Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật việt nam...

Tài liệu Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật việt nam

.PDF
97
5471
150

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HẬU N¡NG LùC HµNH VI D¢N Sù CñA C¸ NH¢N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ HẬU N¡NG LùC HµNH VI D¢N Sù CñA C¸ NH¢N THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI AN HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Thị Hậu MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ ............................................................................................... 7 1.1. Khái quát chung về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự ........................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm năng lực chủ thể.................................................................. 7 1.1.2. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài tại Việt Nam .......................................................... 19 1.1.3. Mối quan hệ giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân.............................................................................. 24 1.2. Khái lược quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực hành vi dân sự của cá nhân ............................................................. 24 1.2.1. Quy định của pháp luật phong kiến về năng lực hành vi dân sự của cá nhân ......................................................................................... 24 1.2.2. Quy định của pháp luật thời kì Pháp thuộc về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.............................................................................. 27 1.2.3. Quy định của pháp luật từ năm 1954 đến 1995 về năng lực hành vi dân sự của cá nhân ......................................................................... 29 1.2.4. Quy định của pháp luật từ năm 1995 đến nay về năng lực hành vi dân sự của cá nhân ......................................................................... 30 1.3. Ý nghĩa của việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân ..... 31 1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự.................................................................................................. 31 1.3.2. Góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên khi tham gia kí kết hợp đồng ............................................................................................. 31 1.3.3. Góp phần ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật ............. 32 1.3.4. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi vụ việc dân sự liên quan đến năng lực hành vi dân sự ...................................................... 32 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN ...................... 33 2.1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân ...... 33 2.2. Các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân ........................ 35 2.2.1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ ......................................................... 35 2.2.2. Năng lực hành vi dân sự một phần..................................................... 37 2.2.3. Người không có năng lực hành vi dân sự .......................................... 40 2.2.4. Người mất năng lực hành vi dân sự ................................................... 41 2.2.5. Năng lực hành vi dân sự bị hạn chế ................................................... 42 2.3. Quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong một số quan hệ pháp luật dân sự cụ thể..................... 43 2.3.1. Năng lực hành vi dân sự của người thành niên .................................. 43 2.3.2. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên ......................... 45 2.3.3. Người mất năng lực hành vi dân sự ................................................... 52 2.3.4. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự ......................................... 55 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN ...................... 57 3.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân ........................................................................... 57 3.1.1. Những bất cập trong quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân.............................................................................. 57 3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân qua một số vụ án ........................................................................ 60 3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân ........................................................................... 76 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật dân sự về năng lực hành vi dân sự cá nhân ....................................................................... 77 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về năng lực hành vi dân sự của cá nhân ......................................................................... 80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự LHN & GĐ: Luật hôn nhân và gia đình TAND: Tòa án nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đáp ứng các nhu cầu trong đời sống, mỗi cá nhân phải không ngừng tham gia các mối quan hệ xã hội, trong đó có các giao dịch Dân sự. Nhằm đảm bảo sự ổn định và trật tự trong quá trình thiết lập và thực hiện các giao dịch dân sự, hướng tới việc thực hiện lợi ích cho các chủ thể tham gia cũng như lợi ích chung toàn xã hội, không phải bất cứ cá nhân nào cũng có quyền tham gia vào các giao dịch dân sự. Pháp luật dân sự nước ta quy định chỉ có những cá nhân có năng lực chủ thể mới có quyền tham gia những giao dịch ấy. Năng lực chủ thể được tạo thành bởi hai thành tố, đó là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Trong đó, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh ra và ai cũng có năng lực pháp luật như nhau. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân được hình thành khi có những điều kiện nhất định và có nhiều mức độ khác nhau tương ứng với khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân đó. Hiện nay, các quyền tự do dân chủ dành cho cá nhân càng ngày càng lớn và đời sống sinh hoạt của mỗi cá nhân rất đa dạng, phức tạp kéo theo sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực giao lưu dân sự. Việc giải quyết những tranh chấp liên quan đến vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự không phải bao giờ cũng thỏa đáng. Bởi vì, cá nhân muốn là chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cần phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định về thể lực và trí lực, trong khi đó, không ít giao dịch dân sự diễn ra trên thực tế mà người tham gia không thỏa mãn những điều kiện về năng lực chủ thể dẫn đến tranh chấp khi thực hiện. Chẳng hạn, người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc tình trạng lợi dụng người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự để tiến thành giao dịch dân 1 sự... Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản pháp luật có quy định liên quan đến năng lực hành vi dân sự vẫn còn những mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến khó khăn cho quá trình áp dụng luật như vẫn chưa có sự thống nhất về thuật ngữ "trẻ em", "vị thành niên", "người chưa thành niên", hay quy định về các độ tuổi tham gia quan hệ pháp luật dân sự còn chưa thống nhất giữa Bộ luật dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình hay Bộ luật lao động… Chính sự thiếu đồng bộ nêu trên cũng khiến cho các nhà làm luật khó khăn trong việc giải thích và áp dụng pháp luật, dẫn đến tình trạng thực thi pháp luật kém hiệu quả, quyền lợi hợp pháp của người dân khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự ít nhiều chưa được đảm bảo. Nghiên cứu năng lực chủ thể nói chung và năng lực hành vi dân sự của cá nhân nói riêng trong quan hệ pháp luật dân sự là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn nhằm xác định tư cách chủ thể cũng như trách nhiệm tài sản của cá nhân khi xác lập, thực hiện quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Do đó, tác giả chọn đề tài "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luâ ̣t Viêṭ Nam" là đề tài luận văn tha ̣c sỹ của miǹ h nhằm tim ̀ hiể u thực tra ̣ng áp du ̣ng các quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, qua đó đề xuấ t kiến nghị nhằ m bổ sung và hoàn thiê ̣n luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các quy định pháp chủ thể không chỉ cho công dân Viê ̣t Nam mà còn cho người nước ngoài cư trú ta ̣i Viê ̣t Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về năng lực hành vi dân sự của cá nhân đã được đề cập khá nhiều trong một số luận văn và bài viết đăng trên các tạp chí. Cụ thể đó là các bài viết và công trình nghiên cứu: Luận văn thạc sỹ Luật học: "Năng lực chủ thể của cá nhân trong giao dịch dân sự" của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hải, năm 2013; Luận văn thạc sỹ Luật học: "Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng của cá nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả 2 Nguyễn Minh Thư; Luận văn thạc sỹ Luật học: "Những quy định chung về quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự", người thực hiện Nguyễn Minh Tuấn; bài viết: "Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về cử người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên" đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 01-2013, kỳ III của Th.s Nguyễn Thị Hạnh; bài viết "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ" của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 5/2013; bài viết: "Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về người chưa thành niên trong tố tụng dân sự Những khó khăn, vướng mắc và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự đối với người chưa thành niên" của TS.Nguyễn Hải An tham luận tại Hội thảo quốc tế của Ủy ban Tư pháp Quốc hội về xây dựng Tòa Gia đình, người chưa thành niên và Luật Tổ chức Tòa án, Hải Phòng ngày 27, 28/2/2014; bài viết "Bàn về năng lực hành vi dân sự của cá nhân : Từ tuổ i đã thành niên đến tuổi kết hôn của nam giới " của TS. Nguyễn Thi ̣Hoài Phương cùng diễn đàn trao đổi xung quanh vấn đề trên đã đề cập đến vấn đề có nên thay đổ i đô ̣ tuổ i thành niên liên quan đế n viê ̣c kế t hôn hay không . Bài viết "Bàn về hợp đồng vô hiệu do được giao kết bởi người bị mất năng lực hành vi dân sự qua một vụ án " của TS.Đỗ Văn Đại được đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số 4 năm 2007, cho thấ y những khó khăn trong viê ̣c xác đinh ̣ mô ̣t người bi ̣mấ t năng lực hành vi dân sự k hi giao kế t hơ ̣p đồ ng . Ngoài ra, Luâ ̣t sư Trương Thanh Đức cũng đề câ ̣p đế n hê ̣ quả pháp lý cùng những vương mắ c từ viê ̣c sử du ̣ng thiế u chiń h xác các cu ̣m từ quy đinh "đô ̣ tuổ i " - căn cứ ̣ xác nhận mức độ năng lực hành vi dân sự trong bài viết "Quản lý người chưa thành niên" của trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 81+82 tháng 4+5/2010... Các bài nghiên cứu trên chủ yếu phân tić h mô ̣t số khiá ca ̣nh liên quan đến quy đinh ̣ về năng lực hành vi dân sự của cá nhân . Do đó, trong toàn bô ̣ 3 quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả tiếp cận vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân mô ̣t cách toàn diê ̣n , xuyên suốt hệ thống các quy đinh ̣ trong hê ̣ thố ng văn bản pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam , đồ ng thời so sánh với quy đinh ̣ của ph áp luâ ̣t nước ngoài về năng lực hành vi dân sự . Kế t quả nghiên cứu của luâ ̣n văn sẽ góp phần ho àn thiện Bộ luật dân sự , tạo sự đồng bộ về mặt pháp lý cũng như thố ng nhấ t trong viê ̣c áp du ̣ng các quy đinh ̣ pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích để làm rõ các khía cạnh về năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong sự so sánh, liên hệ với quy định của pháp luật Việt Nam thời kì trước và quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. 4. Cơ sở lý luận về phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận tổng quan chung của toàn bộ luận văn tác giả dựa trên nền tảng chủ nghĩa Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vâ ̣t lich ̣ sử cùng khoa học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu cu ̣ thể được sử dụng để tiến hành nghiên cứu luận văn bao gồm phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh, thống kê để từ những quy định chung đi đến giải quyết từng lĩnh vực cụ thể, sau đó quay lại phân tích và khẳng định những quy định chung đó. 5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài giúp cho tác giả tiếp cận và đánh giá toàn diện về vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ khái niệm đến các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân , năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong các quan hệ pháp luật. Từ đó, tác giả đưa ra những lập luận, đánh giá ưu điể m, hạn chế của các quy định năng lực hành vi dân sự của cá n hân về mă ̣t 4 pháp lý và thực tiễn áp dụng . Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu luận văn, những kiến thức tìm hiểu được sẽ phục vụ hiệu quả cho công việc của tác giả sau này. Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được xác định trên những khía cạnh sau: - Làm rõ khái niệm năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân; - Phân tích nội dung năng lực hành vi dân sự của cá nhân và các quy đinh ̣ liên quan theo pháp luật Việt Nam hiện hành; - Xem xét trách nhiệm, tư cách tố tụng của các chủ thể thông qua quy định về năng lực hành vi dân sự. - Thực tiễn áp dụng các quy định trên thực tế thông qua việc phân tích những vụ án cụ thể , qua đó đề xuất kiến nghị góp hoàn thiê ̣n vướng mắ c , bấ t câ ̣p của quy đinh ̣ pháp luâ ̣t. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn là kết quả nghiên cứu khoa học, sự tìm tòi, học hỏi, hướng dẫn của thầy cô và thực tiễn công tác xét xử về năng lực hành vi dân sự của cá nhân, những đóng góp của luận văn được thể hiện cụ thể trên những phương diện sau: - Khái quát những vấn đề cơ bản về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật dân sự nói riêng, giúp cho mọi người khi nghiên cứu về năng lực hành vi dân sự của cá nhân có cách nhìn khái quát, toàn diện các vấn đề về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. - Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân thong qua một số vụ việc cụ thể. - Phân tích những bất cập của các quy định pháp luật dân sự hiện hành về năng lực chủ thể cũng như các vấn đề có liên quan đến năng lực hành vi 5 dân sự của cá nhân. Qua đó, đưa ra đề xuất, kiến nghị thiết thực để hoàn thiện quy định pháp luật tương ứng. - Luận văn là tài liệu quan trọng giúp cho cán bộ nghiên cứu, cán bộ làm công tác thực tiễn hiểu rõ và xác định các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng như hiệu lực pháp lý của các quan hệ pháp luật dân sự mà cá nhân tham gia. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn cao học với đề tài: "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật Việt Nam" thuộc chuyên ngành Luật dân sự, ngoài phần Tổng quan, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo còn được kết cấu bởi ba chương: Chương 1. Lý luận chung về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong quan hệ pháp luật dân sự. Chương 2. Quy định của pháp luật hiện hành về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Chương 3. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. 6 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ 1.1. Khái quát chung về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự 1.1.1. Khái niệm năng lực chủ thể Chủ thể là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc hình thành các quan hệ pháp luật. Việc xác định chủ thể của một ngành luật và các điều kiện liên quan đến năng lực chủ thể của ngành luật đó là do đặc thù của quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của một ngành luật. Xuất phát từ tính đa dạng và phong phú của các quan hệ dân sự phát sinh trong đời sống của xã hội nên chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng với đặc điểm riêng biệt của từng loại chủ thể. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá nhân là công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch; pháp nhân; hộ gia đình; tổ hợp tác và trong nhiều trường hợp Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự. Dưới góc độ khoa học pháp lý, cá nhân, tổ chức đáp ứng được những điều kiện do pháp luật quy định trong từng loại quan hệ nhất định là chủ thể của quan hệ pháp luật. Vì vậy, để trở thành chủ thể quan hệ pháp luật thì cá nhân, tổ chức phải có năng lực chủ thể đầy đủ. Không phải mọi cá nhân đều có thể tự mình tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Khi cá nhân muốn tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cần đáp ứng điều kiện quan trọng đầu tiên về năng lực chủ thể. Vậy năng lực chủ thể là gì? Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: năng lực chủ thể của cá nhân là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu 7 cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Tâm lý học chia năng lực chủ thể của cá nhân thành các dạng khác nhau như năng lực chung và năng lực chuyên môn. Còn hiểu theo tính chất tâm sinh lý, năng lực chủ thể của cá nhân được hiểu là quá trình con người tiếp thu kiến thức, kỹ năng có thể sử dụng khi hành động. Trong cùng một điều kiện, hoàn cảnh nhưng mỗi cá nhân khác nhau có thể tiếp thu các kiến thức, kỹ năng với mức độ khác nhau. Có người tiếp thu nhanh nhưng cũng có người phải mất nhiều thời gian và sức lực mới tiếp thu được. Cho đến nay, bộ luật dân sự vẫn chưa chính thức đưa ra khái niệm về năng lực chủ thể. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định hiện hành của BLDS về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân, có thể rút ra khái niệm về năng lực chủ thể như sau: Năng lực chủ thể của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi có ý chí của mình nhằm xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự khi được pháp luật trao quyền hoặc phải gánh vác nghĩa vụ. Năng lực chủ thể của cá nhân được tạo thành bởi hai thành tố là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Trong đó, năng lực pháp luật dân sự là quyền xử sự của chủ thể do pháp luật ghi nhận và cho phép thực hiện. Còn năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng tự có của chủ thể trong việc thực hiện, kiểm soát và làm chủ hành vi. Mọi chủ thể đều có năng lực pháp luật giống nhau nên cần xem xét yếu tố năng lực hành vi dân sự của cá nhân để xác định tư cách chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự. 1.1.1.1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân Khoa học pháp lý không phân chia năng lực pháp luật dân sự của người chưa thành niên hay người thành niên mà chỉ có khái niệm chung về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Năng lực pháp luật dân sự được coi điều kiện cần không thể thiếu khi cá nhân tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Bộ luật 8 dân sự các nước trên thế giới hầu hết không đưa ra khái niệm năng lực pháp luật dân sự mà đưa ra quy định khẳng định năng lực pháp luật bắt đầu từ thời điểm cá nhân được sinh ra. Tại BLDS Nhật Bản, quyền năng của một thể nhân chính có từ khi con người sinh ra và không ai không có quyền năng. Tương tự, Điều 15 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan cũng quy định: "Năng lực pháp luật bắt đầu từ khi một đứa trẻ ra đời và kết thúc bằng cái chết" [38, Điều 15]. Như vậy, theo pháp luật các nước, năng lực pháp luật dân sự chỉ khả năng hưởng quyền của cá nhân sau khi được sinh ra. Trong khi đó, BLDS Việt Nam năm 2005 đưa ra một khái niệm cụ thể về năng lực pháp luật dân sự:"Năng lực pháp luật dân sự cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự" [10, Điều 14]. Quy định này của BLDS dẫn đến cách hiểu là năng lực pháp luật dân sự của cá nhân bao gồm khả năng có cả quyền dân sự và cả nghĩa vụ dân sự, không phù hợp với cách hiểu chung về năng lực pháp luật dân sự trong pháp luật dân sự của các nước trên thế giới. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội tại mỗi thời điểm lịch sử nhất định. Điều này phụ thuộc vào đường lối, chính sách của giai cấp thống trị trong xã hội trong từng thời kì lịch sử. Chẳng hạn, theo pháp luật nước ta trước năm 1980, Nhà nước cho phép cá nhân có quyền tư hữu về đất đai. Sau năm 1980 và đến Hiến pháp năm 1992 quy định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước làm đại diện chủ sở hữu" [44, Điều 17], cá nhân có quyền chuyển dịch và sử dụng đất đai. Hiện nay, Nhà nước ta không ngừng tạo ra những nền tảng vững chắc để đảm bảo năng lực pháp luật của công dân được thực thi trên thực tế. Các quốc gia có lịch sử phát triển, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau thì quy định về năng lực chủ thể cũng khác nhau. Nhà nước của 9 mỗi quốc gia có quy định riêng về các quyền công dân được hưởng. Nếu như Nhà nước tại Liên bang Mỹ, Cộng hòa liên bang Đức hay Cộng hòa Pháp công nhận chế độ tư hữu đất đai thì nhà nước của Việt Nam không công nhận quyền năng này. Năng lực pháp luật dân sự không phải là thuộc tính tự nhiên, vốn có của chủ thể. Nó do Nhà nước cầm quyền quy định và dành cho công dân nước mình, Bởi vậy, năng lực pháp luật mang tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau, năng lực pháp luật dân sự cũng được quy định khác nhau.Trong lịch sử nhân loại đã từng có một nhóm người không được thừa nhận là chủ thể của các quan hệ xã hội mà là khách thể của các quan hệ xã hội đó. Điển hình như trong xã hội chiếm hữu nô lệ, những người nô lệ chỉ là công cụ lao động bị chủ sở hữu mua đi bán lại như đồ vật. Năng lực pháp luật dân sự luôn gắn liền với mỗi chủ thể, không thể chuyển giao cho người khác. Trong lịch sử pháp lý ở nước ta đã từng sử dụng khái niệm này khi xác định nội dụng nghĩa vụ dân sự của cá nhân. Chẳng hạn Điều 676 Bộ luật dân sự Trung Kỳ 1936 định nghĩa: Nghĩa vụ dân sự là mối liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên, bó buộc một người hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó", hay "Nghĩa vụ là cái dây liên lạc về luật thực tại hay luật thiên nhiên bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó [20, Điều 641]. Tuy nhiên, nghĩa vụ về luật tự nhiên là nghĩa vụ mang tính luân lý, được đưa vào trong khái niệm nghĩa vụ cho phù hợp với truyền thống, nhưng chỉ mang tính hình thức, ngược lại với nghĩa vụ về luật thực tế: Nghĩa vụ về luật thực tế là những nghĩa vụ mà có thể dùng các cách về luật pháp và quan pháp, nhất là cách tố tụng trước tòa án để 10 bắt người mắc nợ phải thi hành. Nghĩa vụ về luật thiên nhiên thì không thể tố tụng trước tòa án được. Luật pháp không can thiệp vào sự thi hành các nghĩa vụ về luân lý cùng tôn giáo [20, Điều 642]. Khoản 1, khoản 3 Điều 14 BLDS năm 2005 quy định: 1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự…. 3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết [10, Điều 14]. Như vậy, cá nhân không được phép tự hạn chế năng lực dân sự của mình và của người khác. Một tuyên bố đơn phương về việc khước từ hay hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân đều không có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, Điều 16 BLDS năm 2005 quy định: "Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định" [10, Điều 16]. Quy định này cho thấy năng lực pháp luật dân sự của cá nhân mang tính chất "vừa tĩnh vừa động". Điều này có thể hiểu: Năng lực pháp luật luôn luôn và chỉ do Nhà nước quy định cho cá nhân trong các văn bản pháp luật, thể hiện dưới dạng các quy định pháp lý, tự cá nhân không thể thay đổi và cũng không thể bị hạn chế: Thứ nhất: Nếu nhìn một cách tổng quan, nội dung năng lực pháp luật là một phạm trù mở và không bị hạn chế về sự vận động và phát triển. Nó có thể được bổ sung nếu điều kiện thực tế cho phép thay đổi. Nội dung của năng lực pháp luật là thuộc tính không thể tách rời của pháp luật, chịu sự tác động của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Thứ hai: Năng lực pháp luật dân sự nếu xét về hình thức và cơ sở tồn tại thực thế thì không thể nằm ngoài các quy định pháp luật cụ thể. Vì vậy, năng lực pháp luật dân sự bị quy định bởi khả năng thực tế của quá trình xây dựng pháp luật. Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà nội dung năng lực 11 pháp luật dân sự của cá nhân có thể bị hạn chế. Điều này có thể thấy rõ trong các trường hợp như: Khi có văn bản quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung quy định cá nhân không được thiết lập các quan hệ pháp luật cụ thể hoặc khi có quyết định áp dụng pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có tính chất cá biệt đối với một cá nhân trong điều kiện, thời hạn nhất định. Ví dụ, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an nhân dân quận A ban hành lệnh cấm bị can C đi khỏi nơi cư trú, tức là đã hạn chế năng lực pháp luật cụ thể của C trong một thời gian xác định. Tuy nhiên, xét về bản chất, hai trường hợp nêu trên không phải là sự tước bỏ năng lực pháp luật dân sự của cá nhân mà là tạm đình chỉ khả năng hưởng quyền của chủ thể, khả năng biến quyền khách quan thành quyền chủ quan của chủ thể riêng biệt. Biện pháp này sẽ được thay đổi nếu Nhà nước thấy không cần thiết nữa và phục hồi khả năng hưởng quyền thực thế cho cá nhân. Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật dân sự, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, tôn giáo, dân tộc... Quy định này chưa hoàn toàn chính xác vì thực chất năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không hoàn toàn giống nhau. Đặc biệt là khả năng để cá nhân có các quyền gắn với nhân thân và bản chất sinh lý của con người như các quyền kết hôn. LHN&GĐ quy định giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời hay giữ những người cùng giới tính không được phép kết hôn với nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân sự chủ quan của cá nhân mà bản thân năng lực dân sự chỉ là tiền đề để cho các cá nhân có quyền dân sự cụ thể do Nhà nước quy định. Thời điểm bắt đầu năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được ghi nhận trong BLDS năm 2005 có căn cứ xác định duy nhất là vào thời điểm cá nhân được sinh ra. Có thể nói, quy định này tương đồng với nhiều bộ luật dân sự 12 của các quốc gia. Tuy nhiên khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật một số quốc gia còn quy định chính xác thời điểm cá nhân được sinh ra là thời điểm thai nhi hoàn toàn tách ra khỏi cơ thể người mẹ: "Một đứa trẻ trong bụng mẹ có thể được hưởng quyền miễn là nó sống, sau khi ra đời" [38, Điều 15]. Bên cạnh quy định mang tính nguyên tắc chung về thời điểm bắt đầu năng lực pháp luật dân sự, bộ luật dân sự hiện hành cũng đưa ra các trường hợp ngoại lệ, theo đó, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có hiệu lực hồi tố. Theo quy định tại điều 635 BLDS năm 2005: "Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người thừa kế để lại di sản chết" [10, Điều 635] và khoản 1 Điều 685 BLDS năm 2005: Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, được hưởng, nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng [10, Điều 685]. Cả hai điều luật cho thấy cá nhân được xem là đã có năng lực pháp luật dân sự kể từ thời điểm thành thai nếu được sinh ra và còn sống. Tuy nhiên, bộ luật dân sự Việt Nam mới chỉ dừng lại ở hai quy định cụ thể nêu trên, chưa có quy định mang tính nguyên tắc chung trong việc bảo vệ quyền của thai nhi. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân chấm dứt khi người đó chết. Việc xác định thời điểm chết của một người rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến tư cách pháp lý trong việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật dân sự. Chết có thể hiểu là chết về mặt sinh học hoặc chết theo tuyên bố của Tòa án và theo quy định của pháp luật người đã chết phải được khai tử. Bộ luật dân sự Việt Nam không đưa ra khái niệm về cái chết. Để xác định thời điểm chết của một cá nhân rất khó khăn, nhất là trong trường hợp 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan