Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nâng cao hiệu suất tối đa của trích ly cà phê ...

Tài liệu Nâng cao hiệu suất tối đa của trích ly cà phê

.PDF
125
643
72

Mô tả:

1 PHẦN 1: MỞ ĐẦU Cà phê đã được con người biết đến khoảng hơn 300 năm nay, muộn hơn rất nhiều so với nhiều cây lương thực, thực phẩm quan trọng khác. Tuy nhiên, ngày nay cây cà phê đã trở thành một loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới. Sản phẩm của nó là một loại thức uống thú vị không thể thiếu của nhiều dân tộc. Bên cạnh đó, một số mặt hàng thực phẩm như sữa, bánh, kẹo,... được chế biến với sự có mặt của cà phê sẽ làm tăng thêm hương vị và giá trị dinh dưỡng cho sản phẩm. Sở dĩ cà phê được sử dụng ngày càng nhiều vì trong hạt cà phê chứa 0,8 – 3% caffeine, một hoạt chất có tác dụng kích thích thần kinh, giúp tế bào não tăng cường khả năng làm việc, khả năng tư duy và qua đó thúc đẩy hoạt động của hệ tuần hoàn, tăng cường phản ứng của cơ bắp,… Ngoài ra, trong hạt cà phê còn chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người như đường saccharose, đường khử, các protein hòa tan,… đặc biệt là các vitamin B1, B2, B6, B12 và PP có hàm lượng khá cao, đó là những chất cần thiết cho nhu cầu sinh lý của cơ thể chúng ta. Do đó cà phê giúp nâng cao sinh lực, chống mệt mỏi, giúp con người làm việc sáng suốt và thoải mái hơn. Sự sảng khoái và bổ dưỡng mà cà phê mang lại cho con người là do những thành phần hòa tan trong hạt. Trong kỹ thuật chế biến cà phê hiện nay có hai phương pháp chính là chế biến khô và chế biến ướt. Tuy nhiên, xử lý cà phê theo qui trình thông thường chưa mang lại hiệu quả tối ưu cho việc trích ly các thành phần hòa tan có trong hạt. Nguyên nhân của mặt hạn chế này là do sự hiện diện của pectin và cellulose – hai thành phần chủ yếu trong cà phê nhân. Vấn đề đặt ra là sử dụng phương pháp lên men để nâng cao tối đa hiệu suất trích ly của cà phê, từ đó thu được lượng chất hòa tan cao nhất. Cùng với sự phát triển của đời sống và của xã hội, sự phát triển của công nghệ sinh học nói chung, công nghệ enzyme và công nghệ lên men nói riêng đóng một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, đặc biệt trong vấn đề nâng cao khả năng khai thác các thành phần hòa tan của hạt cà phê. Luận văn này không nằm ngoài khuôn khổ đó, chúng tôi nỗ lực nghiên cứu để sản xuất một loại 2 chế phẩm sinh học (chủ yếu là pectinase và cellulase) với tên gọi Biocoffee-1, từ chủng nấm mốc Aspergillus niger và Trichoderma reesei có hoạt tính phân giải mạnh trên đối tượng cà phê nhân, tác động chủ yếu vào hai thành phần chính là pectin và cellulose. Ở Việt Nam hiện nay, có ba loại cà phê nhân chủ yếu được buôn bán và sử dụng phổ biến trên thị trường là cà phê Bi, cà phê Sẻ và cà phê Mokka. Mục đích của đề tài là xử lý ba loại cà phê này bằng công nghệ lên men và công nghệ enzyme, nhằm thu được chất hòa tan cao với hiệu suất trích ly cao nhất. Nội dung nghiên cứu của đề tài bao gồm 4 nội dung: 1. Xác định các thành phần chủ yếu trong cà phê nhân 2. Tạo chế phẩm Biocoffee-1 với hoạt tính cao của pectinase và cellulase 3. Khảo sát các điều kiện tối ưu cho quá trình lên men cà phê 4. Khảo sát sự thay đổi trọng lượng và nhiệt độ của khối ủ Đề tài của chúng tôi là những bước đi đầu tiên cho những nghiên cứu, khảo sát tiếp theo trong việc phát triển sản phẩm cà phê lên men. Đây là một giải pháp nhiều ưu điểm cho quá trình chế biến cà phê và là một hướng đi mới gần gũi với thực tế sản xuất cũng như thực tế cuộc sống, mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho ngành công nghệ thực phẩm, cho nền nông nghiệp quốc gia và cho nhu cầu ẩm thực của người dân Việt Nam chúng ta. 3 PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU Tổng quan tài liệu của chúng tôi gồm 4 phần chính sau: o Tìm hiểu về cà phê o Tìm hiểu về cellulose và pectin – hai thành phần chủ yếu trong cà phê nhân o Tìm hiểu về hệ enzyme cellulase và pectinase o Tìm hiểu về nấm sợi sinh tổng hợp hai hệ enzyme trên TÌM HIỂU VỀ CÀ PHÊ Hạt đã rang Hạt khô Hạt đang khô Xay thành bột Hạt rửa sạch Hoa Cà phê đã pha Hạt lên men Quả đang chín Thịt quả