm, tôm càng xanh, tôm sú, tôm bạc có giá trị xuất khẩu cao và chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu, mực và cá chiếm 17% và 15,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo báo của tổng cục hải quan năm 1998, mặt hàng thuỷ sản Việt nam đã có mặt trên 34 nước trên thế giới với tổng kim ngạch 856,6 triệu USD. Thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt nam là các nước Châu âu, 13 nước Châu á và Mỹ, trong đó Mỹ đang là thị trường mục tiêu mà chúng ta hướng vào nhất là sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ được thông qua, cơ 6 hội cho các ngành xuất khẩu của Việt nam đưa hàng vào thị trường Mỹ trong đó có thuỷ sản ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên Việt nam không phải là đối tác duy nhất của Mỹ, xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ có nhiều đối thủ cạnh tranh với ta như: Indonesia, Canada, Trung Quốc…thị phần thuỷ sản Việt nam trên thị trường Mỹ còn rất khiêm tốn. Đó là một đòi hỏi, thách thức rất lớn đối với nhà hoạch định chiến lược của Việt nam. 1.1.2 Những thách thức của ngành thuỷ sản Việt nam Để phát triển ngành thuỷ sản một cách bền vững và có hiệu quả cao chúng ta cần phải nhận thức rõ những thách thức đang đặt ra, đó là: Quá dư thừa lao động ở các vùng ven biển, nguồn nhân lực còn ít được đào tạo, cuộc sống vật chất thiếu thốn là sức ép rất lớn cả về kinh tế xã hội và môi trường sinh thái đối với nghề khai thác hải sản . Cơ sở hạ tầng yếu, chưa đồng bộ với trình độ công nghệ lạc hậu trong khai thác, nuôi trồng, chế biến dẫn đến năng suất và hiệu quả kinh tế thấp . Công nghệ sản xuất thuỷ sản của Việt nam nhìn chung còn rất lạc hậu so với đối thủ cạnh tranh . Những đòi hỏi rất cao và ngày càng chặt chẽ về yêu cầu vệ sinh và chất lượng sản phẩm thuỷ sản của các nước nhập khẩu . Sự hội nhập quốc tế với sự rỡ bỏ hàng rào thuế quan, sự gia tăng dần vị thế của thuỷ sản Việt nam trên trường quốc tế sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt, với nhiều phương thức khác nhau trên thị trường thế giới và ngay cả trên thị trường Việt nam . Môi trường cho phát triển thuỷ sản là môi trường hết sức linh hoạt và nhạy cảm. Việc phát triển khai thác và nuôi trồng thuỷ sản không theo quy hoạch, không chú ý bảo đảm các điều kiện an toàn sinh thái và an toàn vệ sinh thức phẩm sẽ dẫn đến nhiều hậu quả rất nghiêm trọng có tính chất lâu dài về môi trường, thị trường và xã hội . 1.2 Chủ trương phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu Quán triệt đường lối phát triển kinh tế -xã hội của Đảng trên tinh thần tiếp tục đẩy nhanh công cuộc đổi mới của đất nước, để góp phần thực hiện được các mục 7 tiêu kinh tế –xã hội đề ra, đảm bảo cho ngành thuỷ sản hội nhập được với kinh tế khu vực và thế giới, ý thức được yêu cầu gắn kết giữa phát triển sản xuất đa dạng với bảo vệ chủ quyền vùng biển và an ninh quốc phòng ngành thuỷ sản Việt nam đã lấy xuất khẩu làm động lực phát triển , coi xuất khẩu là hướng phát triển mũi nhọn và ưu tiên số một, lấy các thị trường các nước có nền kinh tế phát triển cao (Bắc Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc và Mỹ ) là các thị trường chính. Chủ trương này được thể hiện cụ thể trong các vấn đề sau: - Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thuỷ sản vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội đất nước bằng việc tằng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoại tệ và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. - Đưa ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế được công nghiệp hoá và hiện đại hoá có luận cứ khoa học chắc chắn cho phát triển thuỷ sản và áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại tiên tiến và thích hợp, nhằm không những tạo ra hiệu quả kinh tế cao, phát triển những lợi thế so sánh mà còn góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. - Xây dựng một ngành thuỷ sản được quản lý tốt nhằm đạt được sự phát triển ổn định, bền vững cho hiện nay và trong tương lai. Nguồn lợi hải sản tự nhiên của Việt nam đã bị khai thác quá mức đối với vùng ven biển và gần bờ, phần gia tăng sản lượng khai thác chỉ có thể trông cậy vào việc khai thác xa bờ, nhưng sự khai thác này cũng chỉ có giới hạn do tính hiệu quả không cao. Do vậy phương án được lựa chọn là chỉ giữ sản lượng khai thác của nước ta ổn định ở mức 1.200.000 ÷ 1.400.000 tấn, với việc giảm sản lượng khai thác vùng ven biển và gần bờ đồng thời tăng dần sản lượng khai thác ở các vùng biển xa bờ để bù đắp số sản lượng bị suy giảm do hạn chế dần việc khai thác gần bờ. Nuôi trồng thuỷ sản sẽ trở thành ngành sản xuất nguyên liệu chủ yếu và sản lượng của ngành nuôi trồng phải vươn lên chiếm khoảng 60% tổng sản lượng thuỷ hải sản trong tương lai. Những chỉ tiêu định hướng của ngành thuỷ sản đến năm 2010 được hoạch định như sau: 8 Không tăng sản lượng khai thác trong các thời kỳ 2003- 2010, giữ mức dao động xung quanh 1.400.000 tấn/ năm( ở đây chỉ tính riêng cho cá mực). Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thuỷ sản từ 10%-15%. Kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng 10%-15%/ năm , trong giai đoạn 2000 – 2005 tăng khoảng 12%-15%, giai đoạn 2005-2010 tăng khoảng 10%-12%/năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 3,0-3,5 tỷ USD( năm 2005) và 4,5 –5 tỷ USD năm 2010. Thể hiện ở bảng 1: Bảng 1 Năm 2003 2005 2010 Đề mục I.Tổng sản lượng (tấn) Trong đó: 1. Sản lượng nuôi ( tấn) - Thuỷ sản nước ngọt - Tôm - Cá biển - Nhuyễn thể - Thuỷ sản khác 2. sản lượng khai thác( tấn) - Khai thác gần bờ. - Khai thác xa bờ. Bao gồm: - Sản lượng cá. - Sản lượng mực. - Sản lượng tôm II. Kim ngạch xuất khẩu( nghìn USD) 2.490.000 2.550.000 3.400.000 1.090.000 568.720 213.270 53.057 175.355 79.598 1.400.000 700.000 700.000 1.150.000 600.000 225.000 56.000 185.000 84.000 1.400.000 700.000 700.000 2.000.000 870.000 420.000 200.000 380.000 130.000 1.400.000 700.000 700.000 1.230.000 120.000 50.000 2.300 1.230.000 120.000 50.000 3.000 1.230.000 120.000 50.000 4.500 Để duy trì và phát triển ngày càng nhiều sản phẩm từ thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao cho các thị trường trong nước và quốc tế, chống lại sự giảm sút của nguồn lợi biển tăng khả năg phục hồi tự nhiên của các nguồn lợi biển nhưng vẫn 9 duy trì được tốc độ phát triển cao, phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu cần tiến hành các hoạt động sau: - Đánh bắt thuỷ sản: để phát triển lâu dài và ổn định nguồn nguyên liệu đánh bắt, Việt nam cần tăng cường đầu tư vào điều tra có hệ thống các nguồn lợi thuỷ sản, xây dựng bản đồ phân bố biến động các đàn cá trên các ngư trùng, phát triển các đội tàu công suất lớn, trnag thiết bị và đào tạo kx thuật đánh bắt cá đại dương làm cơ sở cho đánh xa bờ, kỹ thuật bảo quản, mở rộng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho đánh bắt. - Nuôi trồng thuỷ sản:phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản nước lợ với việc ưu tiên chiến lược cho nuôi phục vụ xuất khẩu, nhất là nuôi tôm, cá biển và nhuyễn thể. áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, tăng giá trị xuất khẩu. Cần chú ý xây ựng các trại giống thuỷ sản,nhà máy sản xuất thức ăn, cải tạo và hiện đại hoá các vùng nuôi trồng quảng canh và bán thâm canh, phát triển cacs vùng nuôi trồng công nghiệp, phát triển công nghệ và đa dạng hoá nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước mặn , nước lợ, phòng chống sẽ là những trọng điểm mà ngành thuỷ sản cần quan tâm trong vài năm tới. - Chế biến thuỷ sản xuất khẩu: Đa dạng hoá các mặt hàng chế biến cho xuất khẩu, đồng thời phải đầu tư cho chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn quốc tế (HACCP). Việc xây dựng các nhà máy chế biến hiện đại phải theo kịp tốc độ phát triển sản lượng thuỷ sản nhằm nâng cao giá trị hàng hoá xuất khẩu, phải giảm dần tỷ lệ xuất khẩu thuỷ sản thô tránh hiện tượng lãng phí nguồn lợi thuỷ sản do yếu kém trong khâu này. - Mở rộng thị trường xuất khẩu: Việt nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tranh thủ sự hợp tác giup đỡ về vốn, công nghệ, trong các lĩnh vực khai thác, chế biến thuỷ sản,đào tạo và chuyển giao kinh nghiệm quản lý và phát triển thị trường … Công tác Marketing quốc tế cho lĩnh vực thuỷ sản luôn càn có sự tham gia tích cực của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ thương mại …như tổ chức và tham gia các hội chợ thương mại về thuỷ sản tại Việt nam hay tại các thị trường tiềm năng (EU, Mỹ, Nhật bản, Trung Quốc…) nhằm giới thiệu các sản phẩm thuỷ sản Việt nam. 10 - Các chính sách của Chính phủ: Chính phủ cần sớm hoàn thiện các luật và chính sách bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ môi trường và phát triển lĩnh vực thuỷ sản; các chính sách hỗ trợ đầu tư, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng, bảo hiểm xuất khẩu… Với lợi thế tự nhiên to lớn và sự quan tâm của chính phủ cùng sự năng động chung của toàn bộ nền kinh tế, ngành thuỷ sản Việt nam có đủ khả năng để đứng trong hàng ngũ 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới vào năm 2010. 1.3 Thị trường thuỷ sản quốc tế và những cơ hội cho xuất khẩu thuỷ sản Việt nam 1.3.1 Thị trường thuỷ sản thế giới . Trong những năm gần đây khác với thị trường nhiều loại hàng thực phẩm trì trệ hay chậm phát triển, thị trường thuỷ sản thế giới khá năng động. Điều này một phần liên quan đến đặc điểm về tính chất quốc tế của hàng thuỷ sản, phần khác là do tương quan cung- cầu về thuỷ sản trên thế giới chưa cân đối gây ra. Dù sao thị trường thuỷ sản thế giới vô cùng đa dạng, phong phú với hàng trăm dạng sản phẩm được trao đổi mua bán trên nhiều thị trường trong nước và khu vực khác nhau . Do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino và La Nina sau khi tăng nhẹ 1,8% vào năm 1997, tổng sản lượng thuỷ sản thế giới đã giảm liên tiếp trong hai năm 1998 và 1999 . Năm 1999 sản lượng đánh bắt thuỷ sản đạt 91 triệu tấn và sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 31 triệu tấn. Trong khi sản lượng đánh bắt giảm sút liên tục thì khu vực nuôi trồng có những bước tăng trưởng khá cao, khoảng 75%/năm trong mười năm qua. Những nước đứng đầu về sản lượng đánh bắt thuỷ sản là Trung Quốc, Pê Ru, Nhật Bản, Mỹ, Nga, ChiLê, Indonesia, Thái Lan, Ân Độ , AiLen, Na Uy, Hàn Quốc, chiếm hơn một nửa tổng sản lượng thế giới. Trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản,Trung Quốc chiếm hơn 70% tổng sản lượng nhưng chỉ 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, Nhật bản chỉ chiếm 3,7% tổng sản lượng thế giới nhưng đạt gần 10% tổng kim ngạch trao đổi thuỷ sản nuôi trồng nhờ những sản phẩm có giá trị kinh tế rất cao như : ngọc trai, cá ngừ… 11 Thị trường trao đổi thuỷ sản thế giới rất rộng lớn bao gồm 195 nước xuất khẩu và 180 quốc gia nhập khẩu thuỷ sản trong đó nhiều quốc gia vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu thuỷ sản như Mỹ, Pháp, Anh... Hiện nay Thái Lan là nhà xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu hơn 4 tỷ USD, tương đương 8% tổng kim ngạch thế giới. Sau đó là Mỹ,Nauy ,Trung Quốc, Pêru, Đài Loan… Trong nhập khẩu thuỷ sản thế giới các nước phát triển chiếm tỷ lệ áp đảo (85% -90%) nhập khẩu toàn thế giới trong 10 năm nay. Nhập khẩu thuỷ sản của các nước đang phát triển chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây. Nước truyền thồng nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất trên thế giới là Nhật Bản (chiếm 35,9%), tăng từ 4,7 tỷ USD năm 1985 lên 17,8 tỷ USD năm 1995. Thứ hai là Hoa Kỳ với mức nhập khẩu tăng từ 4 tỷ USD năm1985 lên 7,14 tỷ USD năm 1995 (chiếm khoảng 16% nhập khẩu của thế giới ). Các nước phát triển Tây Âu ( đặc biệt là các nước thuộc liên minh Châu Âu). Chiếm tỷ trọng nhập khẩu là 35,1%, nhập khẩu tăng từ 6,4 tỷ USD năm 1985 lên 18,9 tỷ USD năm 1995. Từ đầu những năm1990, trong số 15nước nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay, người ta thấy có tên của các nước đang phát triển như Hồng Kông, Thái Lan, Trung Quốc. Từ năm 1995 đến nay, tiêu thụ thuỷ sản của mỗi gia đình Trung Quốc tăng lên gấp 3,5 lần. Hơn thế nữa Trung Quốc được coi là thị trường dễ tính, thị trường này chấp nhận tiêu thụ cả những sản phẩm xuất khẩu đi EU bị trả lại do bao bì hư. Có thể nói đây là một thuận lợi căn bản cho những doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam . 1.3.2 Mỹ- thị trường thuỷ sản đầy tiềm năng. Mỹ là một cường quốc hàng đầu thế giới về cả kinh tế, khoa học- công nghệ, quân sự. Khả năng xuất nhập khẩu của Mỹ hiện đã lên tới trên 1000 tỷ USD, mỗi năm chiếm khoảng 1/4 kim ngạch xuất nhập khẩu. Mỹ có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường thế giới, đến các tổ chức kinh tế như : AFTA, APEC, WTO…vì vậy mở rộng kinh quan hệ kinh tế – thương mại với Mỹ Việt nam không những có thể tiếp cận nhanh chóng một nền kinh tế lớn nhất hành tinh, có thị trường rộng lớn, đa dạng và có trình độ khao học – công nghệ tiên tiến, mà còn giúp 12 Việt nam tiếp cận được với thị trường khu vực và thế giới, tiếp cận với các tổ chức thưong mại và các tổ chức tài chính thế giới, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu, ổn định nền kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để xuất khẩu được nhiều hàng hoá sang thị trường Mỹ chính phủ và các doanh nghiệp Việt nam phải tích cực và chủ động khai thác mọi cơ hội đồng thời đấu tranh vượt qua những thách thức, trở ngại để hàng hoá Việt nam đặc biệt là hàng thuỷ sản có chỗ đứng xứng đáng trong thị trường đầy tiềm năng này . Hiện nay, với dân số khoảng hơn 270 triệu người, tổng sản phẩm quốc nội lên tới 10000 tỷ USD / năm, trong đó 80% được dành cho tiêu dùng. Mỹ là một nước có nền kinh tế mạnh nhất, là thị trường có sức mua lớn nhất, hàng năm Mỹ tiêu thụ hàng triệu tấn thuỷ sản các loại. Theo số liệu của viện nghề cá quốc gia Hoa Kỳ (NFI) mức tiêu thụ thuỷ sản thực phẩm bình quân của người Mỹ năm 2000 đã đạt 7,02 kg. Bởi vậy, mặc dù là nước có tiềm năng về thuỷ sản (Là một trong 10 nước có sản lượng thuỷ sản cao nhất thế giới ), hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng thuỷ sản. Năm 2000 giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ đã đạt con số kỷ lục là 19 tỷ USD. Bên cạnh đó, nước Mỹ có thành phần xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Hầu hết người Mỹ có nguồn gốc từ Châu Âu, các dân tộc thiểu số gồm người Mỹ bản xứ, Mỹ la tinh, Châu á và người từ các đảo Thái Bình Dương. Các dân tộc này đã đưa vào nước Mỹ các phong tục tập quán, ngôn ngữ, đức tin riêng của họ. Điều này tạo nên một môi trường văn hóa phong phú và đa dạng, một quốc gia đa sắc tộc. Đặc điểm này đã đem lại cho Mỹ tính đa dạng trong tiêu dùng rất cao. Với những mức thu nhập khác nhau, người tiêu dùng Mỹ có sở thích mua tất cả các loại sản phẩm từ đá tiền đến rẻ tiền từ khắp nơi trên thế giới. Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là số lượng Việt kiều tại Mỹ là rất đông, đây có thể sẽ là một gợi ý rất quan trọng cho các doanh nghiệp Việt nam thâm nhập thị trường Mỹ. Hơn nữa, để bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản, Mỹ chủ trương tăng nhập giảm xuất và xu hướng này vẫn tiếp tục kéo dài trong những năm tới đây. 13 Chính vì lẽ đó Mỹ là một thị trường thuỷ sản rất hấp dẫn đối với các nước xuất khẩu. 1.3.3 Hiệp định thương mại Việt-Mỹ Hiện nay,Việt nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, việc ký kết và thực thi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ đem lại cho Việt nam những cơ hội và thách thức. Điều đó, đòi hỏi chính phủ mà đặc biệt là các nhà kinh doanh Việt nam phải tính tới và xây dựng cho được lộ trình, bước đi thích hợp để đưa hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay gắt. 1.3.3.1 Những cơ hội chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt nam Thứ nhất, khi hiệp định thực thi có hiệu lực, Việt nam sẽ được hưởng ưu đãi thương mại, có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng thị trường. Chúng ta đều biết Mỹ là một thị trường hấp dẫn đối với nhiều quốc gia, thu hút sự qua tâm của nhiều nhà xuất khẩu. Trước thời điểm Hiệp định thương mại chưa được ký kết, doanh nghiệp Việt nam và hàng hoá Việt nam xâm nhập thị trường Mỹ rất khó khăn, phải cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp của các nước khác cùng có mặt tại thị trường Mỹ, đặc biệt là hàng hoá Việt nam phải chịu mức thuế rất cao. Khi Hiệp định có hiệu lực, các trở ngại trên bị rỡ bỏ,các doanh nghiệp Việt nam được bình đẳng với các doanh nghiệp khác khi tiếp cận thị trường Mỹ bởi lẽ Việt nam có được đối xử Tối huệ quốc (được hưởng điều kiện thương mại bình thường) từ phía Mỹ trong đó quan trọng là các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được cắt giảm đáng kể . Thứ hai, tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cao từ Mỹ và các nước tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng xuất lao động hạ giá thành sản phẩm. Nhiều nước và trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật, Singapo, Thái Lan…sẽ tăng cường đầu tư vào Việt nam vì hàng hóa sản xuất tại Việt nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Bản thân các nhà đầu tư Mỹ cũng sẽ vào Việt nam nhiều hơn để sử dụng những lợi thế ở thị trường này sản xuất ra hàng hoá rồi xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ và các nước khác. Thứ ba, tạo điều kiện tiền đề cho Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế và gia nhập WTO. Việc Việt nam tham gia vào ASEAN, APEC và đặc biệt là hiệp 14 định thương mại có những điểm khá tương đồng về mục tiêu, nguyên tắc và lộ trình. Đó là sự thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia với nguyên tắc: thương mại không phân biệt đối xử dưới hai hình thức đãi ngộ Tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, thương mại tự do hơn, tăng cường cạnh tranh bình đẳng, công bằng khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế . Thứ tư, thúc đẩy quá trình đổi mới đất nước đặc biệt là đổi mới cơ chế và hành chính. Chính việc thực hiện các cam kết và mở cửa thị trường Việt nam theo lộ trình của Hiệp định đã ký sẽ là chất xúc tác thúc đẩy quá trình điều chỉnh, đổi mới cơ chế chính sách, luật pháp và thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước làm cho các hoạt động này trở nên năng động, mềm dẻo hơn thích ứng với thông lệ và tập quán quốc tế, cũng như các nguyên tắc, quy định của Mỹ. 1.3.3.2 Thách thức Bên cạnh những cơ hội mà hiệp định thương mại Việt- Mỹ mở ra, nó còn đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thứ nhất, việc được hưởng quy chế MFN chưa phải là điểm quyết định để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng thuỷ sản Việt nam, vì Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viên WTO, ngoài ra còn có ưu đãi đặc biệt đối với các nước chậm phát triển nhưng Việt nam chưa được hưởng chế độ này. Mức thuế trung bình là 5%, nhưng nếu được hưởng ưu đãi thì mức thuế này tiến tới 0%. Thứ hai, tiêu chuẩn chất lượng các mặt hàng Việt nam xuất vào các nước công nghiệp phát triển đều phải đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO hoặc tiêu chuẩn tương đương của các nước Đức ,Nhật, Hoa Kỳ, đây là một khó khăn lớn đối với các mặt hàng thuỷ sản Việt nam không những thế hàng hoá Việt nam sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa cùng loại của các nước Châu á khác, đặc biệt là Indonesia và Canada, trong khi đó sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam về cả ba phương diện: chất lượng, giá cả và mẫu mã hầu như còn rất yếu. Thứ ba, khi thực hiện NTR (quan hệ thương mại bình thường), các doanh nghiệp Mỹ sẽ thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt nam, được hưởng các ưu đãi về 15 nhập khẩu những nguyên liệu để sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu. Khi đó các doanh nghiệp Mỹ và hàng hoá do Mỹ sản xuất ra sẽ có ưu thế hơn các doanh nghiệp Việt nam và hàng hoá do Việt nam sản xuất ra bởi Mỹ có vốn lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến... Thứ tư, để doanh nghiệp và hàng hoá Việt nam vào được thị trường Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt nam phải làm quen với các tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ, phải tìm hiểu và nắm vững luật pháp, chính sách ngoại thương của Mỹ. Đây là một quốc gia có hệ thống pháp luật, chích sách thương mại khá rắc rối và phức tạp . PHẦN 2 : THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ TRONG THỜI GIAN QUA 2.1 Tình hình sản xuất nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản của Việt nam Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê và Bộ thuỷ sản,sản lượng thuỷ sản đánh bắt của Việt nam không ngừng tăng qua các năm. Sản lượng đánh bắt tăng từ 576.860 tấn ( năm 1985) lên 928.800 tấn ( năm 1995) và đạt 1,2 triệu tấn ( năm 2000). Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng từ 231.200 (năm 1985) lên 310.000 tấn ( năm 1995) và 723.110 tấn (năm 2000). Như vậy, tổng sản lượng thuỷ sản của nước ta tăng từ 808.100 tấn ( năm 1985) lên 1,3 triệu tấn ( năm 1995) và 2 triệu tấn (năm 2000). Xu hướng tăng sản lượng thuỷ hải sản của Việt nam thời gian qua phù hợp vỡi xu hướng tăng 16 chung của các nước phát triển trong khu vực và thế giới . Đặc biệt là tốc độ tăng sản lượng thuỷ sản giữa đánh bắt và nuôi trồng là khá cân đối (5,5% & 6%) . Ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản của nước ta đã có bước phát triển nhanh về số lượng nhà máy chế biến cũng như là công suất chế biến thuỷ sản. Nếu như năm 1986 công suất chế biến là 210 tấn thành phẩm / ngày thì 10 năm sau đã tăng lên khoảng 800 tấn thành phẩm/ ngày. Nhưng cũng theo Bộ thuỷ sản, gần 80% nhà máy chế biến xuất khẩu đã hoạt động trên 10 năm trang thiết bị đến nay đã quá lạc hậu, lại thiếu đồng bộ nên chưa đảm bảo được các yêu cầu về số lượng và sản phẩm chế biến . Về đầu tư đánh bắt hải sản và nuôi trồng thuỷ sản: từ năm 1986 đến năm 1999 số lượng tầu thuyền tăng hơn hai lần, nhưng tổng công suất tăng lên ba lần. Thực hiện chương trình khai thác xa bờ, nhà nước đã đầu tư 900 tỷ đồng từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi. Các địa phương đã triển khai 615 dự án, đóng mới 769 tầu, cải hoàn 132 tầu công suất 90 CV. Đến nay số vốn được giải ngân là 614,232 tỷ đồng, đạt 68,24% so với tổng nguồn vốn và 450 tầu đi vào sản xuất và đánh bắt hải sản xa bờ. 2.2 Tình hình xuất khẩu chung của thuỷ sản Việt nam. Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1996-2002 liên tục gia tăng qua các năm. Điều đó được thể hiện ở bảng 2 . Bảng 2: xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam 1996-2002. Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Kim ngạch xuất khẩu Tốc độ tăng (%) (triệu USD) 696,50 782,00 858,00 985,73 1478,60 1800,00 100,00 112,28 109,72 111,74 150,00 122,00 17 2002 2100,00 116,67 ( Nguồn Bộ thuỷ sản ) Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu thời kỳ 1996-2001 được thể hiện ở bảng 3 Bảng 3: các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu (1996-2001) Đơn vị tính: 1000 tấn Năm Cá đông lạnh Mực đông lạnh Tôm đông lạnh Mực khô Thuỷ sản khác 1996 1997 1998 1999 2001 29,70 81,00 69,70 89,90 127,85 20,2 40,0 60,8 73,9 89,7 51,1 68,2 431,7 225,6 301,5 5,9 6,4 9,4 11,6 19,8 15,2 41,4 59,8 83,6 117,4 ( Nguồn Bộ thuỷ sản ) Nhìn vào biểu trên ta thấy, sản lượng xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản liên tục tăng qua các năm, trong đó mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam là tôm các loại (như tôm hùm, tôm càng xanh, tôm sú, tôm bạc có giá trị xuất khẩu rất cao và chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu) và cá đông lạnh, tiếp đến là các mặt hàng thuỷ sản khác, mực đông lạnh và thấp nhất là mực khô . Thị trường xuất khẩu thuỷ sản đã có sự mở rộng, các đơn vị xuất khẩu đã có quan hệ với trên 24 nước trên thế giới. Trong những năm gần đây Việt nam đã cố gắng mở rộng thị trường sang Châu Âu, Mỹ, Nhật… Nhật Bản, thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới, là thị trường số một của ngành thuỷ sản Việt nam. Xuất khẩu thuỷ sản Việt nam sang Nhật trong năm 2002 đã tăng hơn 40% so với năm 2001, đưa thị phần xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật bản chiếm 45% tổng kim ngạch. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường Châ á khác như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan cũng tăng nhanh và chiếm 21% thị phần xuất khẩu, trong đó Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ ba trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam với kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này năm 2001 đạt gần 30 triệu USD. Đây là khu vực thị trường rất có tiềm năng cho xuất khẩu thuỷ sản của ta trong thời 18 gian tới một thị trường có mức tiêu thụ thuỷ sản khoảng 24kg/người/năm. Trung Quốc đang nhập khẩu rất nhiều mặt hàng của Việt nam như: mực khô cá muối các loại, mực đông lạnh, cua, lươn, tôm, bạch tuộc. Việt nam chính thức xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU từ năm 1997. Hiện nay, thị trường EU là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn của Việt nam, chiếm khoảng 15% xuất khẩu thuỷ sản của cả nước , kim ngạch đạt 89 triệu USD năm 1999 và tăng lên 91 triệu năm 2001. 2.3 Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt nam vào thị trường Mỹ Bắt đầu từ năm 1994, sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam, những lô hàng thuỷ sản Việt nam đầu tiên đã có mặt trên thị trường Mỹ. Từ đó trở đi cho đến tháng 7-2000, mặc dù chưa ký được Hiệp định thương mại Việt-Mỹ nhưng giá trị xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt nam vẫn tăng đều đặn và tăng đột biến vào những năm 2000 và 2001, Mỹ đã vượt Nhật và trở thành nước nhập khẩu hàng thuỷ sản lớn nhất của Việt nam ( bảng 4) . Bảng 4: Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam vào thị trường Mỹ Đơn vị tính : triệu USD Năm Kim ngạch xuất khẩu Tốc độ tăng trưởng Kim ngạch xuất khẩu 19 Tỷ lệ (%)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan