Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Năng lực làm chủ của người dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt...

Tài liệu Năng lực làm chủ của người dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay (tt)

.PDF
26
72
122

Mô tả:

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LÊ THỊ PHƯỢNG NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Mã số: 60 22 03 01 Đà Nẵng - 2019 Công trình được hoàn thành tại TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Sơn Hoan Phản biện 1: ………………………………………. Phản biện 2: ………………………………………. Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Triết học họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng vào ngày tháng năm 20 Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng - Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, trở thành trung tâm trong mọi chiến lược phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Chăm lo phát triển năng lực con người trong các hoạt động sống, hoạt động xã hội chính trị, đảm bảo các quyền làm chủ của con người trong đời sống xã hội là mục tiêu nghiên cứu của các nhà khoa học chính trị nhằm tháo gỡ những ràng buộc về thể chế, khai thác tiềm năng, khơi dậy tối đa năng lực làm chủ của con người trong chinh phục khoa học công nghệ, tri thức, làm chủ đời sống, đó cũng là mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta đã và đang hướng tới. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” là một trong những phương hướng chủ yếu, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất cả vì con người, duy trì và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Nhân dân là người làm chủ của đất nước, pháp luật được xây dựng trên cơ sở ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi người dân, phát huy tính tối đa năng lực làm chủ của người dân. Với sự phát triển, từng bước hoàn thiện các thể chế pháp lý, luật pháp đã đạo điều kiện ngày càng tốt hơn để mọi người dân được bình đẳng, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được bảo vệ. Mọi công dân 2 đều có quyền nâng cao trình độ nhận thức, tiếp cận tri thức mới, làm chủ khoa học và công nghệ, biến khoa học kỹ thuật thành hành động và kỹ năng, đáp ứng yêu cầu làm chủ đất nước trong thời đại mới. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, năng lực làm chủ của người dân ở Việt Nam hiện nay, nhìn chung, vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục như: năng lực nhận thức pháp luật chưa cao, thiếu chủ động trong tự nghiên cứu, tiếp cận luật pháp, dẫn đến tình trạng thiếu am hiểu hoặc không làm chủ được hành vi và dễ bị lôi kéo, kích động vào các hoạt động vi phạm pháp luật... Đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu luận giải, tìm kiếm các giải pháp nâng cao năng lực làm chủ của người dân trong điều kiện hiện nay. Trong đó, vấn đề giải quyết mâu thuẫn giữa việc phát huy năng lực làm chủ của người dân với thực tế hoàn thiện thể chế pháp lý, pháp luật đang diễn ra chậm, giải quyết mâu thuẫn giữa quyền và lợi ích hợp pháp của người dân với thực tiễn công tác quản lý hành chính ở nước ta... là một trong những khó khăn lớn, gây cản trở người dân trong việc tối ưu hóa năng lực làm chủ của mình. Những vấn đề này đang đặt ra yêu cầu nghiên cứu cấp thiết, giải quyết những tồn tại vướng mắc về thể chế, rào cản về thể chất, tri thức, văn hóa nhằm phát huy tối đa năng lực làm chủ của người dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề“Năng lực làm chủ của người dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3 2.1. Mục đích của đề tài: Luận văn nghiên cứu năng lực làm chủ, đánh giá thực trạng năng lực làm chủ của người dân, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực làm chủ của người dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của đề tài: Để thực hiện mục đích như trên, đề tài có một số nhiệm vụ sau: - Thứ nhất là, làm rõ lý luận về năng lực làm chủ và lý luận nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. - Thứ hai là, đánh giá thực trạng năng lực làm chủ của người dân trong xây dựng nhà nước pháp quyển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. - Thứ ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực làm chủ của người dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Năng lực làm chủ của người dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ năng lực làm chủ của người dân Việt Nam (những người có đủ quyền công dân) trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận của đề tài: - Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính 4 sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về con người và phát triển năng lực làm chủ của người dân. Đề tài tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị khoa học của các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến nội dung của đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: - Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp: phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn dịch, đối chiếu, so sánh… để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 5.1. Về mặt lý luận: Đề tài hệ thống hóa được lý luận về năng lực làm chủ của người dân và vai trò của năng lực làm chủ trong xây dựng nhà nước pháp quyền. Đề xuất được giải pháp có tính khả thi cho việc nâng cao năng lực làm chủ của người dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. 5.2. Về mặt thực tiễn: Đề tài cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu các vấn đề liên quan đến dân chủ và nhà nước pháp quyền. 6. Kết cấu luận văn Trong các chuyên ngành nghiên cứu triết học, chính trị học và các khoa học nói chung, vấn đề năng lực, năng lực làm cá nhân cũng như năng lực làm chủ của người dân đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học, các nhà nghiên cứu chính trị trở thành tài liệu tham khảo quan trọng cho tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Trong quá trình chọn lọc, nghiên cứu, chúng 5 tôi tạm phân chia thành các nhóm chủ đề những nghiên cứu cơ bản nhau sau: - Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về năng lực làm chủ - Nhóm những công trình nghiên cứu về năng lực làm chủ của người dân - Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng năng lực làm chủ của người dân trong Nhà nước pháp quyền 6 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.1. NĂNG LỰC VÀ NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN 1.1.1. Khái niệm năng lực Thuật ngữ “năng lực” hay (competence) là một thuật ngữ xuất phát từ nguồn gốc Latinh, bắt nguồn của nó là “competentia” với nghĩa cơ bản là gặp gỡ. Trong ngôn ngữ Anh, từ năng lực được sử dụng với nhiều nghĩa khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực nghiên cứu cũng như ngữ cảnh và trong từng tình huống sử dụng cụ thể. Chính vì như vậy mà người Anh nói riêng, các nước sử dụng tiếng anh nói chung đã sử dụng một số từ thay thế để nói về năng lực, ví dụ như: Competence, Ability, Capability, Efficiency, Capacity, Potentiality, Aptitude… Tuy nhiên, thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất vẫn là Competence (hoặc Competency). Tùy vào góc độ tiếp cận mà có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm năng lực. Trên phương diện triết học, năng lực được hiểu “ theo nghĩa rộng là những đặc điểm tâm lý của cá thể điều tiết hành vi của cá thể và cũng là điều kiện sống của cá thể ... Hiểu theo nghĩa đặc biệt thì năng lực là toàn bộ những đặc tính tâm lý của con người khiến cho nó thích hợp với một hình thức hoạt động nghề nghiệp nhất định đã hình thành trong lịch sử”, “năng lực của con người là sản phẩm của sự 7 phát triển xã hội”, nó “không những do hoạt động của bộ não quyết định mà trước hết là do trình độ phát triển của lịch sử mà loài người đã đạt được. Theo ý nghĩa đó thì năng lực của con người không thể tách rời với tổ chức lao động xã hội và hệ thống giáo dục thích ứng với tổ chức đó”[62, tr.379]. Trong quan điểm các nhà mácxít, năng lực con người được đặt trong tổng hòa về phẩm chất, nhân cách của cá nhân con người. Theo đó, con người là một thể thống nhất giữa cái tự nhiên và xã hội. Tiếp tục kế thừa quan điểm của C. Mác, V.I. Lênin cho rằng, chỉ có thông qua các hoạt động trong thực tiễn, cá nhân mới phát lộ tài năng và những phẩm chất “kết hợp với năng lực hiểu biết về con người, với năng lực giải quyết những vấn đề tổ chức, thì... mới có thể rèn luyện ra những nhà tổ chức lớn” [40, tr.94]. Qua đây có thể thấy rằng, Lênin đã đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ trong xây dựng xã hội mới là phải chú tâm phát triển năng lực cho con người, nâng cao năng lực nhận thức cho người dân, năng lực tổ chức thực tiễn, năng lực hành động, năng lực lãnh đạo đối với đội ngũ lãnh đạo. Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đề cập nhiều đến năng lực cá nhân, trong đó năng lực của cán bộ lãnh đạo luôn được Người quan tâm nhắc nhở. Giữa “đạo đức” và “tài năng”, Người cho rằng, năng lực chính là “tài năng” của con người. Bên cạnh cái đức con người thì tài năng là một yếu tố không thể thiếu được của con người, đặc biệt là đối với người lãnh đạo. Người nói: “người nào có đức mà không có tài thì cũng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa”, “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà 8 không có tài làm việc gì cũng khó”. Mỗi cán bộ phải “chuyên”, phải có “tài”, có năng lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, có năng lực lãnh đạo, quản lý, có năng lực tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,... Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của năng lực, Người đặc biệt chú trọng việc tuyển dụng “những người có năng lực, có đạo đức vào gánh vác công việc to tát của quốc gia”[50, tr.132]. Thông qua những luận giải trên, năng lực có thể hiểu: Năng lực là tổng hợp các thuộc tính riêng có của cá nhân tạo thành khả năng đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra và bảo đảm cho những hoạt động đó đạt kết quả tối ưu. 1.1.2. Năng lực làm chủ của người dân Năng lực làm chủ của người dân có thể được hiểu là tổng hợp những thuộc tính riêng có về trí thức, thái độ và kỹ năng riêng có, tương đối ổn định của người dân tạo khả năng đáp ứng yêu cầu hoạt động nào đó của cá nhân và xã hội, bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả tối ưu. 1.2. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Mặc dù, lý luận về nhà nước pháp quyền đã được nghiên cứu từ rất lâu nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chung nhất về nhà nước pháp quyền được thừa nhận bởi nhiều nhà nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu tùy theo góc độ nghiên cứu, nội dung, mục đích nghiên cứu mà đưa ra những khái niệm khác nhau về nhà nước pháp quyền. Có người đưa ra khái niệm nhà nước pháp quyền trên cơ sở lý 9 luận, có người tiếp cận khái niệm nhà nước pháp quyền từ góc độ cụ thể, song có người đưa ra khái niệm trên cơ sở liệt kê các dấu hiệu đặc trưng của nó, cũng có người tiếp cận khái niệm này bằng cách phân tích mối quan hệ giữa khái niệm nhà nước pháp quyền với khái niệm khác gần gũi. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể hiểu là tổ chức quyền lực công khai trong hệ thống chính trị của xã hội công dân, được xây dựng trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại như: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, nhằm đảm bảo những giá trị xã hội được thừa nhận chung của nền văn minh thế giới – sự tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người, sự ngự trị, tính tối cao của luật pháp trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, trong các lĩnh vực hoạt động nhà nước, sự phân công quyền lực và quyền làm chủ của nhân dân. 1.2.2. Bản chất và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Một là, Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Hai là, Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Ba là, Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. Bốn là, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực. 10 Năm là, trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội. Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo 1.2.3. Mối quan hệ giữa năng lực làm chủ của người dân với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Giữa năng lực làm chủ của người dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với nhau, đồng thời tác động lẫn nhau trong tiến trình xây dựng và phát triển nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự hiện diện của năng lực làm chủ của người dân là một trong những tiêu chí cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không thể xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam nếu không phát huy được năng lực làm chủ của người dân và thực hành dân chủ, bởi dân chủ là bản chất của Nhà nước pháp quyền, là đòi hỏi tất yếu, khách quan của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Mối quan hệ trên được biểu hiện như sau: Một là, nâng cao năng lực làm chủ của người dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi tất yếu, khách quan trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, nhằm bảo đảm bản chất Nhà nước. Hai là, nâng cao năng lực làm chủ của người dân là nhân tố bảo đảm tính thượng tôn pháp luật trong Nhà nước pháp quyền Ba là, Nhà nước pháp quyền hoàn thiện là điều kiện để năng lực làm chủ đạt được sự tối ưu 11 Chương 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1.1. Thực trạng năng lực nhận thức về quyền làm chủ và phương thức thực hiện quyền làm chủ của người dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Sau đổi mới, nhận thức về quyền làm chủ và phương thức thực hiện quyền làm chủ của Đảng và nhân dân ta không ngừng được cải thiện, điều đó thể hiện qua những thành tựu đã đạt được trên tất cả các mặt đời sống xã hội. Người dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về tất yếu khách quan phải chung tay xây dựng nhà nước dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy các quyền làm chủ của người dân trong cuộc sống thực tế. Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, qua hơn 70 năm lãnh đạo đất nước và hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhân dân ta đã không ngừng làm phong phú lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện các phương thức thực hiện quyền làm chủ của mình. Dân chủ xã hội chủ nghĩa trở thành mục tiêu cao cả mà toàn Đảng, toàn Nhân dân ta luôn hướng đến, quyết tâm biến điều đó thành hiện thực. Hiện nay, đại đa số người dân đều cảm nhận được tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, không ảo tưởng kỳ vọng ở hoàn thiện chế độ dân chủ của nước ta bằng một chế độ “đa 12 nguyên”nào đó, bởi “nhất nguyên” vẫn tập hợp được toàn dân với đầy đủ các thành phần dân tộc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tôn giáo thống nhất lợi ích cơ bản trong thực hiện mục tiêu cách mạng vì độc lập, thống nhất dân tộc, vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, giữ vững truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc và sự ổn định chính trị của đất nước. Truyền thống yêu nước, yêu chuộng hòa bình, góp sức xây dựng và phát triển đất nước đã thôi thúc người dân cùng Đảng và Nhà nước ta tiếp tục sự nghiệp cách mạng vì một xã hội tiến bộ. 2.1.2. Thực trạng năng lực thực hiện quyền làm chủ của người dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Nhận thức rõ vai trò phát huy quyền làm chủ người dân, trong đó, nâng cao năng lực làm chủ của người dân vừa là mực tiêu, vừa là mục đích trong xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn với nâng cao vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc phát triển năng lực nhận thức năng lực làm chủ của người dân, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, quan tâm đầu tư, ưu tiên cho giáo dục và đào tạo. Vì vậy, đã thúc đẩy và cải thiện đáng kể cả về nhận thức và trình độ tiếp cận tri thức khoa học của người dân Việt Nam. 2.1.3. Thực trang thái độ của người dân trước các hoạt động dân chủ và phản dân chủ của người dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Xuất phát từ nhận thức của người dân Việt Nam không ngừng được nâng cao, cả về trình độ tri thức khoa học lẫn trình độ nhận thức lý luận. Nhận thức các vấn đề dân chủ ngày càng sáng tỏ, 13 người dân luôn ủng hộ mọi chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển một đất nước Việt Nam thịnh vượng. Đối với các thế lực phản dân chủ ở nước ta, nhân dân là người trực tiếp tố giác các hoạt động sai trái, vi phạm pháp luật. Nhận thức rõ những hành động sai trái của các hoạt động phản dân chủ, người dân đã tích cực phối hợp cùng các cơ quan Nhà nước tiến hành xử lý cá nhân vi phạm, triệt phá nhiều tổ chức phản động chống phá nhà nước. Các phong trào “Quốc phòng toàn dân“, “Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc“ đã phát huy hiệu quả tích cực nhờ sự hưởng ứng và tham gia tích cực của người dân. 2.2. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ ĐÓ 2.2.1. Một số hạn chế của việc nâng cao năng lực làm chủ của người dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Cho đến nay, năng lực làm chủ của người dân Việt Nam đã được cải thiện, trình độ dân trí, trình độ nhận thức, năng lực trí tuệ của người dân đã được nâng cao lên một tầm mới. Song, nhìn chung vẫn còn thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập, đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Hàng loạt những bất cập trong ngành giáo dục và đào tạo gây ảnh hưởng xấu trong dư luận, làm mất lòng tin của người dân. Việc chạy chức, chạy chữ, chạy trường cho đến vi phạm đạo đức nhà giáo... đã trực tiếp tác động đến chất lượng giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo dục năng lực làm 14 chủ cho người dân Việt Nam. Vì vậy, xét về trí tuệ, tri thức khoa học thì người dân nước ta đã có bước phát triển, song chất lượng chưa cao, việc nâng cao trình độ học vấn đôi khi chưa đảm bảo chất lượng. 2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế về năng lực làm chủ của người dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay Thực trạng những hạn chế trên đều xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự tác động khách quan của cơ chế phát triển toàn cầu hóa, cơ chế kinh tế thị trường cũng như sự lấn át của văn hóa ngoại lai. Bên cạnh đó, cũng có những nguyên nhân nội tại từ bản thân mỗi người dân, sự tồn tại của những yếu kém của Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2.3.1. Giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu cao trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với thực tiễn năng lực làm chủ của người dân còn thấp Hiện nay, đất nước đang đứng trước nhiệm vụ và thách thức hết sức nặng nề. Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, phát huy tối đa quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân gắn liền với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong hoàn cảnh đó, tác động từ cơ chế kinh tế thị trường đến năng lực làm chủ của người dân là rất lớn, biểu hiện ở sự đảo lộn các giá trị trong đời sống chính trị và đời sống xã hội. 15 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với mục tiêu cao cả gắn liền với nâng cao năng lực làm chủ của người dân, đồng nghĩa với đó là nâng cao trình độ tri thức, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm nâng cao khả năng làm chủ khoa học kỹ thuật, làm chủ quyền lợi hợp pháp của người dân. Thì trên thực tế, các điều kiện để năng cao năng lực làm chủ cho người dân vẫn chưa được cải thiện và đảm bảo, điển hình là sự phát triển của giáo dục và đào tạo. 2.3.2. Giải quyết mâu thuẫn giữa việc đẩy mạnh và phát huy năng lực làm chủ của người dân với thực tế việc hoàn thiện thể chế còn chậm, gây cản trở trong việc nâng cao năng lực làm chủ của người dân Ở nước ta hiện nay, rào cản thể thế đã ngăn cản nâng cao năng lực làm chủ của người dân trong đời sống kinh tế lẫn đời sống chính trị và xã hội. Những yếu kém và chậm đổi mới trong thể chế kinh tế làm giảm năng lực của người dân, giảm năng suất lao động, giảm chất lượng, sức cạnh tranh, sự phát triển nhanh cũng như sự phát triển bền vững của kinh tế. Trong nhiều năm qua, nhiều nguồn lực được huy động, phân bổ, sử dụng không hợp lý, kém hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí lớn làm cho kết quả đạt được không tương xứng với tiềm năng, nguồn lực huy động, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, sự phát triển của đất nước thiếu bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường mà thực tiễn ngành giáo dục và đào tạo cũng là một điển hình. Trong nhiều thập kỷ, Đảng và Nhà nước luôn xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, không 16 ngừng quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo và đầu tư cho giáo dục đào tạo. Song chậm đổi mới về cơ chế quản lý đã làm cho chất lượng giáo dục đào tạo ở nước ta không đáp ứng được với yêu cầu phát triển của thời đại. 2.3.3. Giải quyết mâu thuẫn giữa quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, bảo vệ quyền làm chủ của người dân với thực tiễn cải cách hành chính nhà nước đã cản trở người dân phát huy tốt nhất năng lực làm chủ của mình Trong những năm gần đây, cải cách hành chính, chính quyền các cấp luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo quyết liệt, coi đây là một trong những nội dung quan trọng trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, với phương châm xây dựng Chính phủ “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”, công tác cải cách hành chính, nhất là cải cách thể chế đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hết sức coi trọng. Chính phủ đã tiến hành tổng rà soát và ban hành các quy định mới về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương. ... Công tác cải cách hành chính đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số bất cập nhất định. Cụ thể như: chất lượng các văn bản luật còn nhiều hạn chế, từ quy trình xây dựng, ban hành đến áp dụng. Văn bản hướng dẫn thi hành luật ban hành chậm, nhiều văn bản mâu thuẫn với chính luật và các quy định của luật khác thủ tục hành chính 17 vẫn còn rườm rà, nhiều khâu, nhiều công đoạn thừa vẫn chưa được nghiên cứu cắt bỏ. 2.3.4. Giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tạo lập môi trường thuận lợi cho phát triển năng lực làm chủ của người dân với thực tế môi trường xã hội còn nhiều bất cập. Điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống... có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển con người nói chung và phát triển năng lực làm chủ của người dân nói riêng. Nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế gắn với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như hiện nay, việc tạo lập môi trường kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục thuận lợi làm tiền đề, bước đệm để phát triển năng lực của người dân là một yêu cầu vô cùng quan trọng. Ở nước ta hiện nay, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục đã cho thấy nhiều bất cập, hạn chế trong việc tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển năng lực của người dân trên tất cả các mặt. 18 Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT HUY NĂNG LỰC LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 3.1.1. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước Việc thừa nhận chủ thể tối cao quyền lực Nhà nước là của Nhân dân trong Hiến pháp đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng về quyền lực Nhân dân, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tinh thần thượng tôn pháp luật, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tạo điều kiện để người dân phát huy tối ưu hóa năng lực làm chủ của mình. 3.1.2. Phát triển năng lực làm chủ trên nền tảng pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, vấn đề phát triển năng lực làm chủ của người dân đáp ứng yêu cầu thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là yêu cầu tất yếu. Nâng cao năng lực làm chủ gắn liền nâng cao năng lực cá nhân, nâng cao dân trí, nâng cao khả năng tiếp cận tri thức khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới, điều này đặt ra trọng trách lớn lao đối với giáo dục và đào tạo. 3.1.3. Phát triển năng lực làm chủ phải gắn liền với đấu tranh chống hoạt động xuyên tạc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan