CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan chung về vốn trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của vốn trong doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm vốn trong doanh nghiệp
Theo sự phát triển của lịch sử, các quan điểm về vốn xuất hiện và ngày càng
hoàn thiện, tiêu biểu có các cách hiểu về vốn như sau của một số nhà kinh tế học thuộc
các trường phái kinh tế khác nhau.
Các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn với góc độ hiện vật. Họ cho rằng:
“Vốn là một trong những yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh”. Cách
hiểu này phù hợp với trình độ quản lý kinh tế còn sơ khai – giai đoạn kinh tế học mới
xuất hiện và bắt đầu phát triển.
Theo một số nhà tài chính thì “Vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần
trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của
công ty”. Như vậy, các nhà tài chính đã chú ý đến mặt tài chính của vốn, làm rõ được
nguồn vốn cơ bản của doanh nghiệp đồng thời cho các nhà đầu tư thấy được lợi ích
của việc đầu tư, khuyến khích họ tăng cường đầu tư vào mở rộng và phát triển sản
xuất.
Theo David Begg, Standley Fischer, Rudige Darnbusch trong cuốn “Kinh tế
học” chương 10 đã viết: “Vốn là một loại hàng hoá nhưng được sử dụng tiếp tục vào
quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Có hai loại vốn là vốn hiện vật và vốn tài
chính. Vốn hiện vật là dự trữ các loại hàng hoá đã sản xuất ra các hàng hoá và dịch
vụ khác. Vốn tài chính là tiền mặt, tiền gửi ngân hàng... Đất đai không được coi là
vốn”.
Một số nhà kinh tế học khác cho rằng “Vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế
được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản tài chính mà còn cả các kiến
thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp đã tích luỹ được, trình độ quản lý và tác
nghiệp của các cán bộ điều hành cùng chất lượng đội ngũ công nhân viên trong doanh
nghiệp, uy tín, lợi thế của doanh nghiệp”. Một số quan điểm khác lại cho rằng “Vốn là
giá trị đem lại giá trị thặng dư”.
Theo khái niệm trong giáo trình Tài chính doanh nghiệp của Trường Đại học
Kinh tế quốc dân thì khái niệm về vốn được chia thành hai phần: Tư bản (Capital) là
giá trị mang lại giá trị thặng dư. Vốn được quan tâm đến khía cạnh giá trị nào đó của
nó mà thôi. Bảng cân đối kế toán phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp
tại một thời điểm. Vốn được nhà doanh nghiệp dùng để đầu tư vào tài sản của mình.
Nguồn vốn là những nguồn được huy động từ đâu. Tài sản thể hiện quyết định đầu tư
1
Thang Long University Library
của nhà doanh nghiệp; còn về bảng cân đối phản ánh tổng dự trữ của bản thân doanh
nghiệp dẫn đến doanh nghiệp có dự trữ tiền để mua hàng hoá và dịch vụ rồi sản xuất
và chuyển hoá dịch vụ đó thành sản phẩm cuối cùng cho đến khi dự trữ hàng hoá hoặc
tiền thay đổi đó sẽ có một dòng tiền hay hàng hoá đi ra, đó là hiện tượng xuất quỹ, còn
khi xuất hàng hoá ra thì doanh nghiệp sẽ thu về dòng tiền (phản ánh nhập quỹ và biểu
hiện cân đối của doanh nghiệp là ngân quỹ làm cân đối dòng tiền trong doanh nghiệp).
Một số quan niệm về vốn ở trên tiếp cận dưới những góc độ nghiên cứu khác
nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Vì vậy, để đáp ứng đầy đủ yêu cầu về
hạch toán và quản lý vốn trong cơ chế thị trường hiện nay, có thể khái quát như sau:
“Vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng vật chất và tài sản chính được các cá
nhân, tổ chức bỏ ra để tiến hành kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận” [6].
Đây cũng chính là quan điểm được khóa luận sử dụng xuyên suốt trong bài.
1.1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của vốn
Căn cứ vào khái niệm trên, ta có thể thấy vốn có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Vốn là đại diện cho một lượng giá trị tài sản, có nghĩa vốn là biểu hiện
bằng giá trị của các tài sản hữu hình và vô hình như: nhà xưởng, đất đai, máy móc,
thiết bị, chất xám, thông tin… Một lượng tiền phát hành đã thoát ly giá trị thực của
hàng hoá để đưa vào đầu tư, những khoản nợ không có khả năng thanh toán thì không
được coi là vốn.
Thứ hai: Vốn không chỉ được biểu biện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà
nó còn biểu hiện giá trị của những tài sản vô hình như nhãn hiệu, bản quyền, phát
minh sáng chế, bí quyết công nghệ, vị trí địa lý kinh doanh… Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, sự tiến bộ của khoa học công nghệ thì những tài sản vô hình
ngày càng phong phú và đa dạng, giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng
sinh lợi của doanh nghiệp. Do vậy, tất cả các tài sản này phải được lượng hoá để quy
về giá trị. Việc xác định chính xác giá trị của các tài sản nói chung và các tài sản vô
hình nói riêng là rất cần thiết khi góp vốn đầu tư liên doanh, khi đánh giá doanh
nghiệp, khi xác định giá trị để phát hành cổ phiếu.
Thứ ba: Vốn được đưa vào SXKD là nhằm mục tiêu sinh lời, đem lại lợi nhuận
cho doanh nghiệp trong tương lai. Vốn luôn vận động để sinh lời. Vốn được biểu hiện
bằng tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để biến thành vốn thì đồng tiền
đó phải được đưa vào hoạt động kinh doanh nhằm kiếm lời. Trong quá trình vận động,
đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng
của vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền. Đồng vốn phải quay về xuất phát với giá trị
lớn hơn - đó là nguyên lý đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn. Do vậy, khi đồng vốn bị ứ
đọng, tài sản cố định không được sử dụng, tài nguyên, sức lao động không được dùng
đến và nảy sinh các khoản nợ khó đòi, lúc này vốn không có khả năng sinh lời. Mặt
2
khác, tiền có vận động nhưng bị phân tán quay về nơi xuất phát với giá trị thấp hơn thì
đồng vốn cũng không được đảm bảo, chu kỳ vận động tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng. Do
đó vốn phải được tích luỹ đến một mức độ nhất định và đảm bảo tính hiệu quả trong
sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Thứ tư: Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể phát
huy được tác dụng. Doanh nghiệp không chỉ khai thác tiềm năng về vốn của mình mà
còn phải tìm cách thu hút nguồn vốn từ bên ngoài như phát hành cổ phiếu, liên doanh
liên kết với các doanh nghiệp khác. Nhờ vậy vốn của doanh nghiệp sẽ tăng lên và
được gom thành món lớn.
Thứ năm: Nhà quản lý vốn phải xem xét về yếu tố thời gian của đồng vốn, điều
này có nghĩa là vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong điều kiện cơ chế thị trường, phải
xem xét yếu tố thời gian vì ảnh hưởng sự biến động của giá cả, lạm phát nên giá trị của
đồng tiền ở mỗi thời kỳ là khác nhau. Điều này có thể có vai trò quan trọng khi bỏ vốn
vào đầu tư và tính hiệu quả khi sử dụng đồng vốn.
Thứ sáu: Vốn không tách rời chủ sở hữu trong quá trình vận động, mỗi đồng vốn
phải gắn với một chủ sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ có xác định
rõ chủ sở hữu thì đồng vốn mới được sử dụng hợp lý và có hiệu quả cao. Cần phải
phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, đó là hai quyền khác nhau. Tuy
nhiên, tuỳ theo hình thức đầu tư mà người có quyền sở hữu và quyền sử dụng là đồng
nhất hoặc riêng rẽ. Và dù trong trường hợp nào, người sở hữu vốn vẫn được ưu tiên
đảm bảo quyền lợi và được tôn trong quyền sở hữu của mình. Đây là một nguyên tắc
để huy động và quản lý vốn.
Thứ bảy: Vốn được quan niệm như một thứ hàng hoá và có thể được coi là thứ
hàng hoá đặc biệt vì nó có khả năng được mua bán quyền sở hữu trên thị trường vốn,
trên thị trường tài chính. Những người có vốn có thể cho vay và những người cần vốn
sẽ đi vay, có nghĩa là mua quyền sử dụng vốn của người có quyền sở hữu vốn. Khi đó
quyền sở hữu vốn được chuyển nhượng qua sự vay nợ. Người vay phải trả một tỷ lệ lãi
suất hay chính là giá của quyền sử dụng vốn, vốn khi bán đi sẽ không mất quyền sở
hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Việc mua này diễn ra
trên thị trường tài chính, giá mua bán tuân theo quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường.
[6]
1.1.1.3. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Về pháp luật: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên
doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật
quy định cho từng loại doanh nghiệp). Vốn có thể được xem là một cơ sở quan trọng
nhất để đảm bảo cho sự tồn tại tư cách pháp luật của doanh nghiệp trước pháp luật
3
Thang Long University Library
(vốn ở đây không chỉ gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, mà nó còn là các tài sản thuộc
sở hữu của các chủ doanh nghiệp).
Về kinh tế: Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tăng trưởng và phát triển đều
cần có vốn. Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển của doanh
nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Một doanh nghiệp
muốn đứng vững trên thị trường thì doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định,
lượng vốn đó không những đảm bảo cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp diễn ra
liên tục mà còn phải dùng để cải tiến máy móc thiết bị, hiện đại hoá công nghệ. Mục
đích cuối cùng của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận là khoản tiền chênh
lệch giữa thu nhập và chi phí doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp đó đưa lại. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp không chỉ tồn tại đơn thuần mà còn có sự cạnh tranh gay gắt với nhau. Nếu
thiếu vốn sẽ dẫn đến năng xuất lao động thấp, thu nhập thấp, doanh nghiệp sẽ càng tụt
lùi vì vòng quay của vốn càng ngắn lại thì quy mô của doanh nghiệp càng co lại.
Trong doanh nghiệp, vốn là cơ sở để mua sắm các trang thiết bị, máy móc, nhà
xưởng, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người lao động.
Ngoài ra, vốn còn được sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm
lực sẵn có và tạo tiềm lực lớn hơn cho SXKD, dịch vụ.
Vốn là yếu tố quyết định doanh nghiệp nên mở rộng hay thu hẹp phạm vi hoạt
động của mình. Thật vậy, khi đồng vốn của doanh nghiệp càng sinh sôi nảy nở, thì
doanh nghiệp sẽ mạnh dạn mở rộng phạm vi hoạt động vào các tiềm năng mà trước đó
doanh nghiệp chưa có điều kiện thâm nhập và ngược lại khi đồng vốn bị hạn chế thì
doanh nghiệp nên tập trung vào một số hoạt động mà doanh nghiệp có lợi thế trên thị
trường.
Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp có một lượng vốn tương đối thì doanh nghiệp
sẽ chủ động hơn trong việc lựa chọn những phần SXKD hợp lý, hiệu quả, đảm bảo an
toàn tổ chức, hiệu quả vốn nâng cao, huy động tài trợ dễ dàng, khả năng thanh toán
đảm bảo, có đủ tiềm lực khắc phục khó khăn và một số rủi ro trong kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp tiếp nhận vốn nước ngoài, ngoài việc sử dụng nguồn
vốn này, họ còn có thể tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý cũng như kỹ năng, kỹ
sảo và công nghệ hiện đại, thông tin cập nhật hàng ngày. Hơn nữa, họ còn có thể rút
ngắn thời gian tích luỹ vốn ban đầu và thu một phần lợi nhuận của các công ty nước
ngoài.
Trong cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta, thiếu vốn để phát triển SXKD đang
là vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp. Không chỉ ở cấp vi mô, Nhà nước ta đang rất
thiếu các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Tiến tới hội nhập kinh tế, xoá bỏ
hàng rào thuế quan giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á là một thách thức lớn
4
đối với các doanh nghiệp trong nước trước sự vượt trội về vốn, công nghệ của các
nước khác trong khu vực. Điều đó càng đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm
cách huy động và sử dụng vốn sao cho tiết kiệm và có hiệu quả nhất.
1.1.2. Phân loại vốn trong doanh nghiệp
Trong quá trình SXKD, mỗi doanh nghiệp đều có một phương thức và hình
thức kinh doanh khác nhau. Nhưng mục tiêu của họ vẫn là tạo ra được lợi nhuận cho
mình. Nhưng điều đó chỉ đạt được khi vốn của doanh nghiệp được quản lý và sử dụng
một cách hợp lý.
Vốn được phân ra và sử dụng tuỳ thuộc vào mục đích và loại hình doanh
nghiệp.
1.1.2.1. Phân loại vốn theo nguồn hình thành
Vốn được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là số vốn góp do chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn
này không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không
phải trả lãi suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do kinh doanh có lãi của doanh nghiệp
đẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp cho mình. Tuỳ theo loại hình
doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách thức khác nhau. Thông
thường nguồn vốn này bao gồm vốn góp và lãi chưa phân phối.
Vốn được hình thành từ nợ phải trả
Bất cứ doanh nghiệp nào muốn đi vào hoạt động không chỉ dựa vào nguồn vốn
chủ sở hữu mà còn phải tận dụng các mối quan hệ huy động thêm vốn từ bên ngoài
như: Vay ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng và các đơn vị kinh tế khác. Thậm chí
trong quá trình SXKD có khả năng doanh nghiệp phải nợ người bán, nợ lương công
nhân viên để tích luỹ vốn đáp ứng nhu cầu vốn quá lớn ở một khâu nào đó thì mới có
thể duy trì được các hoạt động. Tất cả những khoản trên được hạch toán vào khoản
mục nợ phải trả của doanh nghiệp nên sau một thời hạn nhất định theo thỏa thuận
doanh nghiệp phải trả cả gốc và lãi cho chủ nợ. Trong trường hợp này những người tài
trợ cho doanh nghiệp không phải là người chủ sở hữu doanh nghiệp vì vậy khi doanh
nghiệp huy động vốn từ nguồn này sẽ bị áp lực phải trả nợ và không tự chủ về mặt tài
chính. Mặc dù vậy, nguồn tài trợ từ các khoản vay nợ vẫn là chỗ dựa vững chắc cho
các doanh nghiệp khi cần vốn để duy trì hoạt động SXKD hay tích luỹ vốn để tái sản
xuất mở rộng qui mô hoạt động.
1.1.2.2. Phân loại theo tốc độ luân chuyển
Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, vốn vận động một cách liên tục. Nó
biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau, từ tiền mặt đến tư liệu lao động,
hàng hoá dự trữ... Sự khác nhau về mặt vật chất này tạo ra đặc điểm luân chuyển vốn,
theo đó người ta phân chia vốn thành hai loại là vốn cố định và vốn lưu động.
5
Thang Long University Library
Vốn cố định
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận đầu tư ứng trước về tài sản cố
định và tài sản đầu tư cơ bản, mà đặc điểm luân chuyển từng phần trong nhiều chu kỳ
SXKD và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Quy mô của vốn cố định quyết định quy mô của tài sản cố định nhưng các đặc
điểm của tài sản cố định lại ảnh hưởng đến sự vận động và công tác quản lý vốn cố
định. Muốn quản lý vốn cố định một cách hiệu quả thì phải quản lý sử dụng tài sản cố
định một cách hữu hiệu.
Vốn lưu động
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài
sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực
hiện thường xuyên liên tục.
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn, thường xuyên luân chuyển trong
quá trình kinh doanh. Tài sản lưu động tồn tại dưới dạng dự trữ sản xuất (nguyên vật
liệu, bán thành phẩm, công cụ, dụng cụ...) sản phẩm đang trong quá trình sản xuất (sản
phẩm dở dang), thành phẩm, chi phí tiêu thụ, tiền mặt...trong giai đoạn lưu thông.
Trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu được thể
hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có thanh khoản cao, các khoản phải
thu và dự trữ tồn kho.
Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp SXKD thường chiếm tỷ
trọng cao trong tổng giá trị tài sản. Vì vậy, sử dụng vốn lưu động hợp lý có ảnh hưởng
rất quan trọng đến việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp, trong đó có
công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.1.2.3. Phân loại theo thời gian sử dụng vốn
Vốn ngắn hạn
Vốn ngắn hạn là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh số có
thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt
động SXKD của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn và
các khoản chiếm dụng của bạn hàng.
Vốn dài hạn
Vốn dài hạn là nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có
thể sử dụng để đầu tư vào tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu
thường xuyên cần thiết cho hoạt động doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ
sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn
một cách phù hợp với thời gian và mục đích sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho
SXKD và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
6
Tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu mà người ta phân loại vốn theo những cách khác
nhau để tiến hành phân tích. Tuy nhiên, trong khóa luận sẽ chủ yếu phân tích hiệu quả
sử dụng vốn thông qua tiêu thức phân loại theo tốc độ luân chuyển vốn.
1.2. Tổng quan chung về hiệu quả sử dụng vốn và phân tích hiệu quả sử dụng vốn
trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn
Bất kỳ một hoạt động SXKD nào, đều mong muốn đạt được những kết quả hữu
ích nào đó. Kết quả đạt được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng phần nào yêu cầu của
cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, kết quả đó được tạo ra ở mức nào là vấn đề phải xem xét
vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo nên kết quả đó. Hiệu quả của doanh
nghiệp bao gồm hai bộ phận: hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả xã hội: là đại lượng phản ánh mức độ thực hiện các mục tiêu xã hội
của doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được của doanh nghiệp
đến xã hội và môi trường.
Hiệu quả kinh tế: là hiệu quả chỉ xét trên phương diện kinh tế của hoạt động
kinh doanh. Nó mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt được
với chi phí đã bỏ ra để đạt được lợi ích đó.
Thực chất của hiệu quả kinh tế là thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời
gian. Nó biểu hiện trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để thực hiện mục
tiêu xác định. Nó quy định động lực phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện
phát triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống của loài người qua mọi thời đại.
Tóm lại, hiệu quả kinh tế là phạm trù khách quan phản ánh trình độ và năng lực
quản lý, biện pháp tổ chức sản xuất đảm bảo thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ
kinh tế mà xã hội đặt ra trong từng thời kỳ với chi phí nhỏ nhất (tối đa hoá lợi ích, tối
thiểu hoá lượng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, thu lợi nhuận cao, hoàn vốn
nhanh).
Dựa vào khái niệm của hiệu quả kinh tế, ta có thể đưa ra khái niệm về hiệu quả
sử dụng vốn như sau: “Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh
tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh
lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của
chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp biểu hiện mối quan hệ giữa đầu
ra và đầu vào của quá trình kinh doanh hay cụ thể là quan hệ giữa toàn bộ kết quả
kinh doanh với toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó”.
Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn không chỉ thể hiện đơn thuần ở kết quả kinh
doanh và chi phí kinh doanh, mà nó còn thể hiện ở nhiều mặt chỉ tiêu về kinh tế, thanh
toán, số vòng quay của vốn.
7
Thang Long University Library
Về mặt lượng, hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở mối tương quan giữa kết quả
thu được từ hoạt động bỏ vốn đó mang lại với lượng vốn bỏ ra. Chỉ tiêu này là cơ sở
để xác định quy mô tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực.
Về mặt định tính hiệu quả sử dụng vốn thể hiện trình độ khai thác, quản lý và
sử dụng vốn của doanh nghiệp. [3, tr.230]
1.2.2. Khái niệm, mục tiêu, vai trò của phân tích hiệu quả sử dụng vốn
1.2.2.1. Khái niệm phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử
dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm đến mục tiêu cuối
cùng của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận.
Do đó, phân tích hiệu quả sử dụng vốn tức là ta đi phân tích cơ cấu, biến động
vốn, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính như hiệu
suất sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, sức sinh lời của vốn, tốc độ luân chuyển
vốn... để phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình SXKD thông qua
thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra
để thực hiện nhiệm vụ SXKD. Lợi nhuận thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra
thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Kết quả lợi ích tạo ra sử dụng vốn phải thõa mãn
yêu cầu: đáp ứng được lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của nhà đầu tư ở mức độ
mong muốn cao nhất đồng thời nâng cao lợi ích của nền kinh tế xã hội. [3, tr.47]
1.2.2.2. Mục tiêu và vai trò của phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại và
phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Để đạt được kết quả cao
nhất trong hoạt động SXKD, các doanh nghiệp cần phải đưa ra phương hướng mục
tiêu trong đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện có sẵn về các nguồn như: vốn,
nguồn nhân tài, vật lực... Muốn vậy, các doanh nghiệp cần nắm được các nhân tố ảnh
hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh. Điều
này chỉ thực hiện được trên cơ sở phân tích và sử dụng hợp lý các nguồn sẵn có trong
hoạt động SXKD, trong đó có vốn của doanh nghiệp.
Mọi hoạt động kinh tế của hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đều nằm trong
thế liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có tiến hành phân tích hoạt động sử dụng vốn một
cách toàn diện mới có thể giúp cho các nhà doanh nghiệp đánh giá đầy đủ và sâu sắc
trong hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một
cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu, nó được biểu hiện bằng các chỉ
tiêu kinh tế - kỹ thuật - tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, phân tích sâu sắc các
nguyên nhân hoàn thành và không hoàn thành các chỉ tiêu đó trong sự tác động lẫn
nhau giữa chúng. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu trong công tác
quản lý vốn trong doanh nghiệp. Mặt khác, qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn, giúp
8
cho các doanh nghiệp tìm ra các biện pháp sát thực để tăng cường hoạt động kinh tế,
và quản lý doanh nghiệp, nhằm phát huy mọi khả năng tiềm tàng về vốn, lao động, đất
đai... vào quá trình SXKD của doanh nghiệp. Trong đó một trong những yếu tố không
thể thiếu được trong công tác này đó là công tác quản lý vốn.
1.2.3. Thông tin sử dụng trong phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Trong phân tích tài chính nói chung và cụ thể ở đây là phân tích hiệu quả sử
dụng vốn, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: Từ những thông
tin nội bộ doanh nghiệp cho đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin
số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể
đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng.
Thông tin sử dụng trong phân tích hiệu quả sử dụng vốn được lấy từ hai nguồn
thông tin chính, đó là nguồn thông tin kế toán và nguồn thông tin khác ngoài kế toán.
Nguồn thông tin kế toán bao gồm nguồn thông tin từ bộ báo cáo tài chính và
nguồn thông tin khác. Trong bộ báo cáo tài chính chủ yếu khai thác thông tin có được
từ bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả hoạt động SXKD.
Nguồn thông tin khác ngoài kế toán thu thập được từ thông tin Bộ ngành liên
quan, tình hình phát triển kinh tế xã hội cũng như các chính sách của Nhà nước. Trong
những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin chung như thông tin
liên quan đến trạng thái của nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất,
thông tin về ngành kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh
tế, cơ cấu ngành, các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần…) và các
thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình của doanh nghiệp, có thể sử
dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan
trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt
động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho hoạt động phân
tích tài chính nói chung và hoạt động phân tích hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. [1,
tr.32-37]
1.2.4. Phương pháp phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Có ba phương pháp để phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là
phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp phân tích so sánh và phương pháp đồ thị.
Phương pháp so sánh: So sánh là một trong hai phương pháp được sử dụng
phổ biến trong hoạt động phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ
tiêu phân tích. Vì vậy, để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so
sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung,
tính chất và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh.
Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là
9
Thang Long University Library
kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số
tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện năm
nay và năm trước, so sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch, so sánh số thực hiện của
doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành...
Phương pháp tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của
đại lượng tài chính. Về nguyên tắc thì phương pháp tỷ lệ đòi hỏi phải xác định được
các ngưỡng, các định mức để nhận xét, để đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp, trên cơ sở so sách các tỷ lệ của doanh nghiệp với tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính của doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành
các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm
tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ
lệ lại bao gồm nhiều nhóm tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng hoạt động của bộ phân tài
chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích sử
dụng những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng
vốn, người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu thường được các doanh nghiệp sử dụng.
Phương pháp đồ thị: Đồ thị là phương pháp nhằm phản ánh trực quan các số
liệu phân tích bằng biểu đồ hoặc đồ thị. Qua đó để mô tả xu hướng, mức độ biến động
của các chỉ tiêu cần phân tích, hoặc thể hiện mối liên hệ kết cấu của các bộ phận trong
một tổng thể nhất định. Phương pháp này càng ngày càng được dùng phổ biến nhằm
biểu hiện tính đa dạng, phức tạp của nội dung phân tích. Đồ thị hoặc biểu đồ thể hiện
qua các góc độ:
Biểu thị quy mô (độ lớn) các chỉ tiêu phân tích qua thời gian như: tổng tài sản,
tổng doanh thu, hiệu quả sử dụng vốn… hoặc có thể biểu hiện tốc độ tăng trưởng của
các chỉ tiêu phân tích qua thời gian như tốc độ tăng tài sản,… [1, tr.37-38]
1.3. Nội dụng phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.3.1. Phân tích cơ cấu vốn
Để tiến hành hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định nhu
cầu đầu tư, tiến hành tạo lập, tìm kiếm, tổ chức và huy động vốn. Doanh nghiệp có thể
huy động cho nhu cầu kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau; trong đó, có thể qui về
hai nguồn chính là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Doanh nghiệp có trách nhiệm xác định số vốn cần huy động, nguồn huy động,
thời gian huy động, chi phí huy động… sao cho vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu về vốn
kinh doanh, vừa tiết kiệm chi phí huy động, tiết kiệm chi phí sử dụng vốn và đảm bảo
an ninh tài chính cho doanh nghiệp. Vì thế, qua phân tích cơ cấu nguồn vốn, các nhà
quản lý nắm được cơ cấu vốn nguồn vốn, các nhà quản lý nắm được cơ cấu nguồn
vốn huy động, biết được trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các nhà cho vay, nhà
cung cấp, người lao động, ngân sách… về số tài sản tài trợ bằng nguồn vốn của họ.
10
Cũng qua phân tích cơ cấu nguồn vốn, các nhà quản lý cũng nắm được mức độ độc
lập về tài chính cũng như xu hướng biến động cơ cấu nguồn vốn huy động.
Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn cũng tiến hành tương tự như phân tích cơ cấu
tài sản. Trước hết, các nhà phân tích cần tính ra và so sánh tình hình biến động giữa
kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số
nguồn vốn. Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn
được xác định như sau:
T trọng vốn i
Giá trị vốn i
Tổng số nguồn vốn
[3, tr.147; 2, tr.580]
1.3.2. Phân tích tình hình biến động vốn
Các nhà quản lý muốn biết được chính xác tình hình biến động vốn, nắm được
các nhân tố ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động về cơ cấu nguồn vốn, các nhà
phân tích không những xem xét tình hình biến động về tỷ trọng của từng bộ phận
nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn mà còn kết hợp cả việc phân tích ngang, tức
là so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích và kỳ gốc (cả về số tuyệt đối và số tương
đối) trên tổng số nguồn vốn cũng như theo từng loại nguồn vốn.
Bên cạnh sự so sánh sự biến động trên tổng số nguồn vốn cũng như từng loại
nguồn vốn (vốn chủ sở hữu, nợ phải trả) giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà phân
tích còn xem xét từng tỷ trọng từng loại nguồn vốn chiếm trên tổng số và xu hướng
biến động của chúng theo thời gian để thấy được mức độ hợp lý và an ninh tài chính
của doanh nghiệp trong việc huy động vốn.
Việc đánh giá phải dựa trên tình hình biến động của từng bộ phận vốn huy động
và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Trong điều kiện cho
phép, có thể xem xét và so sánh sự biến động về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn
chiếm trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp qua nhiều năm với cơ cấu chung của
ngành để đánh giá. [3, tr.148]
1.3.3. Chiến lược quản lý vốn trong doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn một chính sách vốn riêng và việc quản lý
vốn tại mỗi doanh nghiệp sẽ mang những đặc điểm rất khác nhau. Thông qua thay đổi
cấu trúc tài sản và nợ, công ty có thể làm thay đổi chính sách vốn một cách đáng kể.
Việc kết hợp các mô hình quản lý tài sản và mô hình quản lý nợ của doanh
nghiệp có thể tạo ra 3 chính sách quản lý vốn trong doanh nghiệp: Chính sách cấp tiến,
chính sách thận trọng và chính sách dung hòa.
11
Thang Long University Library
Mô hình chiến lƣợc quản lý vốn
Hình 01
Hình 02
TSNH
NVNH
TSNH
NVNH
TSDH
NVDH
TSDH
NVDH
Hình 03
TSNH
NVNH
TSDH
NVDH
Chính sách vốn cấp tiến hay mạo hiểm (hình 01)
Chiến lược quản lý mạo hiểm là sự kết hợp giữa chính sách quản lý tài sản mạo
hiểm với chiến lược quản lý nguồn vốn mạo hiểm, doanh nghiệp đã sử dụng một phần
nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho TSDH. Trong đó, quản lý tài sản mạo hiểm là việc
duy trì TSNH ở mức thấp, tương đương với điều đó là mức hàng tồn kho, phải thu
khách hàng và tiền ở mức thấp. Vì mọi tài khoản đều được quản lý chặt chẽ nên hiệu
quả sử dụng vốn được nâng cao, bên cạnh đó các khoản chi phí về lưu kho, chi phí duy
trì chính sách tín dụng và chi phí cơ hội được giảm tối đa kéo theo thu nhập gia tăng.
Tuy nhiên, thu nhập gia tăng đồng nghĩa với việc rủi ro cũng tăng theo. Ví dụ như việc
dự trữ hàng tồn kho ở mức thấp có thể dẫn đến tình trạng không đủ hàng để cung cấp;
hay lượng tiền trong két của doanh nghiệp được giữ ở mức tối thiểu nhiều khi không
đáp ứng được nhu cầu cần tiền gấp. Và các biện pháp quản lý chính sách tín dụng quá
chặt có thể khiến doanh nghiệp mất đi cơ hội gia tăng doanh thu.
Quản lý nguồn vốn mạo hiểm đồng nghĩa với việc doanh nghiệp giữ nguồn vốn
ngắn hạn ở mức cao. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nguồn vốn ngắn hạn
có chi phí sử dụng thường thấp hơn nguồn vốn dài hạn, dẫn đến thu nhập nhận được
gia tăng. Chiến lược quản lý cấp tiến được hình thành từ việc kết hợp hai chính sách
nêu trên, với việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cả TSNH và một phần
TSDH. Chiến lược này tuy mang lại rủi ro cao đối với doanh nghiệp do việc sử dụng
vốn ngắn hạn tài trợ cả TSCĐ có vòng quay vốn kéo dài nên có thể xảy ra tình trạng
doanh nghiệp chưa kịp thu vốn để hoàn trả khi đến hạn. Tuy nhiên, khi áp dụng chiến
12
lược này doanh nghiệp sẽ có được mức thu nhập cao do hạn chế được các chi phí trong
lưu kho, chi phí lãi.
Chính sách vốn lƣu động thận trọng (hình 02)
Chiến lược quản lý vốn lưu động thận trọng là sự kết hợp giữa chính sách quản
lý tài sản thận trọng và quản lý nguồn vốn thân trọng, doanh nghiệp đã sử dụng một
phần nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho TSNH. Chính sách này có tính an toàn cao hơn
do doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn trong dài hạn có mức độ ổn định cao để tài trợ
cho những TSNH có thời gian thu hồi vốn nhanh. ét trong ngắn hạn, những khoản tài
trợ này chỉ mất khoản phí để sử dụng mà chưa cần hoàn trả vốn gốc, doanh nghiệp có
thể tiếp tục sử dụng phần lợi nhuận thu được sau khi trả lãi vay để tái đầu tư. Tuy
nhiên, nếu xét tổng thể, chi phí sử dụng vốn của các khoản vay này lại cao hơn, ngoài
ra doanh nghiệp phải gánh chịu thêm các khoản chi phí khác như: chi phí lưu kho do
mức hàng tồn kho ở mức cao, chi phí phát sinh khi chính sách tín dụng được nới rộng,
chi phí cơ hội vì lưu trữ lượng lớn tiền mặt trong tay. Chi phí tăng cao khiến thu nhập
của doanh nghiệp giảm, kéo rủi ro giảm theo.
Chính sách vốn lƣu động dung hòa (hình 03)
Dựa trên cơ sở của nguyên tắc tương thích: TSNH được tài trợ hoàn toàn bằng
nguồn ngắn hạn và TSDH được tài trợ bằng nguồn dài hạn. Chính sách dung hoà có
đặc điểm kết hợp quản lý tài sản thận trọng với nợ cấp tiến hoặc kết hợp quản lý tài
sản cấp tiến với nợ thận trọng. Tuy nhiên, trên thực tế, để đạt được trạng thái tương
thích không hề đơn giản do vấp phải những vấn đề như sự tương thích kỳ hạn, luồng
tiền hay khoảng thời gian, do vậy chính sách này chỉ cố gắng tiến tới trạng thái tương
thích, dung hòa rủi ro và tạo ra mức thu nhập trung bình hạn chế nhược điểm của hai
chính sách trên. [7]
1.3.4. Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.3.4.1. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Quá trình hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp cũng là quá trình hình
thành và sử dụng vốn kinh doanh. Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp là thu được lợi
nhuận vì thế hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện ở số lợi nhuận doanh nghiệp thu
được trong kỳ và mức sinh lời của đồng vốn kinh doanh. Trong cơ cấu vốn kinh
doanh, vốn lưu động thường chiếm tỷ trọng lớn, nó quyết định tới tốc độ tăng trưởng,
hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn
lưu động càng cao chứng tỏ hoạt động SXKD của doanh nghiệp càng có hiệu quả. Do
đó, mỗi doanh nghiệp phải thường xuyên tính toán, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu
động để từ đó có biện pháp tổ chức quản lý, sử dụng VLĐ tốt hơn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, doanh nghiệp có thể sử dụng các
chỉ tiêu sau:
13
Thang Long University Library
Hiệu suất sử dụng vốn lƣu động
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích vốn lưu động quay được bao nhiêu
-
vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động là tốt. Hoặc cho
biết một đồng vốn lưu động đầu tư trong kỳ có thể làm ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Số doanh thu tạo ra trên một đồng vốn lưu động càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu
động càng cao.
Hiệu suất sử dụng vốn lƣu động
Doanh thu thuần
Vốn lƣu động ình qu n
Chu kỳ luân chuyển vốn lƣu động
Chi tiêu này cho biết thời gian cần thiết để hoàn thành một vòng luân chuyển
-
vốn lưu động. Chu kỳ luân chuyển càng ngắn chứng tỏ vốn lưu động luân chuyển càng
nhanh.
Chu kỳ lu n chuyển vốn lƣu động
-
36
Hiệu suất sử dụng vốn lƣu động
T suất sinh lời vốn lƣu động
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn lưu động, được xây dựng trên
cơ sở lợi nhuận của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao cho biết doanh nghiệp đã sử
dụng vốn lưu động có hiệu quả, ngược lại với chỉ tiêu này thấp có nghĩa là lợi nhuận
trên 100 đồng vốn là nhỏ. Doanh nghiệp được đánh giá là sử dụng vốn lưu động kém
hiệu quả hay không là được phản ánh một phần qua chỉ tiêu này.
T suất sinh lời của vốn lƣu động =
Lợi nhuận sau thuế x 100%
Vốn lƣu động trung bình
Hệ số đảm nhiệm vốn lƣu động
Chỉ số này phản ánh số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu
thuần trong kỳ. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. Công
thức:
-
VLĐ ình qu n trong kỳ
Hệ số đảm nhiệm VLĐ
Doanh thu thuần
Mức tiết kiệm vốn lƣu động
Mức tiết kiệm vốn lưu động có được do tăng tốc độ luân chuyển vốn được biểu
hiện bằng hai chỉ tiêu là mức tiết kiệm tương đối và mức tiết kiệm tuyệt đối.
-
Mức tiết kiệm vốn lưu động tuyệt đối: Nếu quy mô kinh doanh không thay đổi,
việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động đã giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được
một lượng vốn lưu động có thể rút ra khỏi luân chuyển dùng vào việc khác. Công thức
xác định số vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối:
14
Mức tiết kiệm vốn lưu động tương đối: Nếu quy mô kinh doanh được mở rộng,
việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động đã giúp doanh nghiệp không cần tăng thêm
vốn lưu động hoặc bỏ ra số vốn lưu động ít hơn so với trước. Công thức xác định số
vốn lưu động tiết kiệm tương đối:
Trong đó:
Vtktđ1: Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối
Vtktđ2: Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối
M0, M1: Doanh thu thuần kỳ trước, kỳ này
V0,V1: Hiệu suất sử dụng vốn lưu động kỳ trước và kỳ này
-
Các chỉ tiêu bộ phận đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lƣu động
Các chỉ tiêu đánh giá hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho: Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng
quản trị hàng tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình
quân luân chuyển trong kỳ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho được xác định bằng GVHB
chia cho bình quân hàng tồn kho.
Số v ng quay hàng tồn kho
Giá vốn hàng án
Hàng hoá tồn kho ình qu n
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để đánh giá
năng lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu. Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng
của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược lại, hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng
hàng tồn kho thấp. Nhưng cũng cần lưu ý là hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành
nghề kinh doanh nên không phải cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
càng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột
ngột thì rất có khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh
giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ nguyên vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không
đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn
kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách
hàng.
Thời gian quay vòng hàng tồn kho: Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày cần thiết để
hàng tồn kho quay được một vòng. Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho và số ngày chu
chuyển tồn kho có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Vòng quay tăng thì ngày chu chuyển
giảm và ngược lại.
36
Thời gian quay v ng hàng tồn kho
Số v ng quay hàng tồn kho
15
Thang Long University Library
Các chỉ tiêu đánh giá về tình hình các khoản phải thu
Số vòng quay các khoản phải thu
Số vòng quay các
khoản phải thu
Doanh thu thuần
=
Bình quân khoản phải thu khách hàng
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu nợ của doanh nghiệp trong kỳ phân tích
doanh nghiệp đă thu được bao nhiêu nợ và số nợ còn tồn đọng chưa thu được là bao
nhiêu. Tỷ số này càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là cao. Quan sát
số vòng quay khoản phải thu sẽ cho biết chính sách bán hàng trả chậm của doanh
nghiệp hay tình hình thu hồi nợ của doanh nghiêp.
Kỳ thu tiền bình quân: Chỉ tiêu này được đánh giá khả năng thu hồi vốn trong
các doanh nghiệp, trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân 1
ngày. Nó phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu. Vòng quay các
khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và ngược lại. Tuy nhiên, kỳ
thu tiền bình quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể kết luận chắc chắn mà
còn phải xem xét lại mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như: mục tiêu mở rộng
thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Mặt khác, khi chỉ tiêu này được
đánh giá là khả quan, thì doanh nghiệp cũng cần phải phân tích kỹ hơn vì tầm quan
trọng của nó và kỹ thuật tính toán che dấu đi các khuyết điểm trong việc quản lý các
khoản phải thu.
Kỳ thu tiền bình quân
=
360
Số vòng quay các khoản phải thu
Thời gian trả nợ trung bình
Thời gian trả
nợ trung bình
Hệ số trả nợ =
=
360
Hệ số trả nợ
Giá vốn hàng bán + Chi phí chung bán hàng, quản lý
Phải trả ngƣời án + Lƣơng, thƣởng, thuế phải trả
Hệ số trả nợ (hay chính là vòng quay trả nợ) và thời gian trả nợ trung bình là
chỉ tiêu vừa phản ánh uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng vừa phản ánh khả
năng trả nợ của doanh nghiệp. Đối lập với vòng quay khoản phải thu và vòng quay
hàng tồn kho có xu hướng ngày càng tăng càng tốt thì đối với doanh nghiệp càng chậm
trả nợ thì càng tốt, vậy nên họ rất muốn kéo dài thời gian hoàn trả nợ dẫn đến vòng
quay phải trả thấp. Vòng quay phải trả thấp, số ngày trả nợ kéo dài có thể là dấu hiệu
cho thấy công ty rất có uy tín và là khách hàng tốt nhất của nhà cung cấp nên được cho
trả chậm, nhưng cũng là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc
trả các khoản nợ đến hạn.
16
Thời gian quay vòng tiền trung bình
Thời gian quay v ng tiền
Kỳ thu
Thời gian
Thời gian
tiền ình + quay vòng - trả nợ trung
quân
hàng tồn kho
bình
Chỉ tiêu thời gian quay vòng tiền là sự kết hợp của ba chỉ tiêu đánh giá công tác
quản lý hàng lưu kho, khoản phải thu, khoản phải trả. Chỉ số này cho biết sau bao
trung bình
=
nhiêu ngày thì số vốn của doanh nghiệp được quay vòng để tiếp tục hoạt động SXKD
kể từ khi doanh nghiệp bỏ vốn ra. Thời gian quay vòng tiền ngắn, chứng tỏ doanh
nghiệp sớm thu hồi được tiền mặt trong hoạt động SXKD, quản lý hiệu quả khi giữ
được thời gian quay vòng hàng tồn kho và các khoản phải thu ở mức thấp, chiếm dụng
được thời gian dài đối với các khoản nợ. Tuy nhiên, cũng tùy vào đặc điểm của ngành
nghề kinh doanh mà đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch
vụ thì thời gian quay vòng tiền sẽ ngắn hơn nhiều so với doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất.
1.3.4.2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Vốn cố định được ứng ra và sau một thời gian tương đối dài mới thu hồi được
toàn bộ. Do vậy, việc sử dụng tốt số vốn cố định hiện có là vấn đề có ý nghĩa kinh tế
rất lớn. Để đánh giá được trình độ tổ chức và sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp
cần sử dụng chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
-
Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định
trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Vốn cố định sử dụng trong kỳ là
phần giá trị còn lại của nguyên giá TSCĐ. Vốn cố định bình quân được tính theo
phương pháp bình quân số học giữa cuối kỳ và đầu kỳ. Công thức tính như sau:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng VCĐ
Vốn cố định
- Hàm lƣợng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh để thực hiện được một đồng
doanh thu thuần cần có bao nhiêu đồng vốn cố định. Hàm lượng vốn cố định càng thấp
chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao và ngược lại.
Vốn cố định
Hàm lƣợng VCĐ
Doanh thu thuần
- T suất lợi nhuận vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh 100 đồng vốn cố định
sử dụng có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận vốn
cố định càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng lớn và ngược lại.
T suất lợi nhuận VCĐ
Lợi nhuận sau thuế x 100%
Vốn cố định
17
Thang Long University Library
-
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định trong kỳ
Hiệu suất sử dụng TCSĐ trong kỳ =
Doanh thu thuần
Nguyên giá TSCĐ
Trong đó:
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định là một trong những tỷ số tài chính đánh giá
khái quát hiệu quả sử dụng tài sản, ở đây là tài sản cố định của doanh nghiệp.
Nguyên giá tài sản cố định sử dụng bình quân trong một kỳ là bình quân số học
của nguyên giá tài sản cố định có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Doanh thu thuần của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động
của doanh nghiệp, nó là nguồn để doanh nghiệp trang trải các chi phí, thực hiện tái sản
xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định dùng vào
hoạt động SXKD trong kỳ phân tích đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu
này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định càng tốt. Do đó, để nâng cao
chỉ tiêu này, đồng thời với việc tăng lượng sản phẩm bán ra, doanh nghiệp phải giảm
tuyệt đối những tài sản cố định thừa, không cần dùng vào sản xuất, bảo đảm tỷ lệ cân
đối giữ tài sản cố định tích cực và không tích cực, phát huy và khai thác tối đa năng
lực sản xuất hiện có của TSCĐ.
Hệ số hao m n tài sản cố định
Chỉ tiêu này, một mặt phản ánh mức độ hao mòn của tài sản cố định trong
doanh nghiệp; mặt khác, nó phản ánh tổng quát tình trạng về năng lực của tài sản cố
-
định cũng như vốn cố định ở thời điểm đánh giá. Công thức tính như sau:
Hệ số hao m n TSCĐ
Số khấu hao lũy kế của TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Tổng nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
- Mức hao phí tài sản cố định
Nguyên giá ình qu n TSCĐ
Mức hao phí TSCĐ
Doanh thu thuần
Qua chỉ tiêu này cho thấy để có 1 đồng doanh thu thuần phải chi bao nhiêu
đồng tài sản cố định. Nếu mức hao phí thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định
cao và ngược lại.
-
Sức sinh lời của tài sản cố định
Lợi nhuận sau thuế
Sức sinh lời của TSCĐ
Giá trị còn lại TSCĐ
Lợi nhuận sau thuế là chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập
doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đơn vị nguyên giá (hoặc giá trị còn lại) của
tài sản cố định tham gia vào quá trình SXKD thì tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
18
Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, tức là khả năng sinh lợi càng cao, hiệu quả sử dụng tài
sản cố định của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
-
Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng của doanh nghiệp
trong việc đảm bảo thanh toán các khoản nợ khi nó đến hạn. Khả năng thanh toán của
doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính các khoản có khả năng thanh toán trong
kỳ với khoản phải thanh toán trong kỳ. Sự thiếu hụt về khả năng thanh khoản có thể
đưa doanh nghiệp tới tình trạng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp đúng hạn và có thể phải ngừng hoạt động. Do đó, nhà quản lý cần chú ý đến
khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn
Tổng nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các
khoản phải thu và hàng tồn kho. Nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn
hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản
phải trả khác... Cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định – thông
thường là một năm. Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn dùng để đo lường khả năng
trả các khoản nợ ngắn hạn bằng các tài sản ngắn hạn, hay nói cách khác là 1 đồng nợ
ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn.
Hệ số này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp càng tốt và ngược lại. Nếu khả năng thanh toán hiện hành nhỏ hơn 1 thì doanh
nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số này quá cao
thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với nhu cầu.
Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu
tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế
nào cho hợp lý.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Tài sản ngắn hạn - Hàng tồn kho
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả năng
thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng tiền (tiền mặt, tiền gửi
ngân hàng, tiền đang chuyển) và các khoản tương đương tiền. Hệ số này nói lên việc
công ty có khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn vì công ty không gặp khó
khăn nào trong việc chuyển từ tài sản lưu động khác về tiền mặt. Đây là hệ số phản
ánh sự chắc chắn nhất khả năng của công ty đáp ứng nghĩa vụ nợ hiện thời. Hệ số này
càng cao thì càng được đánh giá tốt.
19
Thang Long University Library
Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Hệ số khả năng thanh toán tức thời
Tiền và các khoản tƣơng đƣơng tiền
Tổng nợ ngắn hạn
Tiền và các khoản tương đương tiền là các tài sản mang tính thanh khoản cao
nhất của doanh nghiệp. Hệ số thanh toán tức thời thể hiện mối quan hệ tiền (tiền mặt
và các khoản tương đương tiền như chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển đổi...) và khoản
nợ đến hạn phải trả. Hệ số thanh toán tức thời quá cao tức doanh nghiệp dự trữ quá
nhiều tiền mặt thì doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội sinh lời. Các chủ nợ đánh giá mức trung
bình hợp lý cho tỷ lệ này là 0,5. Khi hệ số này lớn hơn 0,5 thì khả năng thanh toán tức
thời của doanh nghiệp là khả quan và ngược lại, nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh
nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.
Hệ số thanh toán lãi vay
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay còn được gọi là hệ số thu nhập trả lãi định
kỳ. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay là một hệ số quan trọng trong các chỉ số về cơ
cấu vốn. Nó cho thấy lợi nhuận trước thuế và lãi vay có đủ bù đắp lãi vay hay không
(không liên quan đến tiền, do đó không liên quan gì để khả năng thanh toán).
EBIT
Hệ số thanh toán lãi vay
Lãi vay
Trong đó lãi trước thuế và lãi vay cũng như lãi vay là của năm cuối hoặc là tổng
của bốn quý gần nhất. Hệ số này giúp đánh giá cấu trúc vốn của doanh nghiệp có tối
ưu hay không thông qua đánh giá kết cấu lợi nhuận cho người cho vay, chính phủ
(thuế) và cổ đông. Từ đó, công ty sẽ đánh giá xem nên vay thêm, giảm tỷ trọng nợ hay
tỷ trọng nợ đã là tối ưu cần duy trì. Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả
năng trả lãi như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi đến gây
sức ép lên công ty, thậm chí dẫn tới phá sản công ty.
Việc tìm xem một công ty có thể thực hiện trả lãi đến mức độ nào cũng rất quan
trọng. Rõ ràng, khả năng thanh toán lãi vay càng cao thì khả năng thanh toán lãi của
doanh nghiệp cho các chủ nợ của mình càng lớn.
Khả năng trả lãi vay của doanh nghiệp thấp cũng thể hiện khả năng sinh lợi của
tài sản thấp. Khả năng thanh toán lãi vay thấp cho thấy một tình trạng nguy hiểm, suy
giảm trong hoạt động kinh tế có thể làm giảm lãi trước thuế và lãi vay xuống dưới mức
nợ lãi mà công ty phải trả, do đó dẫn tới mất khả năng thanh toán và vỡ nợ. Tuy nhiên
rủi ro này được hạn chế bởi thực tế lãi trước thuế và lãi vay không phải là nguồn duy
nhất để thanh toán lãi. Các doanh nghiệp cũng có thể tạo ra nguồn tiền mặt từ khấu
hao và có thể sử dụng nguồn vốn đó để trả nợ lãi. Những gì mà một doanh nghiệp cần
phải đạt tới là tạo ra một độ an toàn hợp lý, bảo đảm khả năng thanh toán cho các chủ
nợ của mình.
20
- Xem thêm -