Quả xanh Quả chín Hình 2.1: Qui trình của cà phê từ khi nở hoa cho đến thành phẩm cuối cùng 4 2.1. TÌM HIỂU CÂY CÀ PHÊ Ở TRONG NƢỚC VÀ TRÊN THẾ GIỚI 2.1.1. Lịch sử cây cà phê [20], [21] Tên gọi “coffee” xuất phát từ tiếng Ả rập là “kahwa”, mà lúc đầu là một từ ngữ trong thơ ca dùng để chỉ rượu vang. Do đạo luật của Hồi giáo nghiêm cấm giáo dân uống rượu, nên tên gọi ấy được biến tướng thành coffee, và thông qua tiếng gọi tương đương của Thổ Nhĩ Kỳ là Kahweh trở thành Café (Pháp), Caffee (Ý), Kaffee (Đức), Koffie (Hà Lan), Coffee (Anh), và tên Latin là Coffea dùng trong phân loại giống loài thực vật. Riêng tại Việt Nam, vào năm 1888, thực dân Pháp mang cà phê vào trồng đầu tiên ở nước ta, để rồi từ đó, tên gọi cà phê của Việt Nam là do sự Việt hóa trong phiên âm từ sự phát âm Café của người Pháp mà ra. Theo truyền thuyết kể lại rằng cà phê đã được tìm thấy rất lâu kể từ thời kỳ đồ đá và những tác dụng kích thích của nó đã được ghi nhận từ xa xưa, có lẽ là do việc quan sát các tác dụng ấy qua trạng thái biểu lộ của các động vật gặm cỏ sau khi chúng ăn những trái cà phê hoang dại. Nguồn gốc về địa dư và nông sản ban đầu của cà phê là từ Ethiopia. Từ trước năm 1200, việc tiêu thụ cà phê đã lan rộng từ vùng biển Đỏ tới Aden, Mecca và Cairo. Tại các vùng Ả rập (Arabia) này, các bụi cây cà phê đã được trồng trọt và được tưới tiêu trong hơn một ngàn năm. Cho nên, hạt cà phê mới có tên gọi là Coffea arabica, mặc nhiên thừa nhận rằng nó được canh tác và tiêu thụ phổ biến trong các nước Ả rập, mà quên đi cội nguồn của thứ nước giải khát này là ở xứ sở Ethiopia. Tại Việt Nam, cây cà phê được đưa vào trồng từ năm 1857, trước hết là tại một số nhà thờ ở Quảng Bình, Kontum,… Song mãi đến đầu thế kỷ 20 trở đi thì cây cà phê mới được trồng trên quy mô tương đối lớn của các chủ đồn điền người Pháp tại Phủ Quỳ – Nghệ An và sau đó là ở Đắc Lắc và Lâm Đồng, nhưng tổng diện tích không quá vài ngàn ha. Sau Cách mạng tháng Tám, diện tích cà phê ở miền Bắc được phát triển thêm tại một số nông trường quốc doanh và thời kỳ có diện tích cao nhất là trên 10.000 ha vào năm 1963 – 1964. Ở miền Nam trước ngày giải phóng, vào năm 1975 diện tích cà phê có khoảng 10.000 ha. Cà phê trồng ở miền Bắc trong những năm trước đây chủ yếu là cà phê chè (Coffea arabica). Do điều kiện sinh thái không phù hợp, đặc biệt là có một mùa đông giá lạnh kéo dài, vì vậy cây cà phê vối (Canephora robusta) khó có 5 khả năng phát triển ở miền Bắc, nhiều vùng đã trồng cà phê vối sau phải hủy bỏ vì kém hiệu quả. Diện tích trồng cà phê ở miền Nam trước ngày giải phóng chủ yếu là giống cà phê vối (Canephora robusta), một số diện tích nhỏ cà phê chè được trồng ở Lâm Đồng. Năng suất cà phê vối trong thời kỳ này thường đạt trên dưới 1 tấn/ha, ở một số đồn điền có qui mô vừa và nhỏ cũng đã đạt được năng suất từ 2 – 3 tấn/ha. Ngày nay, nhờ được áp dụng những tiến bộ kỹ thuật, năng suất đã tăng lên rất nhanh. Cà phê Việt Nam luôn luôn là một mặt hàng nông sản quan trọng trên thị trường thế giới và đem về nguồn ngoại tệ xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân. 2.1.2. Tình hình sản xuất, tiêu thụ  Tình hình sản xuất cà phê trên thế giới [11], [20], [36] Trên thế giới hiện nay có trên 75 nước trồng cà phê với diện tích trên 10 triệu ha và sản lượng hàng năm biến động trên dưới 6 triệu tấn. Năng suất bình quân chưa vượt quá 6 tạ cà phê nhân/ha. Trong đó, ở châu Phi có 28 nước với năng suất bình quân không vượt quá 4 tạ cà phê nhân/ha, Nam Mỹ đạt dưới 6 tạ nhân/ha. Bốn nước có diện tích cà phê lớn nhất đó là: Brazil trên 3 triệu ha chiếm 25% sản lượng cà phê thế giới, Côte D’lvoire (châu Phi) và Indonesia (châu Á) mỗi nước khoảng 1 triệu ha, quốc gia thứ tư là Colombia có gần 1 triệu ha với sản lượng hàng năm đạt trên dưới 700 ngàn tấn. Do áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật mới như giống mới và mật độ trồng dày nên đã có hàng chục nước đưa năng suất bình quân đạt trên 1 tấn/ha. Điển hình có Costa Rica ở Trung Mỹ với diện tích cà phê chè là 85.000 ha nhưng đã đạt năng suất bình quân trên 1.400 kg/ha. Cà phê chè hiện nay vẫn chiếm 70% sản lượng của thế giới. Diện tích cà phê chè được trồng tập trung chủ yếu ở Trung và Nam Mỹ, một số nước ở Đông Phi như: Kenya, Cameroon, Ethiopia, Tanzania và một phần ở châu Á như: Indonesia, Ấn Độ, Philippines. Mấy năm nay sản lượng cà phê Robusta trên thế giới tăng lên nhanh chóng, vụ 2000/2001 đạt tới 44,8 triệu bao tăng tới 12,2 triệu bao so với vụ trước và chiếm tới 38% tổng sản lượng cà phê. 6 Theo kết quả thăm dò mới đây nhất, giá cà phê trong năm 2005 sẽ biến động mạnh với nhiều khả năng giá tăng cao nếu thời tiết xấu làm cho sản lượng dự kiến giảm mạnh. (Nguồn: Reuters, 27/01/05) o Thị trường cà phê Arabica thế giới sẽ thiếu hụt khoảng 5,4 triệu bao cà phê niên vụ 2005/2006 sau khi thặng dư 2,5 triệu bao của niên vụ trước. Tổng sản lượng cà phê thế giới ước tính đạt 111 triệu bao niên vụ 2005/2006, giảm so với mức 117 triệu bao của 2004/2005. o Đối với cà phê Robusta, theo dự kiến sẽ tăng 84% từ 759 USD/tấn của cuối năm 2004 lên 1.400 USD/tấn năm 2005 nếu giá cà phê Arabica tăng mạnh. Ước tính sẽ có khoảng 149 triệu bao cà phê niên vụ 2005/2006 gồm cả cà phê tồn kho ở các nước tiêu thụ và sản xuất.  Sự phát triển của ngành cà phê Việt Nam [11], [20], [44], [46], [48], [49] Việt Nam gia nhập Tổ chức Cà phê Quốc Tế (International Coffee Organization, ICO) vào năm 1991. Nghề trồng cà phê ở Việt Nam là một nguồn thu nhập cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Với 500.000 ha cà phê đã tạo việc làm cho hơn 600.000 nông dân và số người có cuộc sống liên quan đến cây cà phê lên tới trên 1 triệu người. Ngành cà phê Việt nam được đánh giá là còn mới mẻ, phải cạnh tranh với ngành cà phê của nhiều nước có truyền thống lâu đời hơn, vốn có tiếng tăm về mặt chất lượng và sự bền vững. Đây là một vấn đề mà ngành cà phê Việt Nam phải cố gắng trên nhiều lĩnh vực từ khâu áp dụng những kỹ thuật sản xuất nông nghiệp đến công nghệ chế biến tiên tiến, đưa ra thị trường nhiều chủng loại sản phẩm mới. 7 Bảng 2.1: Xuất khẩu cà phê của Việt Nam qua các vụ từ 1994 đến 2002 Sản lƣợng xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu (nghìn tấn) (triệu USD) 1994/1995 192.379 51.291,649 1995/1996 221.496 401.948,791 1996/1997 336.242 402.817,916 1997/1998 395.418 601.430,778 1998/1999 404.206 554.974,838 1999/2000 653.678 573.976,994 2000/2001 874.676 381.883,542 2001/2002 712.735 263.259,766 Niên vụ (Nguồn: Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, 2005) Bảng 2.2: Kết quả xuất khẩu cà phê nhân sống của Việt Nam năm 2004 Tháng Sản lƣợng xuất khẩu (tấn) Trị giá (USD) Giá bình quân (USD/tấn) 1 68.815 44.114.705 641,1 2 86.570 57.439.162 663,5 3 83.000 54.509.033 656,7 4 82.940 54.343.678 665,2 5 78.582 51.933.539 660,9 6 118.731 78.797.170 663,7 7 55.829 36.883.303 660,6 8 51.144 33.022.482 645,7 9 56.086 35.386.587 630,9 10 65.474 40.077.916 612,1 11 55.292 33.940.074 613,8 12 87.242 55.639.710 637,8 Tổng 889.705 576.087.360 647,5 (Nguồn: Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, 2005) 8 Khuynh hướng phát triển cà phê hiện nay là thâm canh tăng năng suất cà phê Robusta, mở rộng diện tích cà phê Arabica trên vùng cao miền Bắc như Sơn La, Tuyên Quang, Lai Châu, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hòa Bình, Nghệ An với những dòng chọn lọc như Catimor. Catimor cũng được đưa vào cao nguyên Lâm Đồng và Đắc Lắc để thay cho một số giống dễ nhiễm bệnh rỉ sắt. Robusta là dòng sản xuất chính vì có đặc điểm dễ thích nghi, năng suất cao, trung bình 4 đến 5 tấn nhân/ha. Hiện nay, ở Việt Nam, cà phê là mặt hàng nông sản xuất xuất khẩu có giá trị lớn đứng thứ hai sau gạo (những con số thống kê của Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam điều tra vào năm 2000 cho thấy diện tích cà phê cả nước đã lên đến 520.000 ha với sản lượng 900.000 tấn, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 2 thế giới về sản xuất cà phê). Cà phê Việt Nam được xuất sang trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Vụ 2000/2001 Việt Nam đã xuất cà phê đi 61 nước, trong đó, 10 nước nhập khẩu cà phê đứng đầu được trình bày trong bảng 2.3 dưới đây. Bảng 2.3: 10 nƣớc nhập khẩu cà phê hàng đầu của Việt Nam Số lƣợng Trị giá Tỷ phần so với tổng (tấn) (USD) xuất khẩu (%) Bỉ 138.603 57.947.984 15,85 2 Mỹ 137.501 59.371.585 15,72 3 Đức 134.321 60.054.805 15,36 4 Tây Ban Nha 73.852 31.666.889 8,44 5 Ý 62.559 27.796.789 7,15 6 Pháp 45.998 20.147.381 5,26 7 Ba Lan 38.155 17.171.839 4,36 8 Anh 30.153 13.055.058 3,45 9 Nhật 26.905 13.274.686 3,08 10 Hàn Quốc 26.288 11.310.104 3,01 STT Tên nƣớc 1 (Nguồn: Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, 2005) 9 Bảng 2.4: Diễn biến diện tích và sản lƣợng cà phê Việt Nam trong 9 niên vụ từ 1992 đến 2001 Niên vụ Diện tích (ha) Sản lƣợng (tấn) 1992/1993 140.000 140.400 1993/1994 150.000 181.200 1994/1995 215.000 211.920 1995/1996 295.000 236.280 1996/1997 350.000 342.300 1997/1998 410.000 413.580 1998/1999 460.000 404.206 1999/2000 520.000 700.000 2000/2001 500.000 900.000 (Nguồn: Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, 2005) Cà phê là một loại nước uống cao cấp, nhu cầu đòi hỏi của người tiêu dùng vẫn không ngừng tăng lên, chưa có những sản phẩm nhân tạo được chấp nhận để thay thế cho cà phê, vì vậy việc trồng, xuất khẩu, nhập khẩu loại hàng hóa đặc biệt này vẫn có một ý nghĩa kinh tế lớn đối với nhiều nước. 2.1.3. Tiêu chuẩn cho cà phê Việt Nam [48] Trước đây cà phê Việt nam được bán với 3 chỉ tiêu chất lượng đơn giản: thủy phần %, hạt đen vỡ % và tạp chất %. Mặc dù Việt Nam đã từng ban hành Tiêu chuẩn Nhà nước về yêu cầu kỹ thuật đối với cà phê nhân TCVN 4193 – 86. Tuy nhiên vào thời kỳ mở cửa, ngành cà phê tiếp xúc trực tiếp với thị trường thế giới, trong buổi ban đầu cần có một hệ thống tiêu chuẩn đơn giản và dễ thực hiện hơn nên đã ra đời TCVN 4193 – 93 với 3 chỉ tiêu như đã nêu ở trên. Ngày hôm nay, ngành cà phê Việt Nam đã trưởng thành hơn một bước và thị trường đòi hỏi chất lượng cao hơn, cần có tiêu chuẩn cấp Nhà nước phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Do đó ngành cà phê Việt Nam đã được Nhà nước hỗ trợ xây dựng và cho phép ban hành TCVN 4193 – 2001. Có thể coi đây là một bước tiến đáng kể của ngành cà phê Việt Nam. Ban Kỹ thuật về Tiêu chuẩn cà phê (TCVN/TC/F16) mà Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam là cơ quan chủ trì đã hoàn thành việc soát xét một số tiêu chuẩn Nhà nước về cà phê và được Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng trình lên Bộ Khoa 10 học, Công nghệ và Môi trường xét duyệt. Ngày 05/11/2001, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã có quyết định số 57/2001/QĐ-KHCNMT ban hành 5 bản tiêu chuẩn về cà phê. Bảng 2.5: 5 tiêu chuẩn về cà phê do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng ban hành ngày 05/11/2001 TCVN 4193 : 2001 1 TCVN 4334 : 2001 2 (ISO 3509 – 1989) TCVN 4807 : 2001 3 (ISO 4150 – 1991) Cà phê nhân – yêu cầu kỹ thuật (Soát xét lần 3 – Thay thế TCVN 4193: 1993) Cà phê và các sản phẩm của cà phê – Thuật ngữ và định nghĩa (Soát xét lần 1 – Thay thế TCVN 4334 – 86) Cà phê nhân – Phương pháp xác định cỡ hạt bằng sàng tay (Soát xét lần 2 – Thay thế TCVN 4807 – 89) TCVN 6928 : 2001 Cà phê nhân – Xác định sự hao hụt khối lượng ở 4 (ISO 6673 – 1983) 105oC TCVN 6929 : 2001 Cà phê nhân – Hướng dẫn phương pháp mô tả các 5 (ISO 9116 – 1992) quy định (Nguồn: Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, 2005) 2.1.4. Một số tiến bộ kỹ thuật mới trong nghề trồng và sử dụng cà phê trên thế giới [20] o Sử dụng các giống mới qua quá trình chọn lọc, lai tạo mang được các đặc tính tốt về: khả năng kháng sâu bệnh, chất lượng tốt, cho năng suất cao. o Áp dụng phương pháp nhân giống vô tính bằng kỹ thuật giâm cành, nuôi cấy mô, tạo ra các vườn cà phê thuần chủng, năng suất cao. o Áp dụng kỹ thuật trồng dày, tăng mật độ trồng trên một đơn vị diện tích, cho phép đạt năng suất cao, rút ngắn thời gian, mang lại hiệu quả lớn. o Bón phân dựa trên kết quả chẩn đoán nhu cầu dinh dưỡng khoáng của cây trồng thông qua biện pháp phân tích lá và đất. o Sử dụng những cây che bóng mới, phù hợp với nhu cầu sinh lý về ánh sáng của cây cà phê. 11 o Sử dụng các loại chế phẩm bảo vệ thực vật mới, ít độc đối với người, giảm sự ô nhiễm đối với môi trường. o Sử dụng các tiến bộ kỹ thuật của ngành điện tử để chế biến và phân loại cà phê, tạo ra nhiều dạng thành phẩm có khả năng bảo quản giữ chất lượng được lâu hơn. o Sử dụng các chế phẩm kích thích sinh trưởng làm cho quá trình ra hoa, đậu quả và chín tập trung. o Sử dụng những thành tựu của công nghệ sinh học để tác động vào quá trình sản xuất và chế biến, tạo ra thành phẩm đa dạng và chất lượng hơn. 2.1.5. Mô tả cây cà phê [2],[29], [35] Hình 2.2: Quả cà phê Hình 2.3: Hoa cà phê Cây nhỏ, mọc sum suê, luôn xanh, cao 6 – 10 m. Thân cành hình trụ hoặc hình vuông, phân nhánh nhiều. Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc hình trứng, dài 10 – 15 cm, rộng 5 – 6 cm, đầu nhọn, mặt trên xanh sẫm bóng, mặt dưới rất nhạt, gân nổi rõ, mép uốn lượn; cuống lá dài 0,7 – 1 cm; lá kèm có gốc rộng, đầu nhọn. Cụm hoa như xim co gồm 8 – 15 hoa ở nách lá; hoa trắng, rất thơm; đài cụt; tràng hình ống ngắn, 5 cánh hoa đều; nhị 5 dính ở họng tràng, xen kẽ với cánh hoa; bầu 2 ô, mỗi ô chứa một noãn. Quả hạch xoan hơi dẹt, lúc chưa chín có màu xanh lục, khi chín chuyển sang màu đỏ, chứa 2 hạt. Mùa cà phê nở hoa và kết trái vào khoảng từ tháng 11 đến tháng 4. 12 2.1.6. Phân loại [17], [21] Các giống cà phê hiện trồng thuộc: Bộ: cà phê (Rubiales) Họ: cà phê (Rubiacea) Loài: cà phê (Coffea L.) Các giống cà phê thường trồng gồm có: 2.1.6.1. Cà phê chè (Coffea arabica L.) Nguồn gốc cao nguyên Jimma – Ethiopia. Cà phê chè được trồng lâu đời nhất, chiếm 70% sản lượng cà phê toàn thế giới. Cây bụi cao 3 – 4 m, ở điều kiện thuận lợi có thể cao 6 – 7 m. Cành mọc từng đôi đối xứng, cành thứ cấp nhiều, tạo với cành cơ bản một mặt phẳng cắt ngang thân cây. Lá mọc đối xứng, hình bầu dục dài, đầu nhọn, rìa lá quăn, xanh đậm, có 9 – 12 cặp gân lá, dài 10 – 15 cm, rộng 4 – 6 cm. Hoa trắng, hương thơm dịu, mọc thành chùm ở nách lá. Quả hình trứng, khi chín màu đỏ, có đường kính 10 – 18 mm. Hạt có 2 lớp vỏ, lớp ngoài cứng gọi là vỏ trấu, lớp trong mỏng bám sát vào hạt gọi là vỏ lụa. Cà phê chè có đặc tính tự hoa thụ phấn cho nên độ thuần chủng cao. Cà phê chè có nhiều chủng khác nhau: Coffea arabica Var typica Coffea arabica Var bourbon Coffea arabica Var amarello Coffea arabica Var managogype Coffea arabica Var laurina Coffea arabica Var mokka Coffea arabica Var mundonovo Coffea arabica Var catuai Coffea arabica Var catimor 2.1.6.2. Cà phê vối (Coffea canephora pierre) Cà phê vối mới được phát hiện ở châu Phi vào đầu thế kỷ XX, vùng rừng thấp thuộc châu thổ sông Công gô. 13 Cây cao 8 – 12 m, có nhiều thân. Cành dài, cành thứ cấp ít. Lá hình bầu, hoặc hình mũi mác, đầu lá nhọn, phiến lá gợn sóng mạnh. Hoa mọc thành chùm ở nách lá, gồm 1 – 3 cụm, có 15 – 30 hoa. Tràng hoa trắng có 5 – 7 cánh hoa. Quả hình tròn hoặc hình trứng, trên quả có nhiều gân dọc, khi chín có màu đỏ. Hạt màu xám xanh đục hoặc ngả vàng tùy theo giống. Hạt nhỏ hơn cà phê chè, tỷ lệ nhân/quả tươi cao hơn cà phê chè. Cà phê vối gồm các chủng chính sau: Coffea canephora Var robusta Coffea canephora Var kouilou Coffea canephora Var niaouli 2.1.6.3. Cà phê mít (Coffea excelsa Chev) Phát hiện đầu tiên năm 1902 ở xứ Ubangui – Chari nên thường được gọi là cà phê Chari. Cây cao 15 – 20 m. Lá to, chiều dài tối đa tới 25 – 40 cm, hình trứng, hoặc mũi mác, đầu lá có mũi ngắn, bẹt, có 6 – 9 đôi gân lá. Hoa mọc thành chùm ở nách lá gồm 1 – 5 xim, mỗi xim có 2 – 4 hoa. Quả hình trứng, hơi dẹt, núm quả lồi, khi chín có màu đỏ sẫm, thịt quả giòn, ít ngọt. Hạt màu xanh ngả vàng, vỏ lụa bám chặt vào hạt khó làm tróc hết. Hàm lượng caffeine thấp: 1,02 – 1,15% trong khi cà phê chè là 1,8 – 2% và cà phê vối là 2,5 – 3%. Cây sinh trưởng khỏe, ít sâu bệnh, chịu nắng hạn khá, ít kén đất. Đáng chú ý là hoa quả phát triển cả trên các mắt ngủ của cành già, kể cả trên thân cây, nơi phân cành. Phẩm chất cà phê mít kém, vị chua, hương kém hoặc không có hương. 2.1.6.4. Cà phê mít dâu da (Coffea liberia Bull. In Hirn) Nguồn gốc ở Liberia. Cây cao 15 – 18 m, cành khỏe bền, lá to hình bầu dục, dài 15 – 35 cm, rộng 8 – 15 cm, phiến xanh đậm, bóng, có 8 – 12 đôi gân nổi rõ ở dưới. Hoa mọc thành cụm, tràng hoa màu trắng. Quả thưa, to giống quả dâu da, thịt quả dày nhiều xơ, nhân màu vàng, phẩm chất kém.  Ngoài ra còn có loài Arabusta và Catimor, kết quả của sự tạp giao nhân tạo và tự nhiên giữa 2 loài Arabica – Robusta. 14 Arabusta có hàm lượng caffeine thấp, cho chất lượng cà phê tốt hơn Robusta và sức đề kháng bệnh cao hơn so với Arabica. Hiện nay ở Việt Nam có 3 loại cà phê chính là: Arabica, Robusta và Chari. Trong đó, Arabica và Robusta là 2 giống phổ biến. 2.2. THÀNH PHẦN CỦA CÀ PHÊ NHÂN 2.2.1. Cấu tạo hạt cà phê [40] Hình 2.4: Cấu tạo hạt cà phê 2.2.2. Thành phần hóa học trong hạt cà phê [2], [11], [28] Hạt cà phê là đối tượng thu hoạch chủ yếu, và cũng là mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng. Các biện pháp canh tác, thu hoạch và chế biến đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cà phê nhân sống đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Hạt cà phê xanh giàu glucid và lipid, glucid chiếm hơn 50%, phần lớn là các polysaccharide. Lipid (10 – 15%), protein (10 – 15%) và acid hữu cơ, đặc biệt là các acid cafeylquinic hay acid chlorogenic. Hàm lượng caffeine thay đổi, từ 0,5 đến 1,8%, một phần của caffeine thường kết hợp với acid chlorogenic. Cà phê rang lên có những chất thơm, gọi chung là cafeol (acid cafeic, oleic, linoleic, palmitic), khoảng 0,05%, nhưng đồng thời lại tạo ra một yếu tố phức hợp độc là cafeotoxin (0,07%). Thành phần hóa học trong hạt cà phê có ảnh hưởng rất lớn trong quá trình đánh giá chất lượng thử nếm cảm quan. 15 Bảng 2.6: Thành phần hóa học hạt cà phê Hàm lƣợng Thành phần g/100 g mg/100 g Nước 8 – 12 Chất dầu 4 – 18 Đạm 1,8 – 2,5 Proteine 9 – 16 Caffeine 1 (Arabica), 2 (Robusta) Chlorogenic acid 2 Trigonelline 1 Tannin 2 Caffetanic acid 8–9 Caffeic acid 1 Pentosane 5 Tinh bột 5 – 23 Saccharose 5 – 10 Cellulose 10 – 20 Hemicelllulose 20 Lignine 4 Calcium 85 – 100 Phosphur 130 – 165 Sắt 3 – 10 Sodium 4 Manganese 1 – 45 (Nguồn: Lê Quang Hƣng, 1999) Caffeine là một alkaloid chứa đạm, công thức là C8H10O2N4.H2O, được Runge và Robiquet tìm ra năm 1820. Caffeine kết tinh với một phân tử nước nhưng trở nên khan khi nung nóng đến nhiệt độ 80 – 100oC. Caffeine khan chứa 28,8% N. Caffeine khan ở dạng tinh thể trắng hình kim, tan trong nước và chloroform. Caffeine (1,3,7-trimethylxanthine) là purine chính trong hạt cà phê. Ngoài ra còn có theobromine dimethylxanthine). (3,7-dimethylxanthine) và rất ít theophylline (1,3- 16 Phân bố hàm lượng caffeine theo bộ phận của cây như sau Bảng 2.7: Phân bố hàm lƣợng caffeine trên cây 2 tuổi theo tỉ lệ (%) Bộ phận Lá Thân Rễ Arabica 75,89 14,23 9,88 Robusta 85,29 8,33 6,38 Giống (Nguồn: Lê Quang Hƣng, 1999) 2.2.3. Công dụng của cà phê [7], [17] Cà phê là một loại nước uống cao cấp được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới. Cà phê là sản phẩm của các nước nhiệt đới, nhưng thị trường tiêu dùng chủ yếu lại ở các nước vùng ôn đới. Cà phê được dùng làm đồ uống dưới dạng chiết hãm bằng nước sôi từ bột hạt cà phê rang, hoặc dưới dạng cà phê hòa tan. Uống cà phê làm mất buồn ngủ, giúp tinh thần tỉnh táo, giảm cảm giác mệt mỏi. Hoạt chất chủ yếu chứa trong hạt cà phê là caffeine. Ngoài ra, trong hạt cà phê còn chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người như đường saccharose, đường khử, protein hòa tan, các vitamin nhóm B (B1, B2, B6,…) và vitamin PP là những vitamin cần thiết của cơ thể con người. Đồng thời, cà phê có một hương vị độc đáo. Bằng phương pháp phân tích quang phổ, người ta đã xác định gần 300 hợp chất phức tạp khác nhau cấu thành nên hương thơm của cà phê. Do đó, tập tục uống cà phê trở thành nhu cầu và thức uống thông dụng của nhân dân nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển Tây Âu, Bắc Âu, Nam Mỹ,… Ngoài ra, phụ phẩm của cà phê như thịt quả còn là nguyên liệu chế biến rượu, nước giải khát; vỏ quả cà phê làm phân bón; bã chế biến làm thức ăn gia súc. Một số thuốc chữa bệnh cũng được chế tạo từ cà phê. 2.2.4. Dƣợc tính của cà phê [2], [28], [29], [37] Cà phê có vị đắng, có tác dụng kích thích thần kinh, làm tăng hoạt động của tim, co mạch trung ương, co mạch ngoại vi (mạch phổi, mũi, thận, vành). 17 Cà phê còn có tác dụng hạ sốt, lợi tiểu, làm khoan khoái, kích thích tiêu hóa. Cây có độc nhưng chỉ khi dùng với liều cao và thời gian kéo dài, gây bồn chồn, mất ngủ, đau dây thần kinh, trầm cảm, độc tố đó là cafeotoxin. Nhưng nếu uống cà phê đun sôi thì cafeotoxin sẽ bị tiêu hủy. Trong nhân dân, hạt cà phê sống giã nát ngâm với rượu uống chữa tê thấp, sốt rét. Cà phê rang uống có tác dụng tiêu mỡ, tiêu độc rượu và thuốc phiện. Lá cà phê sắc uống làm chóng tiêu thức ăn, tiêu nước chữa phù thủng. Trong y học, cà phê thường được dùng để trị suy nhược, mất sức do bệnh nhiễm trùng, mất trương lực dạ dày. Người ta có thể pha bột cà phê để uống, dùng caffeine dạng viên hoặc dạng thuốc tiêm dưới da. Tuy nhiên, chống chỉ định cho một số trường hợp: loạn thần kinh, viêm cơ tim tiến triển.  Tác dụng dược lý của caffeine Đối với hệ thần kinh trung ương, caffeine có tác dụng rất mạnh, người dùng caffeine hoặc đồ uống có chứa caffeine cảm thấy tỉnh táo, mất buồn ngủ, ít mệt mỏi và suy tư minh mẫn. Caffeine dùng với liều lớn thì kích thích mạnh hệ thần kinh trung ương, xuất hiện trạng thái bồn chồn, lo lắng, mất ngủ, ở những người quen dùng cà phê, những triệu chứng này nhẹ hơn. Liều cao làm xuất hiện co giật cục bộ hoặc toàn thân. Caffeine còn có tác dụng kích thích hô hấp. Đối với hệ tim mạch, caffeine có tác dụng làm giảm trở kháng ngoại vi, kích thích tim. Liều 250 – 350 mg caffeine gây nên nhịp tim nhanh, huyết áp tăng nhẹ cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương, nhưng cũng với liều trên đối với những người dùng cà phê thì các triệu chứng trên không xuất hiện. Ở nồng độ cao hơn, caffeine có tác dụng làm tăng nhịp tim rõ rệt, ở những người mẫn cảm có thể xuất hiện loạn nhịp tim (hiện tượng này cũng gặp ở những người dùng quá nhiều đồ uống có caffeine). Đối với cơ trơn, caffeine có tác dụng làm giãn cơ trơn khí phế quản đặc biệt đối với khí phế quản bị co thắt như ở những bệnh nhân hen suyễn trên lâm sàng hoặc trong các mô hình gây co thắt khí phế quản thực nghiệm. Đối với cơ vân, caffeine có tác dụng tăng cường khả năng làm việc của cơ bắp ở người. Caffeine với liều 6 mg/kg làm tăng khả năng chạy đua của những vận động viên trượt tuyết. 18 Đối với hệ tiết niệu, caffeine tăng cường sự hình thành nước tiểu, gia tăng tốc độ lọc của cầu thận và tăng lượng máu qua thận. Alcaloid caffeine và các dạng muối như caffeine citrate và caffeine natri benzoate được dùng trong trường hợp cấp cứu ngộ độc opioid và các thuốc gây ngủ khác. Một công trình nghiên cứu của trường Đại học Gifu ở miền Trung Nhật Bản cho biết: uống một tách cà phê/ngày có thể ngăn chặn phát triển ung thư ruột kết ở phụ nữ. Tuy đây chỉ là kết quả nghiên cứu mang tính thống kê, chưa lý giải được cơ chế tác động của cà phê tới ung thư ruột kết, nhưng điều này cũng phần nào cho chúng ta thấy được tác dụng dược lý của cà phê. (Nguồn: báo “The Mainichi Shimbun”) Từ năm 1992, nhóm nghiên cứu dưới sự lãnh đạo của giáo sư Hiroyuki Shimizu đã tiến hành theo dõi chế độ ăn uống của 30.224 cư dân vùng Gifu, có độ tuổi từ 35 trở lên và không mắc bệnh ung thư ruột kết ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu đã chia tất cả những người tham gia khảo sát thành 3 loại: không uống cà phê, uống dưới 1 tách cà phê/ngày, và uống 1 hoặc trên 1 tách cà phê/ngày. Sau khi điều chỉnh các dữ liệu về thói quen hút thuốc, uống rượu, mức độ béo phì, tuổi tác và các yếu tố khác, nhóm nghiên cứu tính toán rủi ro phát triển ung thư ruột kết ở họ. Kết quả cho thấy, nếu nguy cơ ung thư ruột kết ở những người không uống cà phê là 1 thì nguy cơ ung thư ruột kết ở những phụ nữ uống từ 1 tách cà phê/ngày trở lên chỉ là 0,49. 2.3. CÁC PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ CÀ PHÊ HIỆN NAY [6], [10], [11], [20], [21] Sau quá trình chế biến cà phê nhân là các quá trình chế biến tinh khiết hơn như chế biến cà phê rang, cà phê bột thô, cà phê hòa tan,…hoặc các sản phẩm khác có phối chế như cà phê sữa, các loại bánh kẹo cà phê,… Phẩm chất và hương vị cà phê phụ thuộc vào một số yếu tố chính sau đây: giống, khí hậu, độ cao so với mặt biển, độ phì của đất và chế độ bón phân, độ chín khi thu hái, kỹ thuật chế biến và chế độ bảo quản. Trong kỹ thuật chế biến cà phê nhân, có 2 phương pháp chính: Phương pháp chế biến khô Phương pháp chế biến ướt Ngoài ra, còn có phương pháp trung gian là nửa khô nửa ướt. Cà phê đem xát tươi còn lẫn cả vỏ quả đem phơi không qua công đoạn lên men và ngâm rửa. 19 Khi thu hoạch người ta chỉ hái những quả chín, không hái quả xanh và quả còn non. Cà phê hái ngày nào nên được chế biến ngay trong ngày hôm đó, số lượng còn lại không nên ủ thành đống lâu quá 24 giờ. Để có cà phê nhân phục vụ cho xuất khẩu, tỷ lệ quả chín khi thu hái phải đạt trên 95%. Cà phê là một sản phẩm dùng để chế ra loại nước uống cao cấp. Để cấu tạo thành nhân của cà phê, theo những kết quả phân tích người ta thấy có tới 670 hợp chất hữu cơ hợp thành trong đó có nhiều hợp chất tạo nên hương thơm của cà phê. Do vậy, các khâu thu hái, chế biến, phơi sấy, bảo quản cà phê có một vị trí hết sức quan trọng. Các công đoạn trong thu hoạch, chế biến, phơi sấy và bảo quản có mối liên kết khăng khít với nhau. 2.3.1. Phƣơng pháp chế biến khô Đây là phương pháp chế biến lâu đời và đơn giản hơn so với phương pháp chế biến ướt, thường được áp dụng trong chế biến cà phê Robusta. Trước tiên, người ta phơi hay sấy nhằm làm giảm độ ẩm của trái cà phê tươi , trong khoảng 1 – 3 tuần lễ. Phương pháp phơi nắng cà phê làm tốn nhiều công sức do phải thường xuyên cào đảo khi phơi, phải che phủ cho cà phê vào ban đêm và khi trời mưa. Trong những điều kiện thời tiết thuận lợi, công việc phơi nắng cho cà phê hoàn tất sau 10 – 14 ngày. Việc phơi cà phê trên các sân phơi bằng đất sẽ làm cho thành phẩm cà phê về sau khi uống sẽ có mùi của đất. Ngoài ra, do sự không đồng đều về độ ẩm của khối hạt khi phơi nắng nên sẽ tạo điều kiện cho việc bị nhiễm các vi sinh vật, kết quả là làm giảm mùi vị của cà phê khi uống. Áp dụng công nghệ sấy cho cà phê sẽ khắc phục được các khuyết điểm của việc phơi nắng nhờ vào các thiết bị sấy điển hình hiện nay như: o Máy sấy tĩnh có kết hợp với việc đảo trộn o Máy sấy thùng quay, với tốc độ quay của trống trong khoảng 1100 – 2500 vòng/phút o Máy sấy tháp o Máy sấy tầng sôi Theo kết quả của một số công trình nghiên cứu, nhiệt độ không khí sấy cho cà phê nên trong khoảng 50 – 55oC. 20 Sau khi hoàn tất công đoạn phơi/sấy (vỏ cà phê hột có màu nâu đậm và giòn), cà phê hột được thu gom lại và chuyển sang giai đoạn bóc vỏ để thu được cà phê nhân và đem đi bảo quản. 2.3.2. Phƣơng pháp chế biến ƣớt Phương pháp chế biến ướt tốn kém và phức tạp hơn so với phương pháp chế biến khô. Tuy nhiên, phương pháp này sản xuất ra cà phê nhân sạch và phẩm chất tốt hơn. Phương pháp này tiêu thụ một lượng nước đáng kể, và được ứng dụng rộng rãi nhiều nơi trong sản xuất Arabica, đặc biệt ở Kenya và Colombia. Đôi khi phương pháp này cũng được áp dụng trong sản xuất giống cà phê lai Arabusta. Phương pháp chế biến ướt nhằm biến đổi trái cà phê tươi ban đầu thành dạng cà phê thóc, bao gồm các công đoạn sau: o Thu nhận o Xát vỏ o Tách lớp nhầy (lên men) o Rửa và phân loại theo tỷ trọng dòng nước o Phơi/sấy o Tách vỏ 2.3.2.1. Thu nhận Cà phê trái sau khi thu hoạch được đem về địa điểm tiếp nhận và cho ngay vào bể đầy nước có trang bị ống siphon để phân loại, nhằm mục đích phân loại: trái nào nặng sẽ chìm xuống bể (đem đi chế biến ướt), trái nào đã chín khô sẽ nhẹ, nổi lên trên (được đem đi chế biến khô). Ngoài ra, cành, lá, tạp chất,… nổi lên trên mặt nước cũng được loại ra khỏi khối trái. 2.3.2.2. Xát vỏ Đây là giai đoạn được xem là quan trọng nhất trong phương pháp chế biến cà phê ướt. Điều cần thiết là việc xát vỏ cần thực hiện càng sớm càng tốt, nhằm tránh tiến trình lên men ngoài ý muốn và phát sinh các vị lạ trong hạt cà phê. Giai đoạn này nên hoàn tất trong vòng 12 – 24 giờ sau khi hái trái, nhưng nếu vì lí do nào đó không thể thực hiện ngay được, trong khi chờ đem đi xát vỏ, khối trái nên được bảo quản trong bể nước. Xát vỏ là sự tác động cơ giới vào trái cà phê trong dòng nước. Thiết bị xát vỏ thường dùng có 3 dạng sau đây:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan