CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN NGẮN HẠN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.
Khái quát về doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh
doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một cách
thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có
thể thực hiện bởi các doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân. Có nhiều quan điểm
khác nhau khi định nghĩa về doanh nghiệp. Chẳng hạn:
Ở Việt Nam xét về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp ban
hành ngày 29-11-2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như sau: "Doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh - tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lời.".
Xét theo quan điểm hệ thống, doanh nghiệp được xem rằng: "Doanh nghiệp bao
gồm một tập hợp các bộ phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một
mục tiêu. Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất,
thương mại, tổ chức, nhân sự".
Từ cách nhìn nhận như trên có thể phát biểu về định nghĩa doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài chính, vật
chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm
hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi
nhuận của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước: Điều 1 luật DNNN được Quốc hội thông qua ngày
20.4.1995 đã nêu: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ
chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu
kinh tế xã hội Nhà nước quy định. Doanh nghiệp có tư cách hợp pháp có cách pháp
nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh
doanh.
Doanh nghiệp tư nhân: là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn
đăng ký, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Công ty: Là một tổ chức kinh tế mà vốn được đầu tư do các thành viên tham gia
1
góp vào và được gọi là công ty. Họ cùng chia lời và cùng chịu lỗ tương ứng với phần
vốn đóng góp. Trách nhiệm pháp lý của từng hình thức có những đặc trưng khác nhau.
Theo Luật doanh nghiệp, loại hình công ty có các loại: công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
"Công ty được hiểu là sự liên kết của 2 hoặc nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng
sự kiện pháp lý, nhằm tiến hành để đạt được mục tiêu chung nào đó" (theo KUBLER).
Hợp tác xã: là loại hình kinh tế tập thể, do những người lao động và các tổ chức
có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp
luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện
hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, và cải thiện đời sống, góp
phần phát triển kinh tế xã hội.
Ngoài cách phân loại doanh nghiệp căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp,
phân loại theo nguồn gốc tài sản đầu tư vào doanh nghiệp thì có thể phân loại doanh
nghiệp theo các nhân tố sau:
- Phân loại doanh nghiệp dựa vào hình thức và giới hạn trách nhiệm thì doanh
nghiệp có ba loại đó là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp danh, doanh nghiệp
trách nhiệm hữu hạn.
- Phân loại dựa vào quy mô của doanh nghiệp thì chia làm ba loại đó là doanh
nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn.
- Phân loại dựa vào ngành nghề kinh doanh thì chia làm hai loại đó là doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
thương mại,dịch vụ.
1.2. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm của tài sản ngắn hạn
Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý tài sản ngắn hạn đóng vai trò quan
trọng đến việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để đưa ra định nghĩa về "Tài sản
ngắn hạn" có nhiều giáo trình đã đưa ra định nghĩa:
Theo PGS.TS.Lưu Thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản
Thống kê, năm 2003 thì tài sản ngắn hạn được hiểu:
"Tài sản ngắn hạn đó là các tài sản có thời gian thu hồi vốn ngắn, trong khoảng
thời gian 12 tháng hoặc một chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp bao gồm:
Tiền và các khoản tương đương tiền như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển, chứng khoán dễ thanh khoản. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn như cổ
phiếu, trái phiếu. Các khoản phải thu về việc trả trước cho người bán, phải thu nội bộ...
Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng gửi
bán, hàng mua đang đi đường... Các tài sản ngắn hạn thường tham gia và được thu hồi
2
Thang Long University Library
vốn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh".
Theo PGS.TS.Trần Ngọc Thơ, Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp hiện đại,
Nhà xuất bản thống kê, năm 2009 thì tài sản ngắn hạn được hiểu:
"Tài sản ngắn hạn hay cũng gọi là tài sản lưu động là một khoản mục trong bảng
cân đối kế toán bao gồm tất cả loại tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi sang tiền mặt
trong vòng 1 năm hay trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tài sản ngắn hạn bao
gồm tiền mặt và các khoản tương đương tiền, các khoản phải thu ngắn hạn, các khoản
đầu tư tài chính ngắn hạn, hàng tồn kho và những tài sản có tính thanh khoản khác".
Tóm lại, có rất nhiều quan niệm về tài sản ngắn hạn, tuy nhiên ta có thể hiểu một
cách khái quát về tài sản ngắn hạn như sau:
"Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu và
quản lý của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi vốn trong
một kỳ kinh doanh hoặc trong một năm. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có thể
tồn tại dưới hình thái tiền, hiện vật (vật tư, hàng hoá), dưới dạng đầu tư ngắn hạn
và các khoản nợ phải thu. Cũng như tài sản dài hạn, tài sản ngắn hạn là một bộ
phận không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp. Trong lĩnh vực sản xuất tài sản ngắn
hạn được thể hiện dưới hình thái như nguyên vật liệu, vật đóng gói, phụ tùng thay
thế. Trong lĩnh vực lưu thông nó tồn tại thay thế luân phiên cho nhau, vận động
không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục".
(PGS.TS.Lưu Thị Hương, “Giáo trình tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế quốc dân năm 2013, Hà Nội, trang 214-215)
1.2.2. Đặc điểm của tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn được phân bố đủ trong tất cả các khâu, các công đoạn nhằm đảm
bảo cho quá trình sản xuất, không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và đảm bảo
khả năng sinh lời của tài sản. Do đó, tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, tài sản ngắn hạn thường luân chuyển trong một năm hoặc một chu kỳ
kinh doanh. TSNH như tiền mặt, hàng tồn kho thường được sử dụng trong một chu kỳ
kinh doanh, phân biệt với TSDH như thiết bị, máy móc, nhà xưởng thường được sử
dụng trong nhiều năm và trích khấu hao.
Thứ hai, tài sản ngắn hạn biểu hiện dưới các hình thái khác nhau như: tiền và các
tài sản tương đương tiền, khoản phải thu khách hàng, hàng tồn kho và các tài sản ngắn
hạn khác. Các khoản mục này tương ứng với các mục đích chuyên biệt khác nhau của
TSNH trong doanh nghiệp: tiền và các tài sản tương đương tiền hay chứng khoán khả
thị đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp, hàng tồn kho được sử dụng trong
khâu SXKD, các khoản phải thu khách hàng dùng để ghi nhận các khoản tín dụng
thương mại.
3
Thứ ba, tài sản ngắn hạn thường thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo thành
thực thể của sản phẩm. Đặc điểm này là điển hình của doanh nghiệp SXKD, hàng tồn
kho dùng cho mục đích sản xuất thường trải qua một quá trình biến đổi thành thành
phẩm, hàng hóa hoàn chỉnh để xuất bán ra thị trường.
Thứ tƣ, tài sản ngắn hạn có giá trị luân chuyển toàn bộ một lần và giá thành sản
phẩm làm ra. Điều này có nghĩa là mọi chi phí phát sinh trong quá trình biến đổi tài
sản ngắn hạn thành thành phẩm đã được tính vào giá thành của sản phẩm trước khi đưa
ra thị trường.
1.2.3. Vai trò của tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Tài sản ngắn hạn luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp có
thể kinh doanh, sản xuất thuận lợi dù đó là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất hay lĩnh vực thương mại dịch vụ... Hoạt động của bất kỳ doanh nhiệp nào cũng
không thể không có tài sản ngắn hạn. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
ngoài tài sản dài hạn như máy móc, nhà xưởng,… doanh nghiệp còn bỏ ra một lượng
tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu… phục vụ cho quá trình
sản xuất kinh doanh.
Trong sản xuất, tài sản ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp sản xuất thông suốt, đảm
bảo quy trình công nghệ, công đoạn sản xuất. Trong lưu thông, tài sản ngắn hạn đảm
bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng đơn đặt hàng của khách và nhu cầu tiêu thụ nhịp nhàng.
Như vậy tài sản ngắn hạn giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được vận hành một cách liên tục, không bị gián đoạn.
Tài sản ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán, khi
duy trì ở một mức độ hợp lý nó đem lại cho doanh nghiệp những lợi thế nhất định như
được hưởng chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán… Từ đó giúp doanh nghiệp
tiết kiệm được chi phí, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, tài sản ngắn hạn giúp doanh nghiệp tạo dựng được mối quan hệ mật
thiết với khách hàng, đặc biệt là khách hàng lớn và thân thuộc thông qua chính sách tín
dụng thương mại.
Thời gian luân chuyển tài sản ngắn hạn khiến cho công việc quản lý và sử dụng
tài sản ngắn hạn luôn diễn ra thường xuyên, liên tục. Với vai trò to lớn như vậy, việc
tăng tốc độ luân chuyển tải sản ngắn hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
trong doanh nghiệp là nhu cầu tất yếu.
1.2.4. Phân loại tài sản ngắn hạn
Việc phân loại tài sản ngắn hạn tùy thuộc vào mục tiêu của nhà quản lý. Có ba
tiêu thức phân loại chủ yếu thường được sử dụng: phân loại theo hình thái biểu hiện,
phân loại theo vai trò của tài sản ngắn hạn đối với quá trình sản xuất kinh doanh và
4
Thang Long University Library
phân loại theo khoản mục trên bảng cân đối kế toán.
Theo hình thái biểu hiện, tài sản ngắn hạn được chia thành hai loại:
- Tài sản bằng tiền:
Tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản ký cược,
ký quỹ, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn… Tiền là loại tài sản có tính thanh khoản
cao nhất đứng đầu tiên trên tài sản bên bảng cân đối kế toán. Loại tài sản này có thể
dễ dàng chuyển đổi thành các tài sản khác hoặc thanh toán các nghĩa vụ tài chính cho
doanh nghệp, bởi vậy nó cho phép doanh nghiệp duy trì khả năng chi trả và tránh rủi
ro thanh toán. Tuy nhiên, đây cũng là loại tài sản không hoặc gần như không sinh lời.
Các khoản phải thu là khoản nợ của cá nhân, tổ chức đơn vị bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp về số tiền mua sản phẩm, hàng hóa, vật tư và các dịch vụ khác
chưa thanh toán cho doanh nghiệp. Các khoản phải thu là một tài sản rất quan trọng
của doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty kinh doanh thương mại, mua bán hàng hoá.
Hoạt động mua bán chịu giữa các bên, phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Thực
ra, các khoản phải thu gồm nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của quan hệ
mua bán, quan hệ hợp đồng. Các khoản phải thu bao gồm: Phải thu khách hàng, phải
thu nội bộ, các khoản tiền tạm ứng, các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ và các khoản
phải thu khác.
Khoản đầu tư tài chính ngắn hạn là việc doanh nghiệp đem tài sản vật tư, tiền vốn
để mua chứng khoán, góp vốn liên doanh,...nhằm mục đích thu lợi nhuận cao hơn với
thời hạn thu hồi vốn đầu tư không quá 1 năm.Trong khoản mục đầu tư tài chính ngắn
hạn bao gồm 3 khoản mục nhỏ là đầu tư chứng khoán ngắn hạn, đầu tư ngắn hạn khác
và dự phòng giảm giá các khoản đầu tư. Chứng khoán là công cụ và cũng là hàng hóa
trong thị trường tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn để dành tới
những người thiếu vốn nhưng có cơ hội kinh doanh. Chứng khoán ngắn hạn là các loại
chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu Ngân hàng) có thể thu
hồi trong vòng 1 năm. Đầu tư ngắn hạn khác là những khoản đầu tư tài chính ngoài các
khoản đầu tư chứng khoán: Cho vay lấy lãi, tiền gửi có kỳ hạn,... Dự phòng giảm giá
các khoản đầu tư là việc tính trước vào chi phí hoạt động tài chính phần giá trị có thể
bị giảm xuống thấp hơn trong tương lai của các hoạt động đầu tư và phản ánh giá trị
thuần của hoạt động đầu tư trên Báo cáo tài chính.
Cách đánh giá này cho doanh nghiệp biết cơ cấu dự trữ của các khoản mục, khả
năng thanh toán của doanh nghiệp và có giải pháp điều chỉnh hợp lý.
- Tài sản bằng hàng hóa:
Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình SXKD, sản
phẩm dở dang và thành phẩm. Với doanh nghiệp, vật liệu thô không sinh lời song là
5
điều kiện căn bản để sản xuất hàng hóa thành phẩm nên việc dự trữ hàng tồn kho hợp
lý là vấn đề của nhà quản lý để vừa đảm bảo cho quá trình SXKD của doanh nghiệp
mà không làm phát sinh quá nhiều chi phí dự trữ cho doanh nghiệp
Theo vai trò của tài sản ngắn hạn đối với quá trình sản xuất kinh doanh
Tài sản ngắn hạn gồm: TSNH trong khâu dự trữ, TSNH trong khâu trực tiếp sản
xuất, TSNH trong khâu lưu thông.
- Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ bao gồm:
Nguyên vật liệu chính hay bán thành phẩm mua ngoài: là những loại nguyên vật
liệu khi tham gia vào sản xuất chúng cấu tạo nên thực thể sản phẩm.
Nguyên vật liệu phụ: là những loại vật liệu giúp cho việc hình thành sản phẩm làm
cho sản phẩm bền hơn đẹp hơn.
Công cụ dụng cụ lao động: là những tư liệu lao động mà doanh nghiệp sử dụng
trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất bao gồm:
Hàng mua đang đi đường: là giá trị hàng hóa mà doanh nghiệp mua hoặc đặt mua
đã thanh toán và đang trên đường vận chuyển chưa được nhập kho.
Sản phẩm dở dang: sản phẩm chưa hoàn thành hoặc sản phẩm hoàn thành nhưng
chưa làm thủ tục nhập kho...
- Tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông bao gồm:
Hàng hóa: là thành phẩm đã được nhập kho và có thể xuất kho bất cứ lúc nào để
tiêu thụ ra thị trường.
Thành phẩm: là những sản phẩm đã hoàn thành, nhập kho và chờ tiêu thụ.
Hình thức phân loại này cho ta biết vai trò của các tài khoản, dựa vào đó, nhà
quản lý điều chỉnh cơ cấu tài sản hợp lý và có biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán thì tài sản ngắn hạn bao gồm:
- Tiền và các khoản tương đương tiền bao gồm tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân
hàng, tiền đang chuyển (kể cả ngoại tệ), các khoản tương đương tiền.
Tiền mặt: được biểu hiện là tiền tồn quỹ, tiền gửi trong ngân hàng. Tiền mặt được
sử dụng để mua nguyên vật liệu, mua sắm TSCĐ, trả lương nhân viên và chi trả các
khoản khác.
Tiền đang chuyển: là khoản tiền mặt, tiền séc đã xuất khỏi quỹ của doanh nghiệp
đã nộp vào Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, đã gửi vào Bưu điện để trả cho các đơn vị
khác nhưng chưa nhận được giấy báo của Ngân hàng.
Các khoản tương đương tiền: là các khoản đầu tư ngắn hạn không quá 3 tháng, có
6
Thang Long University Library
khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi
thành tiền.
- Tài sản tài chính ngắn hạn: bao gồm các chứng khoán ngắn hạn, các khoản đầu
tư ngắn hạn khác, các khoản dự phòng đầu tư ngắn hạn…Đây là nguồn tài sản vừa có
tính thanh khoản cao, vừa có tính sinh lời. Khi có nhu cầu thanh toán mà tiền không
đáp ứng đủ thì doanh nghiệp sẽ bán các chứng khoán này.
- Các khoản phải thu ngắn hạn: Đây là các khoản mà doanh nghiệp bị tổ chức, cá
nhân, doanh nghiệp khác chiếm dụng. Các khoản này bao gồm: Phải thu khách hàng,
ứng trước cho người bán, phải thu khác, dự phòng khoản phải thu khó đòi.
- Hàng tồn kho: Là những tài sản được giữ để bán trong quá trình kinh doanh
hoặc những nguyên vật liệu đang trong quá trình sản xuất dởdang. Hàng tồn kho bao
gồm: Hàng mua về để bán, thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi đi bán, nguyên vật
liệu công cụ dụng cụ tồn kho, dự phòng hàng tồn kho giảm giá, sản phẩm kinh doanh
dở dang.
- Tài sản ngắn hạn khác: bao gồm tạm ứng, chi phí trảtrước và thế chấp, ký cược,
ký quỹ ngắn hạn…
Tạm ứng: là các khoản tiền vật tư do doanh nghiệp giao cho người nhận tạm ứng
để thực hiện hoạt động kinh doanh nào đó hoặc giải quyết một công việc đã được phê
duyệt.
Chi phí trả trước ngắn hạn: là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có tác
dụng đến kết quả hoạt động của nhiều kỳ thanh toán cho nên chưa thể tính vào chi phí
sản xuất kinh doanh của một kỳ mà tính cho hai kỳ hay nhiều kỳ thanh toán.
Đây là cách phân loại dựa trên khả năng huy động cho việc thanh toán và được
thể hiện rõ ràng trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Thực tế, không phải
doanh nghiệp nào cũng có đủ các khoản mục trên trong bảng cân đối kế toán. Vì vậy,
các doanh nghiệp xác định được chính xác cách phân loại, phù hợp với mình sẽ mang
lại hiệu quả sử dụng cao hơn, có ưu thế trong việc gìn giữ và quản lý, sử dụng tài sản.
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
1.3.
1.3.1.
Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề mà mọi doanh nghiệp quan tâm, sản xuất
có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại trên thị trường. Chính vì thế hiệu quả
sử dụng tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực
khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận và tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử
dụng vốn thường được xem xét ở hai mặt đó là:
- Hiệu quả về mặt xã hội: Một doanh nghiệp phát triển chịu tác động của nhiều
7
yếu tố đến từ xã hội. Doanh nghiệp phát triển ổn định, nợ khách hàng thấp và thực
hiện chính sách tín dụng hợp lý và phát triển phù hợp với tình hình kinh tế xã hội sẽ có
vị thế vững chắc hơn so với những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, uy tín thấp
đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, đầy sự cạnh tranh như thời điểm này.
Đảm bảo một vị trí vững chắc và phù hợp với sự phát triển của xã hội là yếu tố góp
phần tăng sức mạnh cho doanh nghiệp.
- Hiệu quả về mặt kinh tế: Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp được đánh giá
thông qua các chỉ số kinh tế về khả năng sinh lời của của tài sản sau một hay nhiều chu
kỳ kinh doanh. Nhìn chung, mỗi doanh nghiệp có một phương án sử dụng tài sản riêng
nhưng mục đích cuối cùng đều là để tối đa hóa khả năng sản xuất, kinh doanh và tối
thiểu hóa chi phí.
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì nhà quản lý thường quan tâm đến
hiệu quả kinh tế hơn là hiệu quả xã hội vì nó liên quan mật thiết đến khả năng tồn tại
và phá sản của doanh nghiệp, là cơ sở để xếp hạng tín nhiệm hiệu quả xã hội. Tuy
nhiên hiệu quả xã hội cũng đánh giá, ảnh hưởng đến vị thế, uy tín của doanh nghiệp
trong xã hội.
1.3.2.
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Quá trình hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp là quá trình hình thành và
sử dụng vốn kinh doanh. Ngày nay các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị
trường yêu cầu về tài sản ngắn hạn là rất lớn, có thể coi tài sản ngắn hạn là nhựa sống
tuần hoàn trong doanh nghiệp. Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đó. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là yêu
cầu mang tính bắt buộc và thường xuyên đối với doanh nghiệp.
Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu xuyên suốt là tối đa hóa giá trị doanh
nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp thường xuyên phải đưa ra và giải quyết tập hợp các
quyết định tài chính dài hạn và ngắn hạn. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản ngắn
hạn là một nội dung trọng tâm trong các quyết định tài chính ngắn hạn và là nội dung
có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.Với bản chất và định
hướng như trên, doanh nghiệp luôn luôn tìm mọi biện pháp để tồn tại và phát triển.
Xuất phát từ vai trò to lớn đó khiến cho yêu cầu doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn nói chung và tài sản ngắn hạn nói riêng là một yêu cầu khách quan, gắn
liền với bản chất của doanh nghiệp.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của tài sản ngắn hạn: Một doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động kinh doanh thì cần phải có vốn. Tài sản ngắn
8
Thang Long University Library
hạn là một thành phần quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong khâu dự trữ và sản xuất, tài sản ngắn hạn đảm bảo cho sản xuất của
doanh nghiệp được tiến hành liên tục, đảm bảo quy trình công nghệ, công đoạn sản
xuất. Trong lưu thông, tài sản ngắn hạn đảm bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng nhu cầu
tiêu thụ được liên tục, nhịp nhàng và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ được liên tục, nhịp
nhàng và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân chuyển tài sản ngắn
hạn lớn khiến cho công việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn luôn luôn diễn ra
thường xuyên, hàng ngày với vai trò to lớn như vậy, việc tăng tốc độ luân chuyển tài
sản ngắn hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp là một
yêu cầu tất yếu.
Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn: Nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tức là có thể tăng tốc độ luân chuyển tài sản ngắn
hạn, rút ngắn thời gian tài sản ngắn hạn nằm trong lĩnh vực dự trữ, sản xuất và lưu thông, từ
đó giảm bớt số lượng tài sản ngắn hạn chiếm dụng, tiết kiệm tài sản ngắn hạn trong luân
chuyển. Tăng tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn cũng có ảnh hưởng tích cực đối với việc
hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ vốn thỏa mãn nhu cầu
sản xuất và hoàn thành nghĩa vụ nộp các khoản thuế cho ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế, xã hội trong cả nước.
Xuất phát từ thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại các doanh
nghiệp: thực tế có rất nhiều nguyên nhân khiến một doanh nghiệp làm ăn thiếu hiệu
quả. Có thể có các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, tuy nhiên một
nguyên nhân phổ biến vẫn là việc sử dụng vốn không hiệu quả. Trong việc mua sắm,
dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Điều này dẫn đến việc sử dụng lãng phí tài sản
ngắn hạn, tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn thấp, mức sinh lợi kém và thậm chí có
doanh nghiệp còn gây thất thoát không kiểm soát được tài sản ngắn hạn dẫn đến mất
khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán. Xét từ góc độ quản lý tài
chính, yêu cầu cần phải nâng cao năng lực quản lý tài chính, trong đó chú trọng nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một nội dung quan trọng không chỉ đảm bảo
lợi ích riêng doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa chung đối với nền kinh tế quốc dân.
1.3.3.
Thông tin sử dụng trong phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Các thông tin để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
được các nhà phân tích thu thập từ nhiều nguồn: từ thông tin nội bộ doanh nghiệp cho
đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp. Các thông tin này đều giúp cho các nhà
phân tích đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế, chính xác hơn.
Các thông tin được sử dụng trong phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
được lấy từ hai nguồn chính là nguồn thông tin kế toán và nguồn thông tin khác ngoài
9
kế toán.
Nguồn thông tin kế toán đa phần được lấy từ bộ cáo cáo tài chính. Trong đó
chủyếu là khai thác thông tin có được từ bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nguồn thông tin ngoài kế toán thu thập được từ thông tin về ngành liên quan, tình
hình phát triển kinh tế xã hội, các chính sách phát triển của Nhà nước… Cần lưu ý
những thông tin bên ngoài như thông tin về ngành kinh doanh, thông tin về pháp lý,
kinh tế đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đánh giá cơ bản tình hình doanh nghiệp, thông tin từ kế toán nội bộ
doanh nghiệp được coi là nguồn thông tin quan trọng, đáng tin cậy nhất. Với những
đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp
quan trọng những thông tin đáng giá cho hoạt động phân tích tài chính nói chung và
hoạt động phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nói riêng.
1.3.4.
Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn
Như ta đã biết tài sản ngắn hạn chiếm một tỉ trọng tương đối lớn trong tổng giá trị
tài sản nên việc quản lý và sử dụng các loại tài sản ngắn hạn một cách hợp lý và hiệu
quả là vô cùng quan trọng.
Quản lý tài sản ngắn hạn là nhiệm vụ tất yếu duy trì tình hình kinh doanh ổn định
của doanh nghiệp. Việc quản lý tài sản phụ thuộc vào đặc điểm của ngành nghề mà
doanh nghiệp đang kinh doanh, quy mô của doanh nghiệp, mức độ ổn định của doanh
thu và theo từng thời kỳ của doanh nghiệp. Có ba chính sách quản lý tài sản ngắn hạn:
cấp tiến, dung hòa và thận trọng. Quản lý tài sản theo chính sách cấp tiến đồng nghĩa
với việc duy trì tỷ trọng TSNH thấp. Và ngược lại quản lý tài sản theo chính sách thận
trọng là việc duy trì TSNH cao. Quản lý tài sản theo chính sách dung hòa là việc duy
trì TSNH ở mức trung bình.
Hình 1.1. Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn
TSNH
NVNH
Dung hòa
Thận trọng
Cấp tiến
NVNH
TSNH
TSNH
NVNH
TSDH
NVDH
NVDH
TSDH
NVDH
TSDH
NVDH
TSCĐ
(Nguồn: Giáo trình tài chính doanh nghiệp)
10
Thang Long University Library
Chính sách quản lý TSNH cấp tiến
Là sự kết hợp giữa mô hình TSNH cấp tiến và nợ cấp tiến, doanh nghiệp đã sử
dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho TSDH.
Chi phí hoạt động thấp hơn do các khoản phải thu khách hàng ở mức thấp nên chi phí
quản lý cũng ở mức thấp.
Sự ổn định của nguồn vốn không cao bởi lẽ nguồn vốn huy động chủ yếu từ
nguồn ngắn hạn ( thời gian sử dụng < 1 năm)
Khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty không được đảm bảo.
Đem lại nguồn thu nhập cao do chi phí quản lý, chi phí lãi vay, chi phí lưu
kho,...đều thấp làm cho EBIT cao hơn. Tuy nhiên, nó cũng mang lại những rủi ro lớn
cho công ty.
Chính sách quản lý TSNH thận trọng
Là sự kết hợp giữa mô hình quản lý tài sản thận trọng và mô hình nợ thận trọng,
doanh nghiệp đã sử dụng một phần nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho TSNH.
Khả năng thanh toán được đảm bảo. Với chính sách quản lý này, doanh nghiệp
luôn duy trì lượng TSNH lớn trong tổng tài sản để đáp ứng khả năng thanh toán cho
khoản vay ngắn hạn. Với lượng lớn TSNH doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển đổi
thành tiền để đảm bảo khả năng thanh toán.
Tính ổn định của nguồn vốn cao và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh: TSNH có
tính thanh khoản cao nó có thể được bán nhanh chóng mà giá bán không giảm đáng kể
mà việc chuyển đổi thành tiền cũng nhanh chóng. Vì vậy nó có thể giúp doanh nghiệp
hạn chế rủi ro trong việc huy động vốn.
Chi phí huy động vốn cao hơn do các khoản phải thu khách hàng ở mức cao nên
chi phí quản lý cũng cao.
Chính sách quản lý TSNH dung hòa
Dựa trên cơ sở nguyên tắc tương thích được thể hiện trên mô hình cho thấy tài sản
ngắn hạn được tài trợ hoàn toàn bằng nguồn vốn ngắn hạn và TSDH được tài trợ hoàn toàn
bằng nguồn vốn dài hạn. Chính sách dung hòa có đặc điểm kết hợp quản lý tài sản thận
trọng với nợ cấp tiến hoặc kết hợp quản lý tài sản cấp tiến với chính sách nợ thận trọng.
Tuy nhiên trên thực tế, để đạt được trạng thái tương thích không hề đơn giản do
vấp phải nhiều vấn đề do sự tương thích kỳ hạn, luồng tiền hay khoảng thời gian do
vậy mà chính sách này chỉ cố gắng tới trạng thái tương thích, dung hòa rủi ro và tạo ra
mức lợi nhuận trung bình, hạn chế nhược điểm của hai chính sách trên.
1.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao cho nên việc sử dụng
hiệu quả tài sản ngắn hạn là sự lựa chọn đánh đổi giữa khả năng sinh lời với tính thanh
khoản. Do đó, ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
11
Nhóm các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
- Khả năng thanh toán tức thời
Công thức:
Khả năng thanh toán tức thời =
TiÒn + C¸c kho¶n t¬ng ®¬ng tiÒn
Nî ng¾n h¹n
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nợ ngắn hạn của DN được đảm bảo bằng bao
nhiêu đơn vị tiền tệ. Khả năng thanh toán tức thời cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu
tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn
hạn. Nó đo lường khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Nếu khả năng thanh toán hiện thời giảm (do tổng các khoản tương đương tiền
giảm hoặc tổng nợ ngắn hạn tăng) là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính
sẽ xảy ra. Nếu khả năng thanh toán hiện thời cao (tổng các khoản tương đương tiền
tăng hoặc tổng nợ ngắn hạn giảm) có nghĩa là doanh nghiệp luôn sẵn sàng thanh toán
các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu cao quá sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động vì doanh nghiệp
đầu tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn.
Tuy nhiên, khó có thể nói cao hay thấp ở mức nào là tốt và không tốt. Vì chỉ tiêu
này phụ thuộc vào các khoản phải thu và dự trữ mà nó phụ thuộc vào lĩnh vực kinh
doanh của từng doanh nghiệp và của người phân tích.
- Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh =
TSNH - Hµng tån kho
Nî ng¾n h¹n
Khả năng thanh toán nhanh là chỉ tiêu thể hiện khả năng trả nợ ngắn hạn bằng các
tài sản có khả năng chuyển thành tiền một cách nhanh nhất không tính đến hàng tồn
kho vì hàng tồn kho là tài sản không dễ dàng chuyển đổi thành tiền, tức là một đồng
nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản
cao. Đây là chỉ tiêu được các chủ nợ ngắn hạn rất quan tâm vì thông qua các chỉ tiêu
này, các chủ nợ có thể đánh giá được tại thời điểm phân tích doanh nghiệp có khả năng
thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn hay không. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, chỉ tiêu này chưa phản ánh một cách chính xác khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
TSNH. Do đó, để đánh giá chính xác và chặt chẽ hơn cần xem xét thêm khả năng
thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
- Khả năng thanh toán ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng chuyển đổi trong ngắn hạn các TSNH thành tiền
để chi trả các khoản nợ ngắn hạn và được xác định bằng công thức:
12
Thang Long University Library
TSNH
Nî ng¾n h¹n
Khả năng thanh toán ngắn hạn=
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là chỉ tiêu cho thấy khả năng đáp ứng các
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nợ ngắn hạn là những khoản nợ
mà doanh nghiệp phải thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh.
Nếu trị số của chỉ tiêu này lớn hơn hoặc bằng 1, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là ổn định hoặc khả quan. Ngược
lại, nếu hệ số này nhỏ hơn 1, doanh nghiệp không bảo đảm đáp ứng được các khoản nợ
ngắn hạn. Trị số này càng nhỏ hơn 1, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp càng thấp. Hệ số này lớn hay nhỏ hơn còn phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề
kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn đối với doanh nghiệp thương mại, TSNH
thường chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng tài sản nên hệ số này tương đối cao. Do đó,
khi đánh giá khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cần phải dựa vào hệ số trung bình của
doanh nghiệp cùng ngành. Tuy nhiên, hệ số này chỉ phản ánh một cách tạm thời tình
hình thanh toán của doanh nghiệp vì tài sản ngắn hạn bao gồm cả các khoản phải thu
và hàng tồn kho. Chính vì vậy để đánh giá chính xác hơn về khả năng thanh toán của
doanh nghiệp, ta cần xét thêm một số chỉ tiêu khác.
- Khả năng thanh toán hiện hành
Khả năng thanh toán hiện hành =
TSNH
Nî ng¾n h¹n
Khả năng thanh toán hiện hành cho thấy công ty có bao nhiêu tài sản có thể
chuyển bằng tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo
lường được khả năng trả nợ của công ty.
Nếu khả năng thanh toán hiện hành giảm (do tổng tài sản ngắn hạn giảm hoặc
tổng nợ ngắn hạn tăng) cho thấy khả năng thanh toán giảm và cũng là dấu hiệu báo
trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra. Nếu khả năng thanh toán hiện hành cao
(tổng tài sản ngắn hạn tăng hoặc tổng nợ ngắn hạn giảm) điều đó có nghĩa là công ty
luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu khả năng thanh toán hiện hành
quá cao sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động vì công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản
ngắn hạn hay nói cách khác việc quản lý tài sản ngắn hạn không hiệu quả.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
- Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn được xác định bằng công thức:
Tû suÊt sinh lêi cña tµi s¶n ng¾n h¹n=
13
Lîi nhuËn sau thuÕ
TSNH b×nh qu©n
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn và cho biết một đồng
tài sản ngắn hạn bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu lợi nhuận. Tỷ lệ doanh
lợi tài sản ngắn hạn càng cao thì hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao.
- Tỷ suất về khả năng sinh lời
Lợi nhuận là mục tiêu của doanh nghiệp và đồng thời cũng là hệ quả của các
quyết định quản trị, thể hiện hiểu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các tỷ suất về lợi
nhuận đo lường mối quan hệ giữa lợi nhuận ròng đối với doanh thu thuần, tổng tài sản
có và vốn riêng của doanh nghiệp.
- Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS)
Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu được xác định bằng công thức:
Lợi nhuận sau thuế
ROS =
Doanh thu
Tỷ suất này phản ánh cứ 1 đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu phần trăm lợi
nhuận. Có thể sử dụng nó trong việc so sánh với tỷ suất của các năm trước. Sự biến
động của tỷ suất này phản ánh sự biến động về hiệu quả ảnh hưởng các chiến lược tiêu
thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)
ROA là chỉ số đo khả năng tạo lợi nhuận từ đầu tư tài sản, phản ánh một đồng đầu
tư vào tài sản có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. ROA càng cao thì chứng
tỏ công ty càng tạo ra được nhiều lợi nhuận hơn trên lượng đầu tư ít hơn.
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Một trong những khía cạnh được quan tâm nhất của thu nhập trên tổng tài sản là
khả năng phối hợp của các chỉ số tài chính để tính toán ROA. Một ứng dụng được
nhắc đến nhiều nhất là mô hình phân tích Dupont dưới đây:
ROA
Lîi nhuËn sau thuÕ Doanh thu thuÇn
Doanh thu thuÇn
Tæng tµi s¶n
Như vậy, ROA chịu tác động của 2 yếu tố là ROS và vòng quay tài sản. Để tăng
ROA, doanh nghiệp cần thay đổi hợp lý 2 yếu tố trên. Để đánh giá chính xác ROA,
cần so sánh với bình quân hoặc với các doanh nghiệp tương tự cùng ngành do chỉ số
này phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh trong kỳ và đặc điểm kinh doanh từng
ngành nghề khác nhau. ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được
tạo ra từ lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản). ROA đối với các công ty cổ phần có sự
khác biệt rất lớn và phụ thuộc nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử
dụng ROA để so sánh các công ty, tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi công ty qua
các năm và so giữa các công ty tương đồng nhau.
14
Thang Long University Library
Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai
nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Hiệu quả của
việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA càng cao thì
càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.
- Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Trong tất cả các mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới thì mục tiêu lợi nhuận ròng
cho chủ sở hữu doanh nghiệp là quan trọng nhất. Để đánh giá hiệu quả thực hiện mục
tiêu của doanh nghiệp người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu.
Chỉ tiêu này phản ánh trong một trăm đồng vốn chủ sở hữu đầu tư vào doanh nghiệp
thì tạo ra được bao nhiêu đồng lãi cho chủ sở hữu. Chỉ số náy cho biết một trăm đồng
vốn chủ sở hữu đầu tư vào doanh nghiệp góp phần tạo ra bao nhiêu đồng lãi cho chủ
sở hữu. Đây là chỉ số tài chính quan trọng nhất và thiết thực nhất với chủ sở hữu.
ROE =
Lîi nhuËn sau thuÕ
100
Vèn CSH b×nh qu©n sö dông trong kú
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế
cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được các
nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng
mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài
chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được gọi là ổn định nếu tỷ suất doanh lợi
vốn chủ sở hữu luôn tăng qua các năm và mức đạt được của nó phải ngang bằng với
mức doanh lợi của ngành trên thị trường. Chúng ta cũng cần tìm hiểu ra những nguyên
nhân làm giảm mức doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và từ đó tìm cách
khắc phục để nâng cao mức doanh lợi đó của doanh nghiệp lên.
Tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn
Sử dụng hợp lý, hiệu quả tài sản ngắn hạn được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân
chuyển tài sản ngắn hạn nhanh hay chậm, việc nâng cao tốc độ chu chuyển tài sản
ngắn hạn có ý nghĩa to lớn vì với một số vòng không tăng nhưng có thể hoàn toàn tăng
doanh số bán ra. Nó chính là điều kiện cơ bản để tăng thu nhập, lợi nhuận, tiết kiệm tài
sản ngắn hạn và cũng là nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển tài
sản ngắn hạn được thể hiện bằng số vòng quay và số ngày của một vòng quay chu
chuyển tài sản ngắn hạn.
- Hiệu suất sử dụng TSNH ( Vòng quay tài sản ngắn hạn)
Vßng quay tµi s¶n ng¾n h¹n =
15
Doanh thu thuÇn
Tæng tµi s¶n ng¾n h¹n
Vòng quay tài sản ngắn hạn trong kỳ là chỉ tiêu phản ánh số lần quay của tài sản
ngắn hạn trong một năm. Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trên
mối quan hệ so sánh giữa doanh thu thuần và số tài sản ngắn hạn bỏ ra trong kỳ. Nói
cách khác, chỉ tiêu này cho biết trong một năm tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp luân
chuyển được bao nhiêu vòng hay một đồng tài sản ngắn hạn mang lại bao nhiêu đồng
doanh thu. Số vòng quay càng cao, chứng tỏ tài sản ngắn hạn vận động càng nhanh,
góp phần nâng cao doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Thời gian một vòng luân chuyển tài sản ngắn hạn
Thời gian một vòng luân chuyển của TSNH =
365
Sè vßng quay tµi s¶n ng¾n h¹n
Thời gian cần một vòng luân chuyển tài sản ngắn hạn thể hiện số ngày cần thiết để
tài sản ngắn hạn quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì
hệ số luân chuyển tài sản ngắn hạn càng cao.
Hệ số đảm nhiệm tài sản ngắn hạn
Hệ số đảm nhiệm tài sản ngắn hạn được xác định bằng công thức:
HÖ sè ®¶m nhiÖm tµi s¶n ng¾n h¹n =
Tµi s¶n ng¾n h¹n b×nh qu©n
Doanh thu thuÇn
Hệ số tài sản ngắn hạn cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần mấy đồng
tài sản ngắn hạn. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cao,
số tài sản tiết kiệm được càng nhiều.
Chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển hàng tồn kho
- Số vòng quay hàng tồn kho (hệ số lưu kho) là số lần mà hàng hoá tồn kho bình
quân luân chuyển trong kỳ. Số vòng hàng tồn kho càng cao việc kinh doanh được đánh
giá càng tốt, bởi lẽ doanh nghiệp chỉ cần đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt
được doanh số cao. Số vòng quay hàng tồn kho được xác định theo công thức:
HÖ sè lu kho =
Gi¸vèn hµng b¸n
Hµng tån kho b×nh qu©n
- Thời gian lưu kho trung bình được xác định bằng công thức:
Thêi gian lu kho trung b×nh =
365
HÖ sè lu kho
Thời gian lưu kho trung bình là khoảng thời gian trung bình hàng hóa được lưu
giữ trong kho. Thời gian lưu kho kéo dài đồng nghĩa với hệ số lưu kho thấp, chứng tỏ
16
Thang Long University Library
sản phẩm của doanh nghiệp không được tiêu thụ mạnh, khiến cho vòng quay tiền của
doanh nghiệp cũng bị kéo dài. Mức dự trữ lớn cũng khiến tăng chi phí lưu kho, bảo
quản hàng và ngược lại. Vì vậy, doanh nghiệp cần giữ chỉ tiêu này ở mức thấp.
Chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển các khoản phải thu
- Vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu của
doanh nghiệp thành tiền mặt và được xác định bằng công thức:
Vßng quay c¸c kho¶n ph¶i thu =
Doanh thu thuÇn
B×nh qu©n gi¸ trÞ c¸c kho¶n ph¶i thu
Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thể hiện rằng doanh nghiệp thu hồi càng
nhanh các khoản nợ. Điều đó được đánh giá là tốt vì vốn bị chiếm dụng giảm.Vòng
quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc khách hàng thanh toán
các khoản nợ cho doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh toán các khoản nợ đã đến hạn
thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một vòng.
- Thời gian thu nợ trung bình
Thêi gian thu nî trung b×nh =
365
Vßng quay c¸c kho¶n ph¶i thu
Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi
vốn trong thanh toán của doanh nghiệp.Thời gian thu nợ trung bình cho biết bình quân
doanh nghiệp phải mất bao nhiêu ngày cho một khoản phải thu. Thời gian thu tiền
trung bình càng ngắn chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền hàng càng nhanh, doanh nghiệp ít bị
chiếm dụng vốn. Ngược lại thời gian thu tiền càng dài, chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền
càng chậm, số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng nhiều. Tuy nhiên thời gian thu tiền
bình quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể kết luận chắc chắn mà còn
phải xem xét lại mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như mục tiêu mở rộng thị
trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển các khoản phải trả
- Vòng quay các khoản phải trả và thời gian trả nợ trung bình được xác định bằng
công thức:
Vßng quay c¸c kho¶n ph¶i tr¶ =
GVHB + Chi phÝ chung, b¸n hµng, QLDN
Ph¶i tr¶ ngêi b¸n + L¬ng, thëng, thuÕ ph¶i tr¶
Vòng quay khoản phải trả cho biết số lần trả nợ của doanh nghiệp trong một chu
kỳ kinh doanh, hệ số này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp chiếm dụng được các
17
khoản nợ dài. Thời gian trả nợ trung bình cho biết bình quân doanh nghiệp có bao
nhiêu ngày để trả nợ.
Thêi gian tr¶ nî trung b×nh =
365
Vßng quay c¸c kho¶n ph¶i tr¶
Thời gian trả nợ trung bình dài nghĩa là điều kiện thanh toán của nhà cung cấp
thuận lợi cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp dễ dàng tăng vốn lưu động, tuy nhiên
cũng có thể là do giá mua cao hoặc doanh nghiệp đang phụ thuộc vào điều kiện tín
dụng thương mại. thời gian phải trả ngắn có thể là do điểu kiện thanh toán bất lợi từ
nhà cung cấp. Dù vậy, cũng có khả năng doanh nghiệp dư thừa vốn, tận dụng chính
sách chiết khấu nếu thanh toán sớm để mua với giá cả tốt hơn.
Thời gian quay vòng tiền
Thêi gian quay vßng tiÒn trung b×nh = Chu kú KD + Thêi gian tr¶ nî trung b×nh
Thời gian quay vòng tiền được định nghĩa là thời gian để doanh nghiệp chuyển
các nguyên vật liệu sản xuất thành tiền mặt, đây cũng chính là khoảng thời gian doanh
nghiệp cần sử dụng TSNH. Thời gian quay vòng tiền là công cụ hữu hiệu tối ưu hóa
nguồn TSNH, kiểm soát chi phí tài chính và thiết lập các chính sách quản trị liên quan
đến các khoản phải trả - phải thu và hàng tồn kho. Rút ngắn thời gian quay vòng tiền
để doanh nghiệp có thể tối giảm chi phí tài chính dành cho TSNH. Mục tiêu này trước
hết có thể thực hiện qua việc rút ngắn thời gian thu hồi công nợ (giảm thời gian thu nợ
trung bình) hoặc nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho (giảm thời gian quay vòng
hàng tồn kho). Ngoài ra, còn có thể thực hiện qua việc thương thảo với các nhà cung
ứng, kéo dài thời gian công nợ. Một số doanh nghiệp có thời gian quay vòng tiền
“âm”, có nghĩa là doanh nghiệp không cần sử dụng TSNH mà còn có thể tạo ra doanh
thu tài chính nhờ “chiếm dụng” được vốn lưu động của nhà cung ứng.
Vòng quay tiền
Thời gian thu
=
+
trung bình
nợ TB
Thời gian luân
Thời gian trả
chuyển kho TB
nợ TB
Vòng quay tiền trung bình cho biết doanh nghiệp mất bao lâu để thu hồi một
khoản tín dụng. Nếu vòng quay tiền ngắn tức là doanh nghiệp thu hồi nhanh các khoản
tiền trong kinh doanh, chiếm dụng được các khoản nợ dài. Tuy nhiên vòng quay tiền
của từng doanh nghiệp là khác nhau, phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và lĩnh
vục hoạt động.
18
Thang Long University Library
1.4.
Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh
nghiệp
1.4.1.
Các nhân tố khách quan
Nhân tố kinh tế
Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm, sức mua giảm sẽ làm ảnh hưởng đến tình hình
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, doanh thu sẽ giảm, lợi nhuận giảm sút và đồng
thời làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và TSNH nói riêng.
- Tốc độ phát triển của nền kinh tế: Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm, sức mua
của thị trường sẽ bị giảm sút. Điều này làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của
doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít đi, lợi
nhuận giảm sút và tất yếu làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và
TSNH nói riêng.
- Biến động cung cầu hàng hóa: tác động vào khả năng cung ứng của thị trường
đối với nhu cầu nguyên vật liệu hay khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp trên thị
trường, từ đó làm tăng hay giảm mức dự trữ của doanh nghiệp, và ảnh hưởng tới khả
năng quay vòng của TSNH, đến mức sinh lợi.
- Mức độ cạnh tranh trên thị trường: để đạt được hiệu quả cao nhất trong nền
kinh tế thị rường thì mỗi doanh nghiệp phải có những biện pháp, chính sách hấp dẫn so
với đối thủ cạnh tranh như chấp nhận bán chịu, cung ứng đầu vào ổn định, chi phí
thấp,…Như vậy doanh nghiệp sẽ phải đề ra các biện pháp và các chiến lược thích hợp
để tăng vòng quay TSNH, giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
- Lạm phát: Là quá trình đồng tiền bị mất giá theo thời gian, nó luôn xuất hiện
thường trực trong mọi nền kinh tế, trong mọi thời kỳ phát triển của xã hội, do đó nó sẽ
ảnh hưởng