Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nét đẹp triều phục hoàng gia nhà nguyễn...

Tài liệu Nét đẹp triều phục hoàng gia nhà nguyễn

.PDF
75
107
70

Mô tả:

Hệ thống hóa các dữ liệu còn rời rạc, tiếp thu các nghiên cứu của các tiền bối đi trước nhằm hoàn thiện hơn những nghiên cứu về triều phục. Mô tả thực trạng, phân tích và đánh giá từ đó đưa ra biện pháp bảo tồn nét đẹp hoàng phục triều Nguyễn.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Hà Nội – 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN Họ và tên : Nguyễn Thị Khánh Linh Lớp : QH – 2015 – X – TR Mssv : 15032500 Giảng viên hướng dẫn : ThS Đỗ Thị Minh Thảo Hà Nội – 2019 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các thầy cô giáo khoa Triết học đã giúp em xây dựng hệ thống lý luận căn bản để em hoàn thành khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo thư viện Tôn giáo, thư viện đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện để em hoàn thành khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các bác, các cô, các chú trong ban Tuyên giáo thành phố Huế, các cô chú hướng dẫn viên, các bậc cha chú - những người đi trước tìm hiểu và có cái nhìn sâu sắc về đề tài này đã nhiệt tình chia sẻ thông tin để em hoàn thành khóa luận. Sau cùng em xin cảm ơn cô giáo. ThS Đỗ Thị Minh Thảo - giảng viên hướng dẫn khóa luận đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành khóa luận này. Em xin cam đoan những thông tin có trong khóa luận là những thông tin lấy từ những nguồn tài liệu chính thống và đáng tin cậy. Do phạm vi đề tài rộng, thời gian nghiên cứu hạn hẹp và trình độ hạn chế nên trong khóa luận không tránh khỏi thiếu sót, nên em kính mong các thầy cô có những kiến đóng góp em sẽ tiếp thu và hoàn thành khóa luận tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. ĐÔI NÉT VỀ NHÀ NGUYỄN VÀ NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN TỪ 1802 - 1945 ............................... 4 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Triều Nguyễn ......................... 4 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ....................................................... 4 1.1.2. Gia phả hoàng gia nhà Nguyễn ......................................................... 6 1.1.3. Triều phục hoàng gia nhà Nguyễn với tiêu chí thẩm mỹ của người cung đình xưa ................................................................................... 8 1.2. Những nét riêng và độc đáo của Triều phục hoàng gia Việt Nam.............................................................................................................. 14 1.2.1. So sánh Triều phục Hoàng gia Nhà Nguyễn Việt Nam và triều phục hoàng gia Nhà Mãn Thanh Trung Quốc ......................................... 14 1.2.2. So sánh triều phục của vua và triều phục của bá quan văn võ ....... 20 1.2.3. Thường phục của nhân dân và binh lính thời Nhà Nguyễn ............ 25 Chương 2. NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN, TỪ DI SẢN VĂN HÓA CỦA NHÂN LOẠI ĐẾN THÁCH THỨCBẢO TỒN VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN .................................... 28 2.1. Nét đẹp triều phục hoàng gia nhà Nguyễn nhìn từ giá trị di sản văn hóa của nhân loại ................................................................................ 28 2.1.1. Giá trị di sản văn hóa của hoàng phục triều Nguyễn ...................... 28 2.1.2. Giá trị tôn giáo tín ngưỡng của hoàng phục triều Nguyễn ............. 30 2.2. Biện pháp bảo tồn và quảng bá hình ảnh của triều phục hoàng gia nhà Nguyễn. .......................................................................................... 31 2.3. Ý nghĩa của việc bảo tồn và quảng bá hình ảnh của triều phục hoàng gia Nhà Nguyễn tới giới trẻ và bạn bè trên thế giới .................... 33 KẾT LUẬN .................................................................................................... 35 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 37 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng 5 khóa VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước”. Nền văn hóa tiên tiến phải có sắc thái riêng, cái độc đáo của truyền thống, tâm hồn, cốt cách, lối sống,... của cả một dân tộc, chứa đựng tinh hoa của quá khứ kết hợp những cái tốt đẹp của hiện tại. Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, xã hộ ngày càng đổi mới thì nét văn hóa truyền thống một mặt có sự kế thừa, mặt khác lại bị mai một. Con người ngày càng quan tâm đến những giá trị văn hóa du nhập từ nước ngoài, trong đó có phong cách thời trang. Các nước có cách bảo tồn và phát triển các trang phục truyền thống của mình, trong khi việc đó ở nước ta lại chưa chú trọng. Cũng có những lễ hội áo dài, những chương trình trình diễn thời trang liên quan đến áo dào nhưng về trang phục cung đình xưa lại chưa được đi sâu khai thác. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “Nét đẹp triều phục hoàng gia nhà Nguyễn” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Em muốn nhấn mạnh đến nét đẹp độc đáo cũng như tầm ảnh hưởng của trang phục cung đình hoàng gia Triều Nguyễn. Để qua đó, giới trẻ có cái nhìn sâu sắc hơn về những nét đẹp tạo nên bức tranh lịch sử rực rỡ của nước nhà. 2. Tình hình nghiên cứu Trước đây đã từng có những tác giả đã đề cập đến vấn đề ao mũ của vua chúa, quan lại cổ trang Việt Nam như tác giả Trần Quang Đức với tác phẩm sách Ngàn năm áo mũ. Cuốn sách là một nghiên cứu công phu và đầy tham vọng của Trần Quang Đức: dựng lại bức tranh trang phục Việt Nam trong cung đình và ngoài dân gian trong khoảng một nghìn năm từ thời Lý đến thời Nguyễn (1009-1945). Cuốn sách có đề cập đên trang phục Hoàng gia Nhà Nguyễn nhưng lại được nghiên cứu song song với các Triều đại khác nên chưa làm bật lên được nét đẹp uy nghiêm, rực rỡ của trang phục này. 1 Kế từ sau cuốn sách Ngàn năm áo mũ của tác giả Trần Quang Đức, một lần nữa người trẻ ham mê lịch sử lại tái ngộ với triều phục của Hoàng gia VN qua dự án Anh Hoàng của một bạn trẻ 9X - Vũ Đức. Dự ấn tuy đạt được những nghiên cứu chuyên sâu nhất định nhưng lại trên hình ảnh,chưa có lý luận để người đọc hiểu rõ hơn về Hoàng phục Triều Nguyễn. Cũng có những tác giả như Đỗ Bằng Đoàn,Đỗ Trọng Huề với tác phẩm Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa, tác giả Võ Hương – An với Từ điển Nhà Nguyễn, và một số tác giả khác đã đề cập đến vấn đề này nhưng chưa đưa ra được nhận định một cách bao quát nhất về giá trị, ý nghĩa cũng như phương pháp bảo tồn trang phục này.Vậy khóa luận của em dựa trên cơ sở kế thừa,tiếp thu và phát triển từ các nghiên cứu đi trước, tổng hợp lại, hoàn thiện giúp độc giả có cái nhìn tổng quát nhất về hoàng phục Triều Nguyễn. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tiếp thu những bài học từ thế hệ đi trước, nhằm tôn vinh nét đẹp trang phục truyền thống dân tộc, để có được cái nhìn sâu sắc hơn, nhân văn hơn về triều phục hoàng gia Việt Nam. Từ đó đề ra các biện pháp bảo tồn và phát huy nét đẹp trang phục cung đình Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa các dữ liệu còn rời rạc, tiếp thu các nghiên cứu của các tiền bối đi trước nhằm hoàn thiện hơn những nghiên cứu về triều phục. Mô tả thực trạng, phân tích và đánh giá từ đó đưa ra biện pháp bảo tồn nét đẹp hoàng phục triều Nguyễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là triều phục hoàng gia nhà Nguyễn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu triều phục hoàng gia của nhà Nguyễn tại cung đình Huế từ năm 1802 đến năm 1945. Trong đó tập trung nghiên cứu triều phục hoàng gia mặc lúc thượng triều và các dịp lễ quan trọng. 2 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài thực hiện trên cơ sở thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Đề tài được nghiên cứu từ góc độ liên ngành mỹ học, lịch sử, tôn giáo học... Ngoài ra, đề tài còn kế thừa và phát triển nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, sử dụng tài liệu báo cáo của các công trình khoa học, và tài liệu ở các thư viện lịch sử, thư viện quốc gia. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật, kết hợp với các phương pháp cụ thể như: logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, so sánh. 6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Qua đề tài này, em muốn nhấn mạnh nét đẹp độc đáo cũng như tầm ảnh hưởng của hoàng phục cung đình Huế, đặc biệt là trang phục cung đình hoàng gia triều Nguyễn. Để qua đó, giới trẻ có cái nhìn sâu sắc hơn về những nét đẹp tạo nên bức tranh lịch sử trang phục rực rỡ của nước nhà. Từ đó, tìm ra giải pháp bảo tồn và phát triển cũng như quảng bá nét đẹp của hoàng phục đến bạn bè thế giới. 7. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp Ngoài mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 2 chương, 6 tiết. 3 Chương 1 ĐÔI NÉT VỀ NHÀ NGUYỄN VÀ NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN TỪ 1802 - 1945 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Triều Nguyễn 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Nhà Nguyễn (1802 – 1945) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802 và chấm dứt hoàn toàn khi Hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, tổng cộng là 143 năm. Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp vào giữa thế kỷ 19. Triều Nguyễn trải qua hai giai đoạn chính: Giai đoạn thứ nhất (1802–1858), được coi là giai đoạn độc lập, các vua nhà Nguyễn nắm toàn quyền quản lý đất nước, trải qua 4 đời vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Gia Long và sau đó là Minh Mạng đã cố gắng xây dựng đất nước trên nền tảng Nho giáo và xóa bỏ các cải cách theo hướng tiến bộ của nhà Tây Sơn. Trong thời kỳ này, nội bộ đất nước không ổn định, triều Nguyễn ít được lòng dân, chỉ trong 60 năm đã xảy ra hơn 400 cuộc nổi dậy của người dân. Thời kỳ vua Minh Mạng lại diễn ra nhiều cuộc chiến tranh giành lãnh thổ ở Campuchia nên đã khiến ngân khố cạn kiệt, đến thời vua Tự Đức thì mọi mặt của đất nước đều sút kém đi. Từ thập niên 1850, một nhóm trí thức Việt Nam, tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, đã nhận ra sự trì trệ của đất nước và yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp – thương mại, cải cách quân sự – ngoại giao, nhưng họ chỉ là thiểu số. Đa số quan chức triều Nguyễn và giới sĩ phu không ý thức được sự cần thiết của việc cải cách và mở cửa đất nước nên Tự Đức không quyết tâm thực hiện những đề xuất này. Đất nước dần trở nên trì trệ, lạc hậu và đứng trước nguy cơ bị thực dân châu Âu xâm chiếm. Giai đoạn thứ hai (1858–1945), được coi là giai đoạn bị Pháp xâm lăng và đô hộ, kể từ khi quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi hoàng đế 4 Bảo Đại thoái vị. Tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó chiếm Gia Định. Tháng 6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước cắt nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến ở Bắc Kỳ. Đến năm 1884 thì nhà Nguyễn chính thức công nhận quyền cai trị của Pháp trên toàn Việt Nam. Pháp có quyền cai trị, còn các vua nhà Nguyễn chỉ còn là tượng trưng, quân Pháp có thể tùy ý phế lập vua Nguyễn. Giai đoạn này kết thúc khi Bảo Đại tuyên bố thoái vị năm 1945. Nhà Nguyễn trong thời gian cai trị đã tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công thuộc nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng lập các ti trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố quản lý nhiều ngành thủ công khác nhau, bao gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng... Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc. Ngoài ra còn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hỏa dược. Thủ công nghiệp thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền... Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công của nhà nước phong kiến là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa... tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Đối với nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ, John White đã nhận xét: “Người Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác”. Ngoài các thuyền gỗ, người thợ thủ công còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng. Ngoài ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc và có chất lượng vào thời đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng... Trong ngành khai mỏ, đến nửa 5 đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà nước, tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ vẫn kém phát triển so với thế giới. 1.1.2. Gia phả hoàng gia nhà Nguyễn Trong 143 năm tồn tại kể từ khi thành lập năm 1802 cho đến khi sụp đổ 1945, nhà Nguyễn có 13 vị vua cai trị thuộc 7 thế hệ. Tính theo Đế hệ thi của Minh Mạng thì dòng họ nhà Nguyễn chỉ truyền đến chữ thứ 5 (Vĩnh) tương đương với thế hệ thứ 5 kể từ các con Minh Mạng. Miếu hiệu Thế Tổ Thụy hiệu Tên Năm Niên hiệu Lăng Nguyễn Phúc Ánh 1802–1820 Thiên Thọ Lăng Thánh Tổ Nhân hoàng đế Nguyễn Phúc Đảm 1820–1841 Hiến Tổ Chương hoàng đế Nguyễn Phúc Miên Tông 1841–1847 Dực Tông Anh hoàng đế Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 1847–1883 Cung Tông Huệ hoàng đế Nguyễn Phúc Ưng Ái 1883 Nguyễn Phúc Hồng Dật 1883 Nghị hoàng đế Nguyễn Phúc Ưng Đăng 1883–1884 Xuất Đế Nguyễn Phúc Ưng Lịch 1884–1885 Thuần hoàng đế Nguyễn Phúc Ưng Kỷ 1885–1889 嘉隆 Gia Long 明命 Minh Mạng 紹治 Thiệu Trị 嗣德 Tự Đức 育德 Dục Đức 協和 Hiệp Hòa 建福 Kiến Phúc 咸宜 Hàm Nghi 同慶 Đồng Khánh 成泰 Thành Thái 維新 Duy Tân 啟定 Khải Định 保大 Bảo Đại Cao hoàng đế Văn Lãng vương/Phế Đế Giản Tông Cảnh Tông Hoằng Tông quận Hoài Trạch công/Phế Nguyễn Phúc Bửu Đế Lân 1889–1907 Phế Đế Nguyễn Phúc Vĩnh San 1907–1916 Nguyễn Phúc Bửu Đảo 1916–1925 Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy 1926–1945 Tuyên Hoàng Đế 6 Hiếu Lăng Xương Lăng Khiêm Lăng An Lăng Bối Lăng Tư Lăng An Lăng An Lăng Ứng Lăng Sơ đồ các vua nhà Nguyễn: 1 Gia Long 1802 – 1819 2 Minh Mạng 1820 – 1840 3 Thiệu Trị 1841 – 1847 4 Tự Đức 1847 - 1883 Thoại Thái Vương 5 Dục Đức 9 Đồng Khánh 7 Kiên Thái Vương 6 Hiệp Hòa 1883 8 Hàm Nghi 7 Kiến Phúc 1883 1885 – 1889 10 Thành Thái 1889 - 1907 12 Khải Định 1916 – 1925 11 Duy Tân 1907 - 1916 13 Bảo Đại 1926 – 1945 1884 - 1885 1883 - 1884 1.1.3. Triều phục hoàng gia nhà Nguyễn với tiêu chí thẩm mỹ của người cung đình xưa 1.1.3.1. Triều phục hoàng Gia Triều phục hoàng gia là trang phục Hoàng tộc mặc trong những dịp quan trọng hoặc khi thiết triều. Triều phục hoàng gia được thiết kế tinh xảo, xa hoa, rực rỡ nhưng cũng không kém phần trang trọng, uy nghi để tỏ rõ sự tôn nghiêm của hoàng tộc. Triều phục của hoàng gia được là từ chất liệu vô cùng quý hiếm, họa tiết rồng phượng được thêu khéo léo từ bàn tay của người nghệ nhân giỏi nhất. Trang phục của vua có mũ miện, áo long cổn, xiêm, đai, hia, hốt… – Mũ miện, thân mũ hình tròn ống, đan bằng dây thau, rộng hẹp tùy cỡ đầu, mặt ngoài bọc lụa màu huyền, trong lót lụa màu đỏ. Đặt lên trên thân mũ là một ván gỗ mỏng hình chữ nhật, cạnh trước và cạnh sau đeo 24 dây tua bằng vàng, xâu 300 hột san hô, trân châu, pha lê và 400 hạt vàng. Đỉnh mũ đính hai chữ vạn thọ bằng vàng. Xung quanh thân mũ có 12 hình rồng vàng, 6 hình ngọn lửa cũng bằng vàng. Lại dát hình hoa sen và đám mây bằng 256 hột vàng. 8 Khi đội mũ, dùng một khăn chít ở trán để đội cho chặt (võng cân). Khăn dệt bằng tơ vàng. – Áo long cổn bằng sa tanh màu thanh thiên, cổ tròn bằng đoạn bát ty màu quan lục, trong lót lụa trắng. Thân áo thêu nhiều họa tiết: mặt trời, mặt trăng, sao, núi, rồng v.v… Vạt áo thêu rồng, mây, hình sóng nước… Tay áo cũng có họa tiết hình hai con rồng quay đầu xuống. Bên trong mặc áo đơn màu bạch tuyết, cửa tay thêu hình rồng mây. – Xiêm bằng sa màu vàng bóng, dưới viền gấm, thêu các họa tiết: ngọn lửa, hạt gạo, hình phất, hình phủ… lại còn đính các thứ ngọc bội, khánh ngọc, ngọc huỳnh, hạt vân mẫu, san hô, hổ phách… Khi đi lại, các thứ đó va chạm vào nhau, phát ra âm thanh rủng rẻng. – Đai làm bằng da bọc đoạn màu vàng, giữa đính một miếng ngọc hình vuông, xung quanh gắn sáu viên ngọc trắng hình quả trám, bịt vàng, 392 hạt châu ngọc, bên trong có sáu khuy để đính vào áo. – Hia, ngoài bọc đoạn màu đen, trong lót đoạn màu đỏ. Xung quanh thêu hình rồng, mây, đính ngọc, kim cương và những miếng kính cùng nhiều thứ khác. – Hốt (cầm tay) của vua bằng ngọc, dài một thước hai tấc (khoảng 40cm), ngang ba tấc (khoảng 10cm), có túi gấm đựng. Khi biên soạn bộ Điển lệ nổi tiếng của triều Nguyễn, Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ, các sử quan của triều đình đã dành quyển 78 và quyển 242 để bàn về việc ăn mặc của các bậc đế, hậu, hoàng tử, công chúa, quan lại… triều Nguyễn, từ trang phục dùng trong các dịp triều lễ, khánh tiết, tết nhất, cho đến thường phục, kể cả nội y, phụ kiện của y phục... Triều Nguyễn có những quy định khác biệt về trang phục cho các giai tầng trong xã hội, dựa trên các tiêu chí như chất liệu vải, màu sắc, cách may, họa tiết trang trí, thậm chí cả số lượng y phục dành cho từng hạng người cũng có những quy định rất chặt chẽ. 9 Các loại vải lụa dùng để may trang phục, mũ mão cho vua chúa, hoàng thân quốc thích đều là hàng cao cấp, do triều đình đặt mua ở Trung Hoa. Các vua Gia Long và Minh Mạng thường sai sứ thần sang Trung Hoa mua gấm đoạn ở các vùng Nam Kinh, Giang Nam về để cung cấp cho nhu cầu trang phục của hoàng gia. Trong cuốn “Histoire des Relations de la Chine avec l’Annam - Việtnam du XVIe au XIXe siècle”, tác giả G. Devéria đã phản ánh một sự kiện liên quan đến việc tìm mua vải lụa của các sứ thần Việt Nam khi họ sang công cán Trung Hoa: “Sứ thần An Nam khi đi qua Nam Kinh muốn mua lụa. Thanh triều không phản đối việc này, nhưng do đây là một việc mua bán riêng tư, không có sự tiến cử của Thanh triều, nên các thương nhân Trung Hoa đã tăng giá lên một cách thái quá, khiến sứ thần An Nam đã cãi cọ với họ nên các quan cầm quyền phải can thiệp vào. Từ đó về sau, Thanh triều yêu cầu sứ thần sẽ phải nộp cho nhà chức trách danh sách các món hàng mà mình muốn mua. Các nhà chức trách Trung Hoa sẽ có nhiệm vụ mua hàng giúp cho các sứ thần”. Tuy nhiên, do nhà Thanh không muốn bán gấm lụa màu vàng cho phía Việt Nam (vì họ cho rằng chỉ có hoàng đế Trung Hoa mới được mặc áo màu vàng), nên từ đời Thiệu Trị trở đi, nhà Nguyễn đã đặt các hộ dệt vải lụa ở Hà Đông chuyên dệt lụa, gấm màu vàng dành riêng cho triều đình. Các hộ dệt vải lụa truyền thống ở một số địa phương khác cũng được yêu cầu tiến nộp các mặt hàng dệt cao cấp thay cho việc nộp thuế bằng tiền. Rất nhiều tư liệu về phục trang của vua Khải Định được lưu truyền đến ngày nay trên tượng và trên ảnh chụp đã cho ta hình dung về thời giao lưu văn hóa Đông Tây qua trang phục của Vua như thế nào. Mũ Thông thiên, áo thụng, và nhiều mề đay kiểu Pháp đến chiếc khăn xếp và áo tay gọn gàng cho thấy nhà vua rất chịu khó tiếp thu cái mới. Ở một góc độ khác, người ta cho rằng đó là sự lai căn, sự lỗi thời của ngay ngai vàng, chứ không phải cứ là một ông vua. Trên một bức tượng trưng bày trong bảo tàng Huế, vua mặc áo Tây có mủ vai, xẻ ngực, quần chẽn dắt trong ủng cao. Dù kiểu cách thay đổi 10 nhưng trên áo quần vẫn giữ họa tiết hoa văn rồng phượng như cũ. Vua Khải Định là một người rất thích cách tân, thay đổi kiểu cách trang phục. Trên áo mão của các vua hậu triều Nguyễn thường đính vàng bạc, trân châu, kim cương... để tăng thêm giá trị và uy nghi. Theo sách Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ, trên chiếc mũ vua đội lúc thiết đại triều có đính 31 hình rồng làm bằng vàng tốt; 30 đóa hoa vuông có khảm ngọc, đính thêm 140 hạt kim cương và trân châu. Mũ của hoàng hậu có 9 con rồng, 9 con phượng bằng vàng tốt, 9 miếng bồn khoan bằng bạc, 4 cái trâm bằng bạc có gắn 198 hạt trân châu và 231 hạt pha lê. Khăn bịt trán thì làm bằng đoạn bát ti (vải đoạn dệt từ tơ xe 8 sợi) màu thiên thanh, bên trong lót lĩnh đại tào màu vàng, trang sức 4 cái khuyên vàng tốt và 4 sợi dây tơ. Tất cả áo mũ, xiêm y, hài ủng của vua hậu cho đến phi tần, cung giai, tùy theo thứ bậc mà đính vàng bạc, trân châu nhiều hay ít nhưng cái nào cũng có. Về đề tài trang trí, sự phân chia thứ bậc theo chủ đề được tuân thủ nghiêm ngặt. Áo vua thêu rồng, áo hoàng tử trang trí lân. Áo hoàng hậu thêu hoa và chim phượng (có 3 dải đuôi), còn áo công chúa thêu chim loan (giống như chim phượng nhưng chỉ có 1 dải đuôi). Mũ đại triều của vua có 9 hình rồng hướng thiên bằng vàng. Mũ của hoàng thái hậu thêu 9 con phượng. Mũ của cung giai thì tùy theo thứ bậc mà có từ 1 chim phượng đến 7 chim phượng... Triều phục của vua thì gọi là Long bào, hoàng bào. Triều phục của quan văn võ tướng gọi là phẩm phục. Có phẩm phục đại triều là phẩm phục mặc khi thiết triều và phẩm phục thường triều. Chỉ dụ năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có nêu rõ: “Việc chế định triều phục là để tỏ rõ người mặc là người có đức. Xưa nay các quan văn võ được ban cấp phẩm phục triều theo chế định. Mỗi phẩm cấp cho một bộ đại triều và thường triều phẩm phục này có trang trí rau tảo, vân mây không giống nhau, viềm tua và màu sắc cũng khác, gấm lựa bất đồng. Hoa văn ấy làm triều phục thêm rực rỡ. Tuy vậy trong hàng quan lại có 11 người do chức dịch được ban cấp phẩm phục có giá trị hơn phẩm hàm; lại có người cùng phẩm hàm không được phẩm phục như thế. Vì như thế nên chế định không phù hợp với phẩm cấp nên phải một lần phải định lại cho xong để sáng tỏ phẩm hàn và tăng vẽ tôn nghiêm nơi triều nghi. Vậy truyền cho Bộ Lễ bàn kỹ quan giai văn võ để định lại triếu phục cho đúng với phẩm hàm rồi tâu lên, đợi trẫm ban sắc chỉ thi hành. Khâm thử ” 1.1.3.2. Nét đặc trưng nổi bật trong triều phục hoàng gia nhà Nguyễn Bộ mặt của một nhà nước phong kiến ngoài kinh tế, chính trị, giáo dục còn thể hiện trong văn hóa mặc. Mỗi một triều đại đi qua đều để lại những dấu ấn riêng biệt về phong cách, đặc điểm trang phục cung đình, và hoàng gia triều Nguyễn cũng vậy. Thậm chí, vấn đề y phục ở triều đại này còn được biên soạn trong quyển 78 và 242 để luận về việc ăn mặc của các bậc vua chúa, quý tộc, tập hợp trong Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ. Trong ăn mặc bình dân, người ta thường phân biệt y phục đông, hè, tức là đồ mặc lúc nóng, lúc lạnh, nhưng đối với phục sức của một vương triều, họ quan tâm đến cách biểu hiện về quyền lực và đẳng cấp cao thấp, hơn là thời tiết. Trong chuỗi phát triển của phục trang Việt Nam, phục trang nhà Nhà Nguyễn nằm ở gia đoạn cuối nên đã tổng kết rất nhiều loại phục trang vương triều đi trước và gần nhất là Mãn Thanh. - Phần mô tả: Về chất liệu Trang phục của các thành viên trong Hoàng tộc đều được may từ loại vải cao cấp. Triều đình nhà Nguyễn phải mua từ Trung Quốc, trong đó gấm đoạn thường mua ở Nam Kinh và Giang Nam. Phụ kiện Vàng bạc, đá quý… là những phụ kiện ưa thích của hoàng gia Nguyễn, gắn lên trang phục để tôn lên vẻ sang trọng và uy nghiêm. Trong sách Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ có ghi, chiếc mũ mà vua đội lúc thượng triều bàn việc lớn được gắn 31 hình rồng bằng vàng, 30 đóa hoa vuông tọa trên khảm 12 ngọc, đính thêm 140 hạt kim cương và trân châu. Còn mũ của hoàng hậu có 9 con rồng, 9 con phượng bằng vàng, 4 trâm bạc có gắn tổng cộng 198 hạt trân châu cùng 231 hạt pha lê… Tất cả đều là sản phẩm thượng hạng. Họa tiết Áo và mũ vua có thêu hình rồng, áo các hoàng nam là lân. Trang phục hoàng hậu thêu hoa và chim phượng (có 3 dải đuôi), áo công chúa thêu chim loan (khác chim phượng ở chỗ chỉ có 1 dải đuôi). Cùng là rồng nhưng rồng trên áo vua thì có 5 móng; trên áo của Thế tử là rồng 4 móng. Và nếu trên áo vua, hậu trang trí những con rồng có dáng vẻ uy nghi, đường bệ thì trên áo mũ của hoàng thân, tôn tước chỉ được phép là những con mãng, con giao (các hóa thân ở thứ bậc thấp hơn của rồng). Trên áo mão của hoàng thái hậu và hoàng hậu trang trí hoa văn đoàn phượng (tức chim phượng uốn lượn trong hình tròn), với những đường nét sinh động, được thêu dệt công phu thì trên áo của công chúa và cung giai đã được biến tấu thành chim loan, chi tiết đi kèm cũng không nhiều bằng. Ngoài ra còn có họa tiết là chữ Hán và cũng có sự phân hóa. Với áo vua, các chữ Phúc, Lộc, vạn Thọ được theo nổi, to rõ theo lối chữ triện, được nạm trân châu hay thêu kim tuyến. Trong khi các chữ này trên áo phụ nữ thường nhỏ hơn và dệt chìm trên mặt vải, thường phác họa bằng chữ chân và không đính gì. Phân loại Xét về mục đích, hoàn cảnh, thời tiết thì trang phục của vua chúa được chia ra thành các loại: trang phục đại triều hay thường triều; trang phục nghi lễ hay thường phục; trang phục các mùa… với những tên gọi khác nhau. Nói tới nghi lễ nhất định không thể quên lễ tế Nam Giao. Trong dịp này, áo gọi là cổn, màu đen, tay áo được may rất rộng, thêu lưỡng long triều nhật dọc theo hai vạt trước, đầu vua đội miện (chính là mũ). Trong hội tịch điền, đích thân nhà vua sẽ phải xuống ruộng, trang phục bớt rườm ra, phô trương hơn. Đó là áo sa kép màu gạch non, có các chi tiết rồng nhỏ ẩn mình 13 trong mây. Long cổn vua mặc trong lễ tế đàn Nam Giao, lễ tế trời đất quan trọng nhất của Hoàng tộc và của đất nước. Nếu như trong phục trang quần áo ít khi thay đổi thì mũ và giày lại hay thay đổi. Những mẫu giày của Hoàng gia Huế khá phong phú và đẹp mắt. Theo tiến sĩ Đoàn Thị Tình, trong cuốn Trang phục Việt Nam, ngoài 7 kiểu dép, guốc và 6 loại giày thông thường khác nhau thì có 8 loại hài cho các bậc quyền quý như: văn hài, hài bịch gót, hài chân hoa, hài vua, hài hoàng hậu, hài hoàng tử, hài thổ quan và hia ống cao. Mỗi loại đều được thiết kế rất chuyên nghiệp. Đi kèm với trang phục đại triều là đôi hài thêu rất cầu kỳ. 1.2. Những nét riêng và độc đáo của Triều phục hoàng gia Việt Nam 1.2.1. So sánh Triều phục Hoàng gia Nhà Nguyễn Việt Nam và triều phục hoàng gianhà mãn Thanh Trung Quốc Hoàng bào của vua nhà Thanh Trong quá trình tổng hợp và phát triển của mình, Hoàng phục nhà Nguyễn đã kế thừa Triều phục hoàng gia nhà Mãn Thanh. Tính kiểu cách và 14 nhiều màu sắc của Mãn Thanh được vận dụng phần nào nhưng phom áo quần, kết cấu may cắt được học tập rất tinh khéo. Mỗi quan hệ này dù chưa được nghiên cứu một cách thống nhất nhưng những tiếp nhận và ảnh hưởng là không thể tránh khỏi. Vì bao giờ phong kiến Việt cũng coi trọng Thiên triều Trung Hoa như một mẫu mực. Bảo tàng văn vật Tô Châu vẫn còn giữ những mô phỏng trang phục vua nhà Thanh.Áo bào của vua nhà Thanh cũng với các chi tiết mặt trời, trăng, sao,cành rong,lưỡi búa, cung tên thường có trên y phục đại triều của vua Nguyễn.Cũng là áo tay thụng, nhưng áo của vua Nhà Thanh được cắt thẳng từ 2 bên sườn nên khi chưa mặc,trông thành 1 khối hình học vuông, khác lối tay hụng chéo ở Việt Nam. Giống với nhà Thanh, nhà Nguyễn ở gấu áo cũng có những cột dọc ở dưới họa tiết song ba đào bên trên nâng con rồng ( phượng) bay lên. Nhà Thanh là một triều đại do dòng họ Ái Tân Giác La ở Mãn Châu thành lập. Khi đó, Mãn Châu là một địa danh nằm tại phía bắc bán đảo Triều Tiên và phía Đông Bắc Trung Quốc. Hiện nay, vùng đất này bị phân chia giữa khu vực Viễn Đông Nga với Đông Bắc Trung Quốc. Nhà Thanh cũng là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc và Mông Cổ. Triều đại này từng được tộc người Nữ Chân (đứng đầu bởi Nỗ Nhĩ Cáp Xích) xây dựng với quốc hiệu Đại Kim vào năm 1616 tại Mãn Châu - sử sách gọi là nhà Hậu Kim (để phân biệt với nhà Kim cũng của người Nữ Chân, từng tồn tại vào thế kỷ 12-13). Cho đến năm 1636, Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành Đại Thanh, và mở rộng lãnh thổ vào lục địa Đông Á cũng như các khu vực xung quanh. Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị của Trung Quốc (1644-1659), Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây Tạng (1751), Tân Cương (1759), hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu. Trong thời gian trị vì, nhà Thanh đã củng cố quyền quản lý của họ đối với Trung Quốc, hoà nhập với văn hoá Trung Quốc, và đạt tới tầm ảnh hưởng cao nhất của Đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của họ đã 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan