1
NÂNG CAO NIỀM TIN KHÁCH HÀNG VÀO HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
LỜI MỞ ĐẦU
SỰ CẦN THIẾT CỦA NGHIÊN CỨU
Ngân hàng được xem là một tổ chức kinh doanh trên chữ “tín”, niềm tin của khách
hàng phản ánh mức độ thành công của ngân hàng, việc có được niềm tin của khách hàng
như một sự đảm bảo về phát triển bền vững của ngân hàng. Ngày nay trong sự phát triển
của xã hội, hình ảnh của ngân hàng đã có nhiều biến đổi, phát triển mạnh hơn, nhiều dịch
vụ hơn. Tuy nhiên, khi kinh tế rơi vào khủng hoảng cùng với sự cạnh tranh gay gắt của
các ngân hàng nước ngoài trong việc mở rộng đầu tư vào thị trường Việt Nam khiến
người dân thận trọng hơn trong việc gửi tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng Việt Nam,
niềm tin ở các ngân hàng này có khả năng giảm sút. Theo đó, dưới sức ép cạnh tranh, đòi
hỏi các ngân hàng trong nước phải tăng cường hiệu quả hoạt động cũng như lòng tinh của
dân chúng để có thể tồn tại, đứng vững và phát triển.Vì vậy, niềm tin của khách hàng là
một yếu tố vô cùng quan trọng để nâng cao nguồn huy động vốn của ngân hàng.
Dựa trên những tình hình trên nhóm chúng tôi quyết định thực hiện đề tài “NÂNG
CAO NIỀM TIN KHÁCH HÀNG VÀO HỆ THỐNG NGÂN HÀNG” nhằm giải quyết các
vấn dề đã nêu trên.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu nghiệp vụ huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mạitrong giai
đoạn hiện nay (đặc biệt huy động tiền gửi tiết kiệm), phân tích điểm mạnh yếu và đưa ra
giải pháp giúp các ngân hàng nâng cao sức cạnh tranh đồng thời nâng cao niềm tin của
khách hàng vào ngân hàng.
2
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
Ngân hàng được xem là trái tim của nền kinh tế, nền kinh tế có phát triển tốt hay
không phụ thuộc rất lớn vào việc vận hành của hệ thống ngân hàng. Có thể thấy trong
giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hầu hết các quốc gia đều phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn, và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trong
quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, việc mở rông giao thương tạo nên áp
lực cạnh tranh rất lớn đối với tất cả các thành phần kinh tế trong nước. Để có thể tồn tại
và phát triển trước đều kiện khắc nghiệt đó đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải
nâng cao sức cạnh tranh như quảng bá sản phẩm, nâng cao chất lượng, cắt giảm chi phí,
mở rộng công nghệ… Mà việc này chỉ có thể làm được khi có vốn, ngân hàng đóng vai
trò quan trọng trong việc cung cấp vốn. Đồng thời ngân hàng cũng là một doanh nghiệp
cũng có nhu cầu vốn, tuy nhiên công tác huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương
mạihiện nay gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trước
việc thâm nhập của các tổ chức tín dụng nước ngoài, khách hàng có rất nhiều sự lựa chọn,
vì thế vấn đề tạo niềm tin, nâng cao uy tín là vấn đế hết sức cấp bách của các ngân hàng
trong nước nhằm giữ vững vị thế, cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với ngân
hàng bạn.
GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
Từ 2009 đến nay, xét toàn bộ hệ thông Ngân hàng trong nước.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phân tích chuỗi thời gian.
Khảo sát, phân tích, đánh giá số liệu khảo sát.
Phân tích thành tố.
Phân tích, đánh giá nguốn số liệu sơ cấp.
3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC HUY ĐỘNG VỐN
(NGUỒN HUY ĐỘNG TỪ TIỀN GỬI) CỦA CÁC NGÂN HÀNG
1.1 Vai trò huy động vốn và công tác huy động tiền gửi cá nhân đối với ngân hàng
thương mại
Như ta biết vốn ngân hàng được hiểu là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương
mại huy động và tạo lập được để thực hiện cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân
hàng. Gồm có hai nguồn vốn lớn là vốn huy động và vốn đi vay. (Ở đây chúng tôi chỉ đi
sâu nghiên cứu nghiệp vụ huy đông vốn của ngân hàng thương mại. Từ đây đến cuối bài
nghiên cứu khi chúng tôi đề cập đến nghiệp vụ huy động vốn tức ý chúng tôi muốn đề
cập tới huy động chỉ từ tiền gửi tiết kiệm.)
Huy động vốn nói chung là nghiệp vụ quan trọng không thể thiếu song hành với
nghiệp vụ tín dụng trong ngân hàng thương mại. Đây là nghiệp vụ tạo vốn cho hầu hết
các hoạt động của ngân hàng. Khi thành lập ngân hàng đã có vốn ban đầu, nhưng số ban
đầu này đã ở dạng vật chất như trụ sở, công cụ, dụng cụ…Vì vậy, để đảm bảo chức năng
cung cấp vốn cho nền kinh tế ngân hàng phải thu hút vốn từ bên ngoài. Đã từ lâu các
ngân hàng thương mại đã biết khai thác nguồn vốn này. Do đây là nguồn vốn huy động
chủ yếu nên thu hút càng nhiều vốn thì ngân hàng thương mại càng có khả năng đạt lợi
nhuận cao hơn vì có vốn mạnh ngân hàng dễ dàng đẩy mạnh nghiệp vụ cho vay và mở
rộng thêm các hoạt động sinh lời khác. Và để có thể làm tốt điều này đòi hỏi các Ngân
hàng thương mại phải có một chiến lược lâu dài và khôn ngoan trong việc thu hút nguồn
tiền dư thừa ngoài công chúng về, qua đó cho thấy tầm quan trọng trong công tác huy
động tiền gửi cá nhân đối với các ngân hàng thương mại, một trong những hình thức huy
động vốn quan trọng.
Thông qua việc huy động vốn mà các ngân hàng đã và đang thực hiện các dịch vụ
trung gian trong nền kinh tế quốc dân, có huy động vốn thì nguồn vốn mới tăng lên. Do
vậy, vốn đầu tư được mở rộng, hoạt động sản xuất kinh doanh được kích thích, sản phẩm
xã hội tăng lên, từ đó mà đời sống nhân dân được cải thiện. Việc huy động vốn của ngân
hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, thông qua con đường
tín dụng nó tài trợ cho các hoạt động công thương nghiệp, nông lâm ngư nghiệp của cả
4
nước. Thực tế cho thấy dù các doanh nghiệp lớn mạnh cũng không thể có một lượng vốn
lớn hơn tổng số tiền dự trữ của dân chúng. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền nhỏ
nhưng tập hợp lại sẽ trở thành một nguồn vốn lớn. Thông qua các hình thức huy động
vốn, mà tiêu biểu là công tác huy động tiền gửi cá nhân, phần lớn số vốn tích trữ tập
trung qua hệ thống ngân hàng và đưa vào công cuộc đầu tư mang tính chất sản xuất tạo ra
của cải cho xã hội. Mặt khác, nhờ vào việc huy động vốn ngân hàng thương mại mới làm
tốt chức năng trung gian tín dụng điều hòa tiền tệ từ nơi tạm thời thừa đến nơi tạm thời
thiếu, có như vậy người dân mới được cấp tín dụng, mới có khả năng trang bị đầu vào
cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Một số nguồn vốn huy động chủ yếu của ngân hàng thương mại: tiền gửi thanh
toán của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm, vốn huy động bằng chứng từ có giá.
1.2.1 Tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế
Các tổ chức kinh trong quá trình hoạt động muốn thực hiện giao dịch với ngân
hàng thương mại nào đòi hỏi họ phải mở tài khoản tại ngân hàng thương mại đó. Việc mở
tài khoản này giúp tổ chức kinh tế bảo quản an toàn tiền vốn đồng thời qua đó tổ chức
kinh tế có thể nhận được các dịch vụ tài chính từ ngân hàng thương mại. Về phía ngân
hàng thương mại, việc mở và gửi tiền vào tài khoản của các tổ chức kinh tế giúp cho
ngân hàng thương mại có thể sử dụng được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để bổ sung
nguồn vốn tín dụng. Tiền gửi thanh toán của khách hàng bao gồm tiền gửi thanh toán
không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán có kỳ hạn.
1.2.2 Tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức huy động tiền gửi theo kiểu truyền thống của ngân hàng. Tiền gửi
tiết kiệm là khoản tiền gửi của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được
xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo qui định của ngân hàng nhận gửi tiết
kiệm và được bảo hiểm theo qui định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Mục đích của
5
người gửi tiết kiệm là để hưởng lãi và tích lũy. Xét về tính chất kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
cũng được chia thành hai loại: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có hỳ hạn.
1.2.3 Nguồn vốn huy động bằng chứng từ có giá
Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn,
trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều
kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa các tổ chức tín dụng và người mua. Ở
Việt Nam hiện nay, khi các ngân hàng thương mại cần huy động số vốn lớn trong thời
gian ngắn thì ngân hàng có thể phát hành các loại giấy tờ có giá như kỳ phiếu ngân hàng
có mục đích, trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi…
1.2.4 Vay của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác
Vay qua thị trường liên ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng
trong thời gian ngắn, ngân hàng có thể khai thác các khoản vốn nhàn rỗi từ các ngân hàng,
tổ chức tài chính tín dụng khác. Hoạt động vay mượn này nhằm mục đích điều hòa nhu
cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt liên tục trong hệ thống
ngân hàng…
1.3 Huy động tiền gửi từ cá nhân
1.3.1 Tiền gửi thanh toán
1.3.1.1 Tiền gửi thanh toán không kỳ hạn
Là hình thức tiền gửi mà khách hàng có thể rút vốn ra bất kỳ lúc nào không cần
báo trước cho ngân hàng. Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về tài
sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cũng như các khoản thanh toán trong tiêu dùng của cá nhân đồng thời hạn chế được chi
phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Đối với bộ phận vốn này không
ổn định nên ngân hàng phải thường dự trữ lại với số lượng rất lớn để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng do đó ngân hàng thường áp dụng lãi suất thấp cho loại tiền gửi này.
1.3.1.2 Tiền gửi thanh toán theo kỳ hạn
Là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng có sự thỏa thuận với
ngân hàng để chọn một loại thời hạn gửi tiền thích hợp. Theo nguyên tắc, đối với loại tiền
6
gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra khi đến hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh
tranh mà ngân hàng cho phép khách hàng rút trước kỳ hạn. Trong trường hợp này, người
gửi không được hưởng lãi như tiền gửi có kỳ hạn mà sẽ được áp dụng với lãi suất không
kỳ hạn nếu rút ra trước khi đáo hạn. Đây là nguồn vốn rất ổn định vì ngân hàng biết trước
thời điểm mà khách hàng sẽ rút tiền ra nên ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn
khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gởi tiền của khách hàng.
1.3.2 Tiền gửi tiết kiệm
1.3.2.1 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể gửi tiền, rút tiền theo yêu cầu mà
không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của ngân hàng nhận gửi tiền. Do đó
ngân hàng không chủ động được nguồn vốn nên loại tiền gửi này có lãi suất thấp. Khi gửi
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng sẽ được ngân hàng cấp một sổ tiền gửi tiết
kiệm. Sổ tiền gửi tiết kiệm này sẽ phản ánh tất cả các giao dịch gửi tiền, rút tiền, tiền lãi
được hưởng, số dư hiện có.
1.3.2.2 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi chỉ rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định
theo thỏa thuận với ngân hàng nhận gửi tiết kiệm. Trường hợp người gửi tiền rút tiền
trước hạn thì tùy theo sự thỏa thuận giữa người gửi tiền và ngân hàng khi gửi mà người
gửi tiền được hưởng theo lãi suất không kỳ hạn. Khi gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn thì ngân
hàng cũng được ngân hàng cấp một sổ tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
1.3.2.3 Tiền gửi tiết kiệm có mục đích
Thường là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn, người tham gia ngoài việc được trả lãi
còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các
phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương
mại
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại chịu tác động bởi nhiều nhân
tố, có nhân tố khách quan và có nhân tố chủ quan.
7
1.4.1 Nhân tố khách quan
Thứ nhất, việc cạnh tranh nguồn vốn giữa các ngân hàng thương mại: trong thời
gian gần đây các ngân hàng thương mại đã có một sự cạnh tranh mạnh mẽ về nguồn vốn
và nguồn nhân lực.
Từ cạnh tranh khách hàng để cho vay là chủ yếu, các ngân hàng thương mại
chuyển sang cạnh tranh về nguồn vốn, với nhiều cách thức, tính chất tiếp thị ngày càng
tinh vi hơn, quyết liệt hơn, với biểu hiện rõ nét là chính sách khách hàng nguồn vốn được
chú trọng, mạng lưới huy động vốn được mở rộng khắp nơi, nhất là những khu vực tập
trung dân cư, có thu nhập cao.
Thứ hai, do cơ chế, chính sách thay đổi. Đây là những rủi ro bất khả kháng, không
chỉ đối với các ngân hàng mà ngay cả đối với khách hàng của ngân hàng. Biểu hiện của
nhóm nhân tố này ảnh hưởng đến nguồn vốn theo các khía cạnh sau:
- Do chính sách của Chính phủ, của bộ ngành chủ quản yêu cầu sử dụng vốn vào
những mục đích có ý nghĩa kinh tế-xã hội nào đó, buộc các tổ chức có nguồn tiền gửi lớn
tại các ngân hàng thương mại phải thực hiện, như mua trái phiếu Chính phủ, đầu tư vào
các công trình quốc gia…
- Do chính sách của bản thân các tổ chức kinh tế - xã hội, như chính sách cơ cấu
lại vốn, chính sách đầu tư phát triển, những khoản bù đắp rủi ro lớn trong kinh doanh…
Như vậy, nếu xét trong cả quy trình tín dụng thì trong khâu đầu tư cho vay các
ngân hàng thương mại có thể chủ động còn khâu huy động vốn thì các ngân hàng thương
mạiphụ thuộc quá lớn và khách quan, không muôn nói là hầu như bị động. Do đó cạnh
tranh về nguồn vốn đã rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro lại càng phức tạp hơn đối với
các ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, đất nước đang trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta đang bắt đầu
thực hiện cam kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày
càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra những
ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng hoạt
động của các ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
8
Tuy nhiên khi hàng rào bảo hộ doanh nghiệp trong nước giảm dần, sức mạnh tài
chính, công nghệ, trình độ quản lý cao của các doanh nghiệp nước ngoài tạo ra sức ép
cạnh tranh mạnh buộc các doanh nghiệp vá các ngân hàng thương mại trong nước phải
điều chỉnh, cơ cấu lại để có thể đứng vững trên thị trường. Bên cạnh đó sự phát triển chưa
bền vững của thị trường chứng khoán Việt nam, sự đóng băng của thị trường bất động
sản và nhiều yếu tố biến động khác trên thị trường cũng tác động không nhỏ tới hoạt
động của các doanh nghiệp và chất lượng tín dụng các ngân hàng thương mại.
1.4.2 Nhân tố chủ quan
- Chính sách lãi suất huy động vốn của các ngân hàng:
Người gửi tiền mong muốn lãi suất tiền gửi cao, an toàn và lãi suất thực để bù đắp
được chi phí cơ hội cho người gửi tiền.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, ưu thế lãi suất thấp, lượng vốn lớn của doanh
nghiệp trong cơ cấu nguồn vốn ngân hàng không còn phổ biến. Khi đa số doanh nghiệp
chia nhỏ số dư tiền gửi ở nhiều ngân hàng, đề nghị được hưởng mức lãi suất như các hình
thức huy động khác, thậm chí một số doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng để được hưởng lãi
suất cao hơn khi có số dư lớn. Chưa kể hàng loạt các tập đoàn kinh tế lớn, các tổng công
ty cũng thành lập ngân hàng cổ phần và chuyển phần tiền gửi trước đây tại các ngân hàng
thương mại về ngân hàng mình.
- Khách hàng mong muốn sử dụng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng thuận lợi, chi
phí thấp. Vì vậy ngân hàng cần đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ để tạo vốn như: vốn nhận
ủy thác, vốn trong quá trình thanh toán, vốn huy động…
- Kĩ thuật, nghiệp vụ trong quá trình huy động vốn phải chính xác, chuẩn mực.
- Xây dựng uy tín, hình ảnh ngân hàng do bản thân ngân hàng tạo nên.
- Công nghệ của ngân hàng về việc gửi tiền, rút tiền – khách hàng có thể gửi tiền ở
một nơi, nhưng có thể rút tiền ở nhiều nơi.
9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU HÚT TIỀN GỬI TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI QUA CÁC NĂM
Năm 2009
Lãi suất cơ bản VND được dự báo duy trì ổn định mức 7%/năm từ đầu năm 2009
cho đến hết năm 2009, cùng với tuyên bố của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn
Văn Giàu về việc ngân hàng nào duy trì lãi huy động trên 10%/năm sẽ bị kiểm tra, kiểm
soát một cách toàn diện, hàng loạt ngân hàng thực hiện các biện pháp nhằm lách luật và
thu hút vốn huy dộng tiền gửi của khách hàng.
Cụ thể: ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà TPHCM (HDBank) trong
một thời gian dài duy trì “đỉnh” lãi suất huy động VND ở mức 10,3%/năm (chỉ còn thêm
0,2% là chạm trần lãi suất cơ bản), ngày 27/10/2009 đã điều chỉnh giảm còn 9,99%/năm.
Hay như Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) chỉ sau một ngày công bố lãi suất 6
tháng của sản phẩm “Tiền gửi siêu lãi suất” là 10,05%/năm, đã phải điều chỉnh giảm lãi
suất này xuống dưới 10%/năm. Tương tự, Ngân hàng TMCP Miền Tây (Western Bank)
cũng đã phải điều chỉnh giảm mức lãi suất cao nhất xuống dưới 10%/năm.
Không kể tới các ngân hàng điều chỉnh lãi suất theo đúng “tín hiệu” của ngân hàng
trung ương, một loạt các ngân hàng TMCP khác trong những ngày đầu tháng 11/2009
này đã tăng khá mạnh lãi suất kỳ hạn ngắn.
Theo thông báo từ Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB), từ ngày 4/11/2009,
lãi suất tiết kiệm VND trên toàn bộ hệ thống có sự điều chỉnh tăng mạnh ở các kỳ hạn
ngắn, tăng dao động từ 0,04 - 0,55 %/năm.
Bên cạnh ưu đãi về lãi xuất, các ngân hàng còn thực hiện khuyến mãi và hậu mãi
nhằm thu hút khách hàng.
Trước đó vào ngày 2/11/2009, Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) điều
chỉnh biểu lãi suất huy động đối VND, lãi suất huy động được điều chỉnh tăng thêm cao
nhất là 1,2%/năm so với biểu lãi suất cũ, mức lãi suất cao nhất là 9,72%/năm.
Có thể thấy rằng, hoạt động điểu chỉnh lãi suất huy động vốn tại các ngân hàng
thương mại hiện nay tập trung ở các kỳ hạn ngắn, còn các kỳ hạn dài đã bị thu hẹp. Ngoài
10
việc tăng lãi suất, nhiều ngân hàng cũng sử dụng các công cụ huy động là kỳ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trong đó lãi suất được đẩy lên đỉnh điểm ở các kỳ hạn ngắn.
Năm 2009 đánh dấu một giai đoạn khó khăn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam
khi trần lãi suất bị hạ thấp, khiến các ngân hàng phải sử dụng nhiều hình thức dể thu hút
vốn tiền gửi.
Năm 2010
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các
tổ chức tín dụng đến cuối tháng 12/2010 ước tăng 1,83% so với cuối tháng 11/2010 và
tăng 27,2% so với cuối năm 2009.
Thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND, từ ngày 15/12/2010, lãi suất huy
động VND bình quân ở mức 12,44%/năm; lãi suất cho vay bình quân ở mức 14,96%/năm
(cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu ở mức 12-14%/năm, lĩnh vực
khác là 15-18%/năm).
Trong tháng 12/2010, Ngân hàng Nhà nước cho biết đã tiếp tục điều hành chính
sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng và yêu cầu
kiềm chế lạm phát của Chính phủ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, hỗ trợ thanh khoản
cho các tổ chức tín dụng.
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay VND vẫn chưa thể giảm xuống mức Chính
phủ chỉ đạo, do áp lực lạm phát có xu hướng tăng, các ngân hàng vẫn gặp khó khăn trong
huy động vốn...
Điểm lại diễn biến tiền tệ, tín dụng, ngoại hối nổi bật trong Quý III/2010, Ngân
hàng Nhà nước cho biết: Tính đến ngày 16/9, tổng phương tiện thanh toán tăng 18,5%,
vốn huy động tăng 21,5%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng 17,81% so với cuối năm
trước. Khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng được đảm bảo.
Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay VND của các tổ chức tín dụng với khách
hàng có xu hướng giảm. Trong đó, lãi suất huy động VND dao động ở mức 10,59 11,2%/năm, giảm 0,2 - 0,3%/năm so với cuối Quý II/2010.
11
Lãi suất cho vay VND ngắn hạn đối với các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và
nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa phổ biến ở mức 12-12,5%/năm; đối với
nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và 12,5 - 13,5%/năm; đối với nhóm ngân hàng
thương mại cổ phần, các loại lãi suất cho vay khác phổ biến ở mức 13 - 15%/năm.
Lãi suất huy động bằng USD tăng khoảng 0,1-0,3%/năm so với cuối quý II và lãi
suất cho vay bằng USD ít biến động.
Tuy vậy, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay VND vẫn chưa thể giảm xuống
mức Chính phủ chỉ đạo do áp lực lạm phát có xu hướng tăng, các ngân hàng vẫn gặp khó
khăn trong huy động vốn...
Không còn “đỉnh” lãi suất huy động VND ở mức 10,3%/năm nhưng mặt bằng lãi
suất tiết kiệm trong thời điểm này được các ngân hàng thương mại đẩy lên khá cao, nhằm
“hút” người gửi tiền.
Nhưng theo thừa nhận của cán bộ một ngân hàng lớn, dù lãi suất đang cao nhưng
việc thu hút tiền gửi khá khó khăn. Trong khi đó, với việc lãi suất cơ bản không thay đổi
đã trở thành “bức tường” kìm hãm dòng vốn chảy vào ngân hàng.
Điều dễ nhận thấy, khi nguồn vốn huy động tăng thấp hơn tăng trưởng tín dụng,
báo hiệu tính thanh khoản của ngân hàng đang gặp khó. Một trong những nguyên nhân
khiến ngân hàng không thu hút được nhiều vốn là do hiện nay có khá nhiều kênh đầu tư
như: chứng khoán, vàng, bất động sản hút tiền nhàn rỗi trong dân cư và doanh nghiệp
hơn. Để giải quyết vấn đề này, nhiều ngân hàng đã dần dần tăng lãi suất huy động vốn
của mình.
Theo đúng chu kỳ kinh tế, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp vào thời điểm cuối
năm thường tăng mạnh. Khi nhu cầu vay vốn của cả nền kinh tế tăng lên thì các ngân
hàng cũng sẽ phải huy động thêm vốn để đáp ứng được nhu cầu này. Theo nhận định, mặt
bằng lãi suất huy động, nhất là lãi suất huy động ngắn hạn từ giờ đến cuối năm sẽ tiếp tục
tăng nhẹ”.
12
Năm 2011
Huy động vốn của hệ thống ngân hàng bất ngờ tăng khá mạnh, trong khi tăng
trưởng tín dụng tiếp tục ở mức thấp.
Ngân hàng Nhà nước vừa công bố thông tin về tình hình hoạt động ngân hàng
trong tháng 12-2011.
Điểm nổi bật trong tháng là sự tăng trưởng trở lại của số dư tiền gửi, sau khi có xu
hướng giảm từ tháng 9-2011.
Cụ thể, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng đến 21-122011 ước tăng 1,46% so với tháng trước, trong đó tiền gửi bằng VND tăng 0,98%, tiền
gửi bằng ngoại tệ tăng 3,52%. So với cuối năm trước, tổng số dư tiền gửi của khách hàng
ước tăng 9,89%.
Trong diễn biến trên, tiền gửi bằng ngoại tệ tiếp tục tăng ở mức cao, dù thời gian
qua Ngân hàng Nhà nước áp cơ chế trần lãi suất huy động USD ở mức rất thấp
(0,5%/năm đối với tổ chức, 2%/năm đối với dân cư).
Cũng theo thông tin trên, tín dụng đối với nền kinh tế đến 21/12/2011 ước tăng
0,77% so với tháng trước, trong đó tín dụng bằng VND tăng 1,05%, tín dụng bằng ngoại
tệ giảm 0,17%. So với cuối năm trước, tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 10,90%.
Như vậy, tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp, trong đó đáng chú ý là tín dụng bằng
ngoại tệ đã giảm nhẹ sau khi có sự bùng nổ kéo dài từ năm 2010 đến cuối năm 2011.
Tính đến đến 21-12-2011, tổng phương tiện thanh toán đã tăng khá mạnh, ước
tăng 2% so với tháng trước, nhưng tính chung chỉ tăng 9,27% so với cuối năm 2010;
trong đó tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tăng 5,52% so với tháng trước và
so với cuối năm trước tăng 5,49%.
Năm 2012
Ngày 10/4/2012, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số
693/QĐ-NHNN về mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán
bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng.
13
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11/4/2012 và thay thế Quyết định
số 407/QĐ-NHNN ngày 12/3/2012 về mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng.
Cụ thể, Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 4%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền
gửi có kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là 12%/năm; riêng Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định
mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng trở lên là 12,5%/năm.
Đốivới lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam có kỳ hạn của tổ chức, cá nhân tại tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát sinh trước ngày Thông tư 08 có hiệu
lực thi hành, được thực hiện cho đến hết thời hạn; trường hợp hết thời hạn đã thỏa thuận,
tổ chức, cá nhân không đến lĩnh tiền gửi, thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài ấn định lãi suất đối với tiền gửi theo quy định tại Thông tư này.
Đồng thời, Thống đốc Ngân hàng nhà nước giao Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân
hàng và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành
kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện quy định về mức lãi suất tiền gửi bằng đồng
Việt Nam; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài vi phạm quy định tại Thông tư 08.
Đối với lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam có kỳ hạn của tổ chức, cá nhân tại tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát sinh trước ngày Thông tư 08 có hiệu
lực thi hành, được thực hiện cho đến hết thời hạn; trường hợp hết thời hạn đã thỏa thuận,
tổ chức, cá nhân không đến lĩnh tiền gửi, thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài ấn định lãi suất đối với tiền gửi theo quy định tại Thông tư này.
Việc hạ lãi suất đã được dự báo trước và chính Ngân hàng Nhà nước sau khi hạ lãi
suất vầ 13% cũng cho biết mỗi quý sẽ hạ lãi suất 1%. Tuy nhiên, động thái hạ lãi suất này
được xem là diễn ra nhanh hơn dự kiến.
Trong khi đó, trên thị trường tiền tệ, sau khi hạ trần lãi suất về 13% được gần 1
tháng, các ngân hàng đã liên tiếp có động thái hạ lãi suất để đẩy mạnh cho vay. Cuối
14
tháng 3, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có yêu cầu 5 ngân hàng quốc doanh lớn phải tiết
giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay.
Đến ngày 11/4/2012 trần lãi suất chỉ còn 12% năm, tình hình này khiến việc huy
động vốn của các ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn, việc cạnh tranh của các
ngân hàng sẽ ngày càng gay gắt hơn và gặp nhiêu khó khăn hơn.
15
CHƯƠNG 3 : NHỮNG LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC THU HÚT VỐN
TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG
3.1 Lợi thế trong việc huy động vốn tiền gửi của các ngân hàng hiện nay
Chiến lược khách hàng của ngân hàng về huy động vốn: Giờ đây, khách hàng có
nhiều cơ hội lựa chọn ngân hàng, mà theo họ là thuận tiện hơn chứ không chỉ là nơi cất
trữ tiền tệ và kiếm lời từ lãi suất. Do đó các ngân hàng nhận thấy cũng cần có chiến lược
khách hàng đúng đắn trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong huy động vốn nói
riêng. Ngân hàng hầu như đã nắm bắt được động cơ, thói quen và những mong muốn của
người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng gửi tiền thông qua phân tích lợi ích
của khách hàng.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng xem xét đặc điểm đối tượng khách hàng mà
ngân hàng tài trợ (xem xét nhu cầu đầu tư, hình thức tài trợ, thị hiếu của khách). Trên cơ
sở những thông tin của khách hàng trong hoạt động huy động và hoạt động sử dụng vốn,
ngân hàng có thể đưa ra hệ thống các chính sách và biện pháp phù hợp để có được qui mô
và cơ cấu nguồn vốn mong muốn. Hệ thống chính sách đáp ứng và gợi mở nhu cầu liên
quan đến huy động vốn bao gồm :
- Huy động với qui mô, cơ cấu, kỳ hạn, lãi suất ra sao cho phù hợp, việc huy động
và sử dụng vốn gắn kết với nhau ra sao.
- Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi ngân hàng. Nhóm
chính sách này nhằm vào việc đánh giá các loại sản phẩm dịch vụ cung cấp và chất lượng
sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị trường đồng thời mở rộng phát triển dịch vụ
mới. Với chiến lược kinh doanh hiệu quả phần nào đã tạo được niềm tin trong công
chúng về tính kinh tế của ngân hàng và tính an toàn khi gửi tiền ở các ngân hàng.
Ngày nay, khách hàng gửi tiền tại ngân hàng luôn mong muốn một nơi có thể đáp
ứng tất cả nhu cầu gửi tiết kiệm về hình thức, kỳ hạn gửi, lãi suất… Ngân hàng luôn nỗ
lực đáp ứng, bởi việc cung cấp đến khách hàng các yêu cầu trên không chỉ đem lại sự hài
lòng, mà còn bảo đảm lợi ích cao nhất cho số tiền gửi của họ. Khách hàng có thể tham
gia nhiều hình thức tiết kiệm theo từng nhu cầu khác nhau như: tiết kiệm hàng tháng lĩnh
16
lãi để chi tiêu, tiết kiệm để dành tiền cưới hỏi, xây nhà, hay các khoản đầu tư dài hạn cho
con đi du học, mua nhà… với mức lãi suất tốt, hình thức gửi và kỳ hạn linh hoạt..
Bên cạnh danh mục sản phẩm đa dạng,hầu hết các ngân hàng còn gửi đến khách
hàng các dịch vụ ngân hàng tiện ích như: eBanking, SMS Banking, Mobile Banking,
thanh toán trực tuyến… giúp họ tiết kiệm thời gian đến ngân hàng mà vẫn có thể quản lý
tài khoản một cách hiệu quả nhất..
Mạng lưới hoạt động rộng khắp cũng tác động không nhỏ đến quyết định lựa chọn
ngân hàng gửi tiết kiệm của người dân. Một số điểm giao dịch được thiết kế theo kiểu
không gian mở, hiện đại, thân thiện, mang lại sự thuận tiện, cảm giác thoải mái, yên tâm
và nhất là tiết kiệm tối đa thời gian giao dịch cho khách hàng.
Một số ngân hàng cũng xây dựng chính sách chăm sóc khách hàng toàn diện với
việc tăng cường hoạt động dịch vụ thu hộ tận nơi theo nhu cầu khách hàng, dành nhiều
ưu đãi cho khách hàng lớn, khách hàng thân thiết… Đặc biệt, thông qua đội ngũ cán bộ
nhân viên năng động, tận tình, có năng lực chuyên môn cao, khách hàng còn được tư vấn
các hình thức tiết kiệm sinh lời cao, giải pháp cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi. Nếu có nhu
cầu, khách hàng còn được nhân viên hỗ trợ hoàn tất thủ tục vay mà không phải tốn thêm
bất kỳ chi phí nào. Xác định khách hàng là trọng tâm phát triển, ngân hàng luôn bảo đảm
tối đa lợi ích cho người gửi tiền.
Tóm lại với tất cả những gì đã làm được các ngân hàng đã và đang tạo ra những
điều kiện thuận lợi trong quá trình huy động vốn của các ngân hàng thương mạiphục vụ
cho hoạt động kinh doanh được tiến hành dễ dàng và có hiệu quả cao.
3.2 Hạn chế trong việc thu hút nguồn vốn tiền gửi của các ngân hàng.
Tuy ngân hàng hoạt động hiệu quả lợi nhuận qua các năm tăng trưởng mạnh,
nhưng ngân hàng cũng có những mặt hạn chế cần phải khắc phục:
- Mặc dù quy mô vốn huy động đều có sự tăng trưởng qua các năm, nhưng tốc độ
tăng trưởng còn chậm, chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng của hoạt dộng tín dụng.
- Nhu cầu tín dụng dài hạn của các tổ chức, dân cư ngày càng tăng do nhu cầu đầu
tư theo chiều sâu của nền kinh tế. Nguồn tiền gửi tiết kiệm có xu hướng ngày càng tăng,
17
nhưng ngân hàng chủ yếu tập trung vào các sản phẩm phục vụ cho tiền gửi theo kỳ hạn.
Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng truyền
thống, nhằm phân tán rủi ro.
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng mới chỉ tập trung chủ yếu huy động bằng
đồng nội tệ. Trong khi tâm lý của dân chúng vẫn ưa chuộng cách giữ tiền bằng vàng hoặc
đôla thì nguồn vốn huy động qua kênh này của ngân hàng cũng chưa đạt được hiệu quả
tối đa so với nguồn lực.
Chi phí trả lãi chiếm tỷ trọng cao nhưng lại có xu hướng giảm thay vào đó là chi
phi lãi lại tăng cao, dẫn đến tổng chi phí huy động của ngân hàng ở mức cao nhưng lại
không thu hút được khách hàng bằng sức hút của lãi suất.
Việc huy động vốn bằng cách mở rộng mạng lưới hoạt động, chiếm lĩnh thị phần
dễ dàng mắc phải cạm bẫy là các ngân hàng dễ dàng rơi vào cái bẫy giàn trải và thiếu
hiệu quả.
Ngoài ra, huy động vốn của ngân hàng còn phải cạnh tranh với các kênh đầu tư
khác như bảo hiểm, thị trường chứng khoán, trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh
nghiệp, trong khi còn phải đáp ứng các nhu cầu tăng vốn và dự trữ theo qui định của
Ngân hàng Nhà nước .
Có một vấn đề là tâm lý của người gửi tiền không ổn định, sự thay đổi lãi suất đã
kéo theo một hệ quả là lượng tiền mặt huy động của các ngân hàng tăng giảm thất thường.
Khi lãi suất huy động của ngân hàng A tăng lên thì lượng tiền cùng với số lượng người
gửi tăng theo, và khi lãi suất huy động của ngân hàng B cao hơn thì một lượng lớn tiền
mặt được rút khỏi ngân hàng A và được gửi sang ngân hàng B. Khách hàng đi gửi tiền
thường không hiểu rõ các điều kiện ràng buộc của các ngân hàng nên khi rút tiền không
đúng kỳ hạn đã phải hưởng mức lãi suất thấp không như kỳ vọng, dẫn đến tâm lý thiếu
lòng tin vào các ngân hàng. Tuy tiền lãi mất đi đối với một khách hàng không đáng kể
nhưng tính đến toàn hệ thống ngân hàng thì việc này đã dẫn đến thiệt hại không nhỏ.
Các ngân hàng thường đưa ra mức lãi suất cao cùng với nhiều chương trình
khuyến mãi hấp dẫn. Thế nhưng kỳ hạn ứng với mức lãi suất đưa ra đó thường là một
năm. Nếu chia bình quân tháng và với một lượng tiền gửi không nhiều thì chi phí cơ hội
18
sẽ cao hơn thu nhập từ tiền lãi. Bên cạnh đó, khách hàng thường không xem trọng mối
quan hệ lâu dài giữa khách hàng gửi tiền - ngân hàng huy động, cho nên việc thay đổi đối
tác trong giao dịch là điều tất yếu xảy ra. Đây cũng có thể xem như là một chi phí nữa mà
khách hàng bỏ ra. Việc tạo dựng được mối quan hệ lâu dài của cả hai phía là một yếu tố
mang đậm tính văn hoá kinh doanh, mà điều này thường cả hai phía đều không xem trọng.
Qua thời gian biến động cho ta thấy rằng tính chuyên nghiệp cũng như văn hoá kinh
doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều yếu kém khi giao dịch không được
đặt trên nền tảng lòng tin mà là lợi ích trước mắt. Chính vì sự mong manh đó nên lượng
vốn trong dân còn rất lớn nhưng với mức lãi suất huy động cao như hiện nay vẫn không
thu hút đáng kể. Và khi khối lượng lớn vốn ấy cứ nằm im thì chúng ta lại tăng chi phí cơ
hội của mình một lần nữa.
Công nghệ ngân hàng chưa được đầu tư theo chiều sâu, sự đầu tư mới chỉ diễn ra ở
một số chi nhánh lớn, việc đầu tư chưa đồng bộ trong toàn hệ thống ngân hàng, gây khó
khăn cho cán bộ nhân viên ngân hàng làm ảnh hưởng đến quá trình giao dịch của khách
hàng.
Mạng lưới hoạt động đã được mở rộng nhưng vẫn còn mỏng, số lượng các chi
nhánh và phòng giao dịch của ngân hàng hầu hết tập trung ở Hà nội và khu vực phía Nam.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng yếu tố này
không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế mà thông qua đó tác động tiêu cực
tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Bên cạnh đó, người dân có xu hướng tiêu
dùng nhiều hơn là tiết kiệm đặc biệt là du lịch, mua sắm… phần nào đã làm giảm nguồn
vốn huy động của ngân hàng.
Ngoài ra thị trường còn nhiều kênh đầu tư hấp dẫn khác đã khiến cho nhà đầu tư
hứng thú hơn với khoản lợi nhuận thu được, lớn hơn gấp nhiều lần so với hình thức tiết
kiệm truyền thống. Do đó, hoạt động huy động vốn của ngân hàng cũng lâm vào tình
trạng khó khăn hơn.
Xu thế hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế của khu vực và trên thế
giới, đã tạo nhiều cơ hội cho các ngân hàng thương mạiViệt Nam. Song bên cạnh đó các
ngân hàng cũng phải đối phó với không ít các thách thức, sự gia nhập của các tổ chức tài
19
chính- ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, sự ra đời và nhập cuộc của các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng, quá trình mở rộng của các ngân hàng trong nước, một phần tạo sự
phát triển của hệ thống tài chính ở Việt Nam, nhưng mặt khác tạo ra sự cạnh tranh sâu sắc
giữa các ngân hàng, nguồn vốn trong xã hội bị chia sẻ, dòng vốn sẽ chảy mạnh vào
những ngân hàng có uy tín, có sản phẩm dịch vụ đa dạng, phong phú,có công nghệ hiện
đại… và tất yếu sẽ xảy ra tình trạng có ngân hàng phát triển đi lên, và tất nhiên cũng có
những ngân hàng bị buộc phải phá sản. Ngoài ra, còn phải kể đén sự thiếu hiểu biết của
khách hàng về ngân hàng, sự không tin tưởng của dân cư đối với các ngân hàng thương
mạicổ phần. Thói quen chi tiêu bằng tiền mặt vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong đại đa số dân cư,
dẫn đến những hạn chế trong việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng…
Bên cạnh đó một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý người dân dẫn đến ảnh
hưởng mạnh trong công tác huy động tiền gửi đó là yếu tố lạm phát, một hệ quả tất yếu
của quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Biểu hiện của việc tác động này khiến tình hình huy
động trở nên khó khăn và vô cùng nan giải:
- Do tâm lý lo sợ trước tình hình lạm phát tăng cao, đồng tiền mất giá nên người
dân có xu hướng tìm đến các kênh đầu tư an toàn hơn như mua vàng và ngoại tệ, thay vì
gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng như trước đây, từ đó làm giảm khả năng huy động vốn
của các ngân hàng.
- Giá cả các mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và tiêu dùng tăng cao làm cho người
dân và các doanh nghiệp sẽ phải chi tiêu nhiều hơn, dẫn đến nguồn tiền nhàn rỗi trong
dân cư và doanh nghiệp giảm đi, trong điều kiện đó, các ngân hàng khó có thể gia tăng
được nguồn tiền huy động.
- Khi lạm phát tăng cao, mặc dù mặt bằng lãi suất huy động của các ngân hàng
cũng đã tăng theo nhưng nếu vẫn chưa thể ngang bằng với tốc độ trượt giá, thì người gửi
tiền vào ngân hàng phải chịu thiệt hại do lãi suất thực âm, từ đó không khuyến khích các
dòng vốn chảy vào ngân hàng.
Ngoài ra việc các Ngân hàng cùng chạy đua tăng lãi suất, phát triển nhiều sản
phẩm huy động vốn mới, áp dụng nhiều hình thức khuyến mại hấp dẫn, tăng thời gian
giao dịch để huy động vốn,… Nguồn vốn huy động từ dân cư đã tăng lên nhưng tăng
20
chưa đạt được so với mong muốn. Thị trường huy động vốn đã có lúc xảy ra tình trạng
lộn xộn và căng thẳng do các Ngân hàng cạnh tranh, chèo kéo khách hàng của nhau, đẩy
lãi suất lên cao. Người gửi tiền “lướt sóng” từ ngân hàng này sang ngân hàng khác để
hưởng lợi từ cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng thương mại. Tình trạng nói trên chỉ
lắng xuống khi ngân hàng nhà nước thực hiện các biện pháp can thiệp hành chính như
quy định trần lãi suất huy động, cấm các hình thức khuyến mại làm tăng trần lãi suất.Tất
cả những yếu tố đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác huy động vốn của các ngân
hàng thương mại.
- Xem thêm -