Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng pháp luật ở việt nam hiện nay ...

Tài liệu Ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng pháp luật ở việt nam hiện nay

.PDF
159
291
96

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HOÀI THU NGĂN NGỪA TRỤC LỢI BẢO HIỂM BẰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 62 38 01 07 LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Trần Đình Hảo HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Mọi số liệu, kết quả nghiên cứu đã công bố được tham khảo trong luận án đều trung thực và trích dẫn nguồn tài liệu đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình của tác giả nào khác. Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hoài Thu MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 7 ĐỀN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 7 1.2. Cơ sở lý thuyết và hướng tiếp cận của luận án 18 CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM VÀ 22 NGĂN NGỪA TRỤC LỢI BẢO HIỂM BẰNG PHÁP LUẬT 2.1. Những vấn đề lý luận về trục lợi bảo hiểm 22 2.2. Những vấn đề lý luận về ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng pháp luật 40 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG NGĂN NGỪA TRỤC LỢI BẢO HIỂM 69 BẰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Sự hình thành, phát triển của các quy định của pháp luật nhằm ngăn 69 ngừa trục lợi bảo hiểm 3.2. Thực trạng ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng pháp luật ở Việt Nam 72 hiện nay CHƢƠNG 4: GIẢI PHÁP NHẰM NGĂN NGỪA TRỤC LỢI BẢO HIỂM 122 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Yêu cầu và định hướng về các giải pháp nhằm ngăn ngừa trục lợi 122 bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay 4.2. Đề xuất các giải pháp ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm 130 4.3. Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật nhằm ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm 140 KẾT LUẬN CỦA LUẬN ÁN 145 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 147 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CNTT công nghệ thông tin DNBH doanh nghiệp bảo hiểm DNMGBH doanh nghiệp môi giới bảo hiểm HĐBH hợp đồng bảo hiểm KDBH kinh doanh bảo hiểm NCS nghiên cứu sinh TLBH trục lợi bảo hiểm TTBH thị trường bảo hiểm DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN Biểu đồ Nội dung Trang Biểu đồ 1 Tổng số vụ trục lợi bảo hiểm giai đoạn 2007-2012 76 Biểu đồ 2 Tổng số tiền bị trục lợi bảo hiểm giai đoạn 2007-2012 76 Biểu đồ 3 Tình hình trục lợi bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ giai đoạn 2007-2012 77 Biểu đồ 4 Số vụ trục lợi bảo hiểm trong bảo hiểm phi nhân thọ giai đoạn 2007-2012 78 Biểu đồ 5 Quy mô trục lợi của các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ giai đoạn 2007-2012 79 Biểu đồ 6 Quy mô trục lợi của các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ giai đoạn 2007-2012 80 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 18/12/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 100/CP về KDBH, tạo khung khổ pháp lý đầu tiên cho việc hình thành TTBH Việt Nam. Đến nay, sau hơn 20 năm hình thành và phát triển, TTBH Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện và lớn mạnh, từng bước thể hiện vai trò là tấm lá chắn vững chắc trước các rủi ro giúp các tổ chức, cá nhân nhanh chóng ổn định hoạt động và cuộc sống, là kênh huy động vốn dài hạn hữu hiệu của nền kinh tế, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để đáp ứng nhu cầu tham gia bảo hiểm của người dân, mạng lưới các DNBH đã được hình thành nhanh chóng, từ duy nhất 1 DNBH thuộc sở hữu của Nhà nước là Bảo Việt (trước năm 1993) với một số nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ truyền thống như bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn hành khách, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, đến nay đã có 63 DNBH, DNMGBH, chi nhánh nước ngoài với gần 1.200 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ và bảo hiểm sức khỏe phục vụ nhu cầu tham gia bảo hiểm đa dạng, phong phú của nhân dân. Khung khổ pháp lý cho hoạt động KDBH cũng từng bước được hình thành và ngày càng hoàn thiện. Sau Nghị định 100/CP là Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành, tạo ra một khung khổ pháp lý cho TTBH Việt Nam hoạt động hiệu quả, lành mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển ngày càng lớn mạnh của TTBH cùng với sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về KDBH cũng còn tồn tại những kẽ hở của pháp luật, còn những hiện tượng tiêu cực, gian lận xảy ra trong lĩnh vực KDBH. Mục tiêu của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm là để bảo vệ cho bản thân mình trước những rủi ro có thể xảy đến 1 trong tương lai. Các hành vi đó xuất phát từ ý chí của chủ thể là mang lại lợi ích cho cá nhân, tổ chức mình một cách hợp pháp thông qua việc sử dụng các quyền chủ thể và thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong quan hệ kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, có không ít những cá nhân, tổ chức đã lợi dụng khe hở của pháp luật và thực tiễn kinh doanh của các DNBH để TLBH nhằm thu lợi bất chính, đi ngược lại với mục tiêu này, gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho các DNBH, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm, đồng thời ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của TTBH và làm xói mòn niềm tin của những người muốn tham gia bảo hiểm, những người đã tham gia bảo hiểm và các nhà đầu tư vào TTBH. Hành vi này cần thiết phải được kiểm soát, ngăn chặn. Trên thực tế có thể ngăn ngừa TLBH bằng nhiều biện pháp, tuy nhiên theo tác giả, biện pháp chủ yếu và cơ bản nhất là ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật, thông qua pháp luật để điều chỉnh hành vi của chủ thể có ý định thực hiện hành vi TLBH hoặc đã thực hiện hành vi TLBH. Do đó, tác giả đã chọn đề tài “Ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện luận án của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là trên cơ sở nghiên cứu lý luận về TLBH và ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật, đánh giá thực trạng việc ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật ở Việt Nam, từ đó đề xuất các biện pháp pháp lý nhằm ngăn ngừa TLBH thông qua việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật về KDBH ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau: 2 - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về TLBH và ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật. Cụ thể nghiên cứu các vấn đề sau: Khái niệm TLBH, đặc điểm, phân loại hành vi TLBH; các nguyên tắc trong việc ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật; nội dung ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật. - Luận án tập trung phân tích, bình luận, đánh giá toàn diện thực trạng TLBH và thực trạng ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là tập trung phân tích các quy định pháp luật liên quan đến 3 nhóm: nhóm quy định pháp luật về các nguyên tắc trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm; nhóm quy định pháp luật về công tác quản lý, giám sát bảo hiểm của cơ quan quản lý nhà nước; nhóm quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể có hành vi vi phạm… từ đó chỉ ra những vướng mắc, những điểm chưa phù hợp với sự phát triển của thực tiễn làm ảnh hưởng đến hiệu quả ngăn ngừa TLBH của pháp luật để làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan. - Bên cạnh đó, luận án còn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc ngăn ngừa TLBH trong thời gian qua, từ đó phát hiện những vấn đề dẫn đến sự cần thiết phải hoàn thiện những quy định của pháp luật trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế. - Đề xuất phương hướng và giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả trong việc ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay và cơ chế đảm bảo thi hành có hiệu quả các quy định pháp luật này trong thực tiễn. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu của luận án là lý thuyết về TLBH, các quy định pháp luật nhằm ngăn ngừa TLBH, tình hình thực tiễn về TLBH và các biện pháp pháp lý nhằm ngăn ngừa TLBH ở Việt Nam hiện nay. Dưới góc độ khoa học pháp lý và phù hợp với chuyên ngành nghiên cứu, luận án chỉ tập trung 3 nghiên cứu chủ yếu các quy định tại Luật KDBH và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như tình hình thực tiễn về trục lợi trong bảo hiểm thương mại. Luận án không đề cập đến vấn đề trục lợi trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm khác do nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh. - Phạm vi nghiên cứu: Luận án chỉ tập trung vào các căn cứ, luận điểm liên quan trực tiếp đến TLBH và việc ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật trong hoạt động KDBH tại Việt Nam và so sánh với pháp luật của các quốc gia về vấn đề này. Về thời gian, địa bàn nghiên cứu: Tính đến nay, TTBH Việt Nam mới được hình thành và phát triển hơn 20 năm (từ 1993), vì vậy, luận án tập trung nghiên cứu từ thời gian này cho đến năm 2016. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án Cơ sở lý luận của luận án là học thuyết của Chủ nghĩa Mác - Lênin; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận án chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp diễn dịch - quy nạp, phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích dự báo…. để làm sáng tỏ các vấn đề được nghiên cứu trong luận án. Cụ thể là: - Chương 1: NCS sử dụng phương pháp hệ thống; phương pháp phân tích - tổng hợp và phương pháp so sánh, đối chiếu để tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài luận án. 4 - Chương 2: NCS sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích logic quy phạm để phân tích các vấn đề lý luận cần nghiên cứu. - Chương 3: NCS chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích để đánh giá quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành các quy định này; sử dụng phương pháp thống kê trên cơ sở tham khảo số liệu của cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm trong việc tìm hiểu, đánh giá về thực tiễn quản lý, giám sát TTBH cũng như tình hình TLBH ở Việt Nam thời gian qua. - Chương 4: NCS chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phân tích dự báo nhằm nghiên cứu định hướng và đề xuất các biện pháp pháp lý để giải quyết vấn đề nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện luận án, các phương pháp này được sử dụng đan xen để thuận tiện cho việc phân tích, đánh giá toàn bộ các vấn đề được đặt ra trong phạm vi nghiên cứu của luận án. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về TLBH cũng như việc ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay. - Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện cơ sở lý luận về TLBH cũng như việc ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật. Trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật, luận án đưa ra các yêu cầu, định hướng và giải pháp ngăn ngừa TLBH thông qua các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về KDBH ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Cơ sở lý luận cũng như những phân tích, kết luận và đề xuất mà luận án nêu ra có cơ sở khoa học và thực tiễn, có ý nghĩa đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm ngăn ngừa TLBH, góp phần phát triển TTBH Việt Nam ổn định, lành mạnh và hiệu quả. 5 Luận án có thể là nguồn tư liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu trong việc xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm ngăn ngừa TLBH ở Việt Nam hiện nay. 7. Cơ cấu của luận án Với những câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ của luận án, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Những vấn đề lý luận về TLBH và ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật Chương 3: Thực trạng ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay Chương 4: Định hướng và giải pháp nhằm ngăn ngừa TLBH bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Ở Việt Nam hiện nay, KDBH là một lĩnh vực khá mới mẻ, TLBH cũng mới xuất hiện và gia tăng trong thời gian gần đây. Vì vậy, các công trình nghiên cứu về đề tài chưa có nhiều. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp cận các tài liệu, sách báo, bài viết của các học giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu, NCS tổng quan tình hình nghiên cứu đến đề tài luận án theo các nhóm vấn đề tiếp cận và các công trình tiêu biểu cụ thể như sau: - Một là, nhóm các nghiên cứu liên quan đến hành vi TLBH: Qua việc phân tích, đánh giá các hành vi từ các vụ gian lận thương mại trong lịch sử từ khi bảo hiểm còn sơ khai dưới hình thức “à la grossve aventure” (cho vay mạo hiểm) cách đây 1.000 năm cho đến những vụ TLBH nổi tiếng trên thế giới và Việt Nam trong thời gian gần đây, từ bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tài sản đến bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm con người... các tác giả mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau, cách diễn đạt khác nhau nhưng đều có chung quan niệm về các yếu tố cấu thành hành vi TLBH, về biểu hiện và bản chất của hành vi TLBH, đó là các hành vi ẩn chứa những thông tin không có thật, hoặc che giấu thông tin nhằm mục đích được bồi thường hoặc chi trả quyền lợi bảo hiểm. Tác giả Thái Văn Cách trong bài viết Gian lận bảo hiểm - có hay không cơ sở chế tài [8] cho rằng TLBH xét ở khía cạnh pháp lý đó là hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản của tổ chức; TS. Trịnh Hữu Hạnh Hoàng Tuấn trong bài viết Qua vụ Pjico nhìn lại sự trục lợi bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản [28] đưa ra khái niệm về TLBH là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia HĐBH, bồi thường, trả 7 tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm; Ths. Phạm Đình Trọng trong bài viết Trục lợi bảo hiểm - Nguy cơ và giải pháp [49] quan niệm TLBH là những hành vi có chủ ý nhằm thu lợi bất chính từ việc tham gia bảo hiểm; Trong bài nghiên cứu Insurance fraud - The crime you pay for, Cục phòng chống TLBH Washington DC cho rằng TLBH xảy ra khi người ta lừa dối DNBH để thu tiền bất hợp pháp [60]; Ths. Đoàn Minh Phụng trong công trình nghiên cứu Chống gian lận bảo hiểm - một trong những con đường quan trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh của các DNBH [32] quan niệm TLBH là việc một hoặc một số người nào đó có hành vi lừa đảo DNBH nhằm thu lợi bất chính... Không chỉ là quan điểm cá nhân, một số tổ chức đãhái quát lại những dấu hiệu chung nhất, mang tính phổ biến nhất của hành vi TLBH thành khái niệm TLBH. Theo Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI): “TLBH là bất kỳ hành vi gian lận nào trong quá trình bảo hiểm để cố gắng có được một số quyền lợi hay lợi thế mà đáng lý ra họ không được hưởng” [67]. Theo Ủy ban phòng chống TLBH Úc (IFBA): “TLBH là hành động phạm pháp của bất cứ người nào có hành vi gian dối, lừa đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản”[72]. Theo nguyên tắc bảo hiểm số 21 của Hiệp hội các nhà bảo hiểm quốc tế (IAIS): “TLBH là những hành động hoặc những che giấu có liên quan đến việc không trung thực nhằm đạt được lợi ích bất hợp pháp của các bên trục lợi” [74]. Các tài liệu, bài viết phân loại, nhận diện, liệt kê các hành vi TLBH cho thấy trên thực tế, các hành vi TLBH biểu hiện khá đa dạng, do đó, các công trình nghiên cứu cũng có hướng tiếp cận, nhận diện khác nhau. Có những công trình nghiên cứu cho rằng TLBH nói chung được phân loại theo 2 dạng là “tạo ra tai nạn” và “lạm dụng bồi thường” như Hiệp hội bảo hiểm phi nhân thọ Nhật Bản (GIAJ). Theo đó, loại tạo ra tai nạn có thể được phân thành “cố ý tạo ra tai nạn giả” và “cung cấp sai thông tin trong vụ tai nạn”. Loại “lạm 8 dụng bồi thường” có thể được phân thành “khiếu nại bồi thường sai” và “khiếu nại bồi thường quá cao” [68]. Có những bài viết lại phân loại hành vi TLBH theo loại hình bảo hiểm (nhân thọ, phi nhân thọ). Các bài viết này chủ yếu từ các DNBH mà tác giả được tiếp cận trong Hội thảo về phòng, chống TLBH do Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm - Bộ Tài chính tổ chức năm 2012 [1], [8], [9], [30], [31], [52], [53]. Theo đó các hành vi trục lợi trong bảo hiểm nhân thọ phổ biến nhất là 2 nhóm hành vi: nhóm hành vi cố ý không cung cấp thông tin và nhóm hành vi cung cấp thông tin sai sự thật hoặc khai báo không trung thực các thông tin liên quan trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm hoặc trong hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Trong bảo hiểm nhân thọ, hành vi TLBH phổ biến là người được bảo hiểm đã mắc bệnh hiểm nghèo trước khi tham gia bảo hiểm nhưng không khai báo hoặc kê khai nhưng không chính xác mức độ thực tế. Trong bảo hiểm phi nhân thọ phổ biến là các hành vi như: hợp lý hóa thời gian xảy ra sự kiện bảo hiểm cho phù hợp với thời hạn hiệu lực bảo hiểm; cố ý gây tổn thất, thay đổi tình tiết trong tai nạn, sự cố, lập hồ sơ, hiện trường giả, khai tăng chi phí, số tiền tổn thất... Theo từ điển bảo hiểm, TLBH được chia thành 2 loại là trục lợi cứng (hard fraud) và trục lợi mềm (soft fraud). Trục lợi cứng là hành vi khi một người cố tình lập hồ sơ khiếu nại cho một vụ tổn thất không có thật; hoặc cố tình khởi tạo một vụ tổn thất, tự phá hủy tài sản để đòi bồi thường. Trục lợi mềm, hay còn được gọi là trục lợi cơ hội, là hành vi người được bảo hiểm khai tăng khiếu nại hợp pháp của họ [25]. Bên cạnh đó, cũng có những công trình phân loại hành vi TLBH theo nghiệp vụ bảo hiểm (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm con người, bảo hiểm xe cơ giới...) [28], [29], [35], [46]. Qua các tài liệu trên cho thấy, hành vi TLBH đã được các chuyên gia liệt kê, nhận diện khá rõ ràng, chi tiết. Đây là cơ sở mà luận án có thể tham khảo để tiếp tục nghiên cứu và luận giải về hành vi TLBH. 9 - Hai là, các tài liệu, bài viết nghiên cứu về thực trạng TLBH: Hiện tượng TLBH ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng, vì vậy, có khá nhiều các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành bảo hiểm trong nước của các DNBH đề cập đến thực trạng TLBH. Một số bài viết tiêu biểu có thể kể đến là: “Gian lận bảo hiểm - có hay không cơ sở chế tài” của Công ty bảo hiểm Viễn Đông; “Chống gian lận trong bảo hiểm xe cơ giới” của Công ty bảo hiểm Bảo Việt; “Khó khăn trong chống TLBH” của Công ty bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi Việt Nam; “Đề xuất một số giải pháp hạn chế TLBH” của Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prevoir Việt Nam; “Phòng chống gian lận, TLBH - cần có giải pháp đồng bộ của các DNBH và cơ quan quản lý nhà nước” của Công ty bảo hiểm Ngân hàng công thương Việt Nam; “Trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm con người - nguyên nhân và các biện pháp phòng tránh” của Tổng công ty bảo hiểm BIDV; “Xu hướng tinh vi hóa TLBH cùng với sự trợ giúp của một số đối tượng thuộc hệ thống cơ quan có trách nhiệm” của Tổng công ty bảo hiểm Xuân Thành ... được trình bày tại Hội thảo đánh giá thực trạng và giải pháp phòng chống TLBH của Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Bộ Tài chính (2012). Về cơ bản, các bài viết, công trình nghiên cứu đều cho rằng TTBH càng phát triển thì các hình thức TLBH cũng ngày càng đa dạng hơn, thủ đoạn TLBH cũng tinh vi hơn theo thời gian và số tiền TLBH cũng ngày càng nhiều hơn. Chủ thể thực hiện hành vi TLBH có thể là bất kỳ ai bao gồm tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài DNBH. Bên cạnh người tham gia bảo hiểm, còn có thể có sự đồng lõa, tiếp tay của đại lý bảo hiểm hoặc nhân viên DNBH, của các cơ sở cung cấp dịch vụ có liên quan. Theo đó, TLBH trong bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ thể hiện ở các phương thức khác nhau. Trong bảo hiểm nhân thọ, hiện tượng khách hàng có hành vi lừa dối trong giao kết HĐBH nhằm mục đích TLBH đang diễn ra ngày càng phổ biến, nhất là việc khách hàng kê khai không trung thực về tình trạng sức khỏe của người được bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm. Trong bảo hiểm phi 10 nhân thọ, TLBH có thể xảy ra tại bất kỳ công đoạn nào trong chu trình bảo hiểm từ giao kết hợp đồng, khiếu nại bồi thường đến giải quyết khiếu nại... song chủ yếu, TLBH được phát hiện ở khâu tiếp nhận và giải quyết bồi thường. Trong một số tài liệu khác, thực trạng TLBH được thể hiện theo hình thức thống kê tổn thất trong từng giai đoạn. Theo ước tính của Viện thông tin bảo hiểm Mỹ (Insurance Information Institute) thì trong giai đoạn 2008 2013, tổn thất về TLBH tài sản và thiệt hại của Mỹ lên đến khoảng hơn 30 tỷ đôla/năm (khoảng 10% yêu cầu bồi thường), trong đó hơn 50% là trục lợi trong lĩnh vực bảo hiểm thương tích, chủ yếu dưới dạng dàn dựng tai nạn xe cơ giới, hoặc tai nạn trượt ngã [76]; theo ước tính của Cục điều tra liên bang (FBI), có khoảng 3% - 10% tổng chi phí hàng năm cho bảo hiểm sức khỏe [67]. Số liệu của Trung tâm dịch vụ Medicare and Medicaid thuộc Bộ Y tế và dịch vụ nhân lực Mỹ cho thấy trục lợi trong lĩnh vực y tế trong năm 2009 dao động từ 75-250 tỷ đô la; TLBH gây ra nhiều thiệt hại, chỉ đứng sau trục lợi thuế [59]. Theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu tội phạm học Úc (Australia Institute of Criminology) trong năm 2010 thì thiệt hại trực tiếp về TLBH tại Úc lên đến khoảng 3 tỷ đôla Úc mỗi năm [55]. Theo ước tính của Hiệp hội Bảo hiểm Anh (Association of British Insurers, ABI), những gian lận về tài chính đã gây ra thiệt hại khoảng 14 tỷ bảng/năm, tương đương với khoảng 231 bảng/người/năm, riêng trong năm 2010 thiệt hại về TLBH phi nhân thọ khoảng 2,5 tỷ bảng, thiệt hại về bảo hiểm nhân thọ và hưu trí khoảng 35 triệu bảng. Cũng theo ước tính của ABI, trong năm 2010 các DNBH đã phát hiện được những vụ việc có dấu hiệu trục lợi có tổng giá trị lên tới 730 triệu bảng, tăng 30% so với năm 2007. Trong đó khoảng gần 30 triệu bảng đã thanh toán cho các đối tượng trục lợi trước khi chính thức phát hiện có dấu hiệu TLBH; 700 triệu bảng đã được từ chối chi trả do phát hiện có TLBH [54]. 11 - Ba là, nhóm các tài liệu, bài viết nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý. Các bài viết liên quan đến trách nhiệm pháp lý mà tác giả được tiếp cận về cơ bản chia thành hai nhóm. Theo nghiên cứu tính đến trước 1/7/2016, nhóm thứ nhất cho rằng chế tài đối với hành vi TLBH chưa đủ sức răn đe, trong khi đó, chế tài hình sự lại chưa được áp dụng cho các hành vi TLBH mà chỉ có thể áp dụng đối với các tội danh tương ứng. Nhóm này chủ yếu gồm các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước như: Thái Văn Cách (2012), Gian lận bảo hiểm - có hay không cơ sở chế tài [8]; Nguyễn Văn Chỉnh (2012), Phòng chống gian lận, TLBH cần có giải pháp từ các DNBH và cơ quan quản lý nhà nước [9]; Lê Phước Hiệp (2012), TLBH, thực trạng tại ACE Life và những kiến nghị nhằm hạn chế trục lợi [30]; Đoàn Minh Phụng (2000), Chống gian lận bảo hiểm, một trong những con đường quan trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh của các DNBH Việt Nam [32].... Nhóm thứ hai là những công trình nghiên cứu đi sâu vào việc đánh giá thực hiện các quy định pháp lý về TLBH. Nhóm này chủ yếu gồm các bài viết của tác giả đến từ các nước phát triển như Mỹ, Úc. Theo đó, Mỹ là một trong những nước ban hành quy định pháp lý về TLBH sớm nhất (năm 1976, tại bang Florida). Luật bảo hiểm của Florida quy định hình phạt đối với các đối tượng đưa ra các thông tin sai lệch khi đưa ra yêu cầu đòi bồi thường bảo hiểm [65]. Luật bảo hiểm Úc [56] cũng ghi nhận hành vi TLBH là một hành vi trộm cắp, do vậy Úc đã quy định hình phạt đối với hành vi này tùy vào tính chất mức độ, bao gồm cả phạt tù và phạt tiền. Về mặt tài chính, những người bị buộc tội TLBH sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Họ có thể rất khó để tiếp tục được bảo hiểm, có thể bị đánh tụt hạng tín nhiệm, có thể đối mặt với các cuộc kiểm tra trong tương lai. Ngoài ra, họ có thể còn không được phép làm việc trong một số lĩnh vực. Khi TLBH bị kết tội hình sự thì mức án tùy vào tính chất, mức độ phạm tội và quy định của mỗi bang. Ví dụ: bang New South Wales mức án có thể lên đến 10 năm, bang Queensland mức án từ 5 đến 12 12 năm tù. Khi một hành vi bị nghi là có dấu hiệu TLBH, DNBH có quyền từ chối thanh toán bồi thường. Những tranh cãi tiếp theo (nếu có) có thể được giải quyết tại Dịch vụ thanh tra tranh chấp tài chính (Financial Ombudsman Service). Cơ quan này gồm đại diện người tiêu dùng và đại diện các công ty kinh doanh trong lĩnh vực tài chính và các thanh tra viên nhằm giải quyết những tranh chấp giữa người tiêu dùng và các định chế tài chính [56]. Theo quy định của Luật bảo hiểm Anh, TLBH bị xử phạt hình sự theo Đạo luật chống gian lận năm 2006 [34, tr7]. Theo quy định tại Luật này, hành vi TLBH có thể bị phạt tiền hoặc phạt tù đến 12 tháng (đối với gian lận ở mức trung bình) hoặc 10 năm (đối với gian lận ở mức nghiêm trọng). Đạo luật này là công cụ hữu hiệu trong việc ngăn ngừa TLBH của Ủy ban phòng chống TLBH và Cơ quan giám sát dịch vụ tài chính Anh. - Bốn là, các tài liệu, bài viết nghiên cứu về giải pháp nhằm ngăn ngừa TLBH. Theo nghiên cứu của NCS, hiện có khá nhiều các tài liệu, bài viết về giải pháp nhằm ngăn ngừa TLBH như [9], [29], [31], [35], [68]. Theo đó, có những bài viết đề xuất các giải pháp và có những bài viết chia sẻ kinh nghiệm về những giải pháp đã thực hiện để ngăn ngừa TLBH. Các giải pháp đặt ra điển hình phải kể đến là: thiết lập hệ thống giám định tổn thất hiệu quả nhằm bồi thường chính xác và công bằng; phối hợp với các giảng viên, luật sư hay chuyên gia về TLBH, lực lượng cảnh sát nhằm đánh giá các vụ yêu cầu bồi thường phi lý và trái quy định do các giám định viên của DNBH đưa ra; trao đổi thông tin giữa các DNBH; thành lập Hội đồng ngăn ngừa vi phạm pháp luật trong KDBH; hợp tác với cơ quan cảnh sát quốc gia, hiện đại hóa cơ sở CNTT kết nối giữa các DNBH; thể chế hóa vào quy định của pháp luật; thành lập các cơ quan, tổ chức chuyên trách về ngăn ngừa TLBH; đưa các cơ chế khuyến khích việc cung cấp thông tin về hành vi TLBH... Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp đồng bộ từ các bên liên quan như DNBH, người tham gia bảo hiểm, cơ quan quản lý nhà 13 nước và Hiệp hội bảo hiểm. Theo đó, về phía DNBH, các tác giả đều cho rằng cần tăng cường sự phối hợp giữa các DNBH với nhau và giữa các DNBH với các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng; cải tiến quản lý, kỹ thuật nghiệp vụ của DNBH (đánh giá rủi ro, quản lý và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm; nâng cao chất lượng công tác điều tra, giám định tổn thất; giải pháp về giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng của cán bộ, nhân viên DNBH; giải pháp về quản lý, lưu trữ hồ sơ; tăng cường các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất. Về phía người tham gia bảo hiểm, các tác giả đều cho rằng cần có biện pháp xử lý mạnh thay vì chỉ dừng ở việc từ chối bồi thường; tăng cường tuyên truyền giáo dục nhận thức để thay đổi hành vi. Về phía những người có liên quan, cần xử phạt hành chính, kỷ luật hoặc phạt tiền. Về phía cơ quan chức năng, cần tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát toàn diện DNBH… - Năm là, nhóm các nghiên cứu khảo sát về TLBH. Để nắm được thực chất hậu quả TLBH gây ra, nhiều cơ quan, tổ chức đã tiến hành khảo sát về TLBH. Mỗi tổ chức có mục đích khác nhau khi tiến hành khảo sát như: Hiệp hội bảo hiểm phi nhân thọ Nhật Bản (GIAJ), Hiệp hội phòng chống TLBH Mỹ, Hiệp hội quốc tế các nhà giám sát bảo hiểm (IAIS), tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Qua kết quả khảo sát, các tổ chức đã có trong tay những thông tin, số liệu cụ thể để có được một cái nhìn tổng quan về hiện trạng TLBH ở quốc gia và từng khu vực. Từ đó, tiếp tục nghiên cứu để có được giải pháp phù hợp nhằm từng bước ngăn chặn TLBH. 1.1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Qua việc nghiên cứu các công trình trong nước và quốc tế cho thấy mặc dù còn khiêm tốn về mặt số lượng nhưng các công trình nghiên cứu đã đạt được một số kết quả đáng kể, đó là: 14 - Các công trình nghiên cứu mà tác giả được tiếp cận mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau nhưng đều đề cập, nhận diện, liệt kê và phân tích hành vi TLBH xuất phát từ lợi ích vật chất của các chủ thể trực tiếp tham gia quan hệ KDBH. Qua đó, có thể khái quát về hành vi TLBH là các hành vi được thực hiện vì động cơ thu lợi bất chính từ việc tham gia bảo hiểm. Đây là cơ sở lý luận cơ bản nền tảng để làm căn cứ xác định hành vi bất hợp pháp và giúp cho tác giả có thể bao quát hành vi TLBH, tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. - Các công trình nghiên cứu đã nêu rõ về thực trạng TLBH, có số liệu khảo sát cụ thể về những tổn thất của TLBH. Đây là những số liệu cần thiết mà tác giả cần tiếp tục nghiên cứu, phân tích để làm rõ sự ảnh hưởng của TLBH đến nền kinh tế nói chung và TTBH Việt Nam nói riêng. Từ đó, đề xuất các giải pháp phù hợp để ngăn chặn tình trạng này. - Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những nguyên nhân, bao gồm cả nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan dẫn đến TLBH. Bao quát được các nguyên nhân từ phía DNBH, từ phía người tham gia bảo hiểm, từ phía cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm, từ phía Hiệp hội bảo hiểm. Đây chính là những cơ sở quan trọng để NCS tập trung nghiên cứu sâu hơn về nguyên nhân từ phía hệ thống luật pháp có liên quan, để từ đó tìm ra giải pháp phù hợp. - Các công trình nghiên cứu đã nêu ra những giải pháp cụ thể trên cơ sở tương ứng với nguyên nhân dẫn đến tình trạng TLBH. Các bài viết, công trình nghiên cứu đều cho rằng cần phải xử lý nghiêm minh những trường hợp TLBH nhằm đảm bảo cho quyền lợi của những người tham gia bảo hiểm trung thực đồng thời cũng là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển TTBH nước ta một cách bền vững. Các giải pháp cũng được thực hiện đồng thời từ nhiều phía và được đặt trong mối tương quan, hỗ trợ lẫn nhau. Đây là những cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu sâu hơn trong luận án. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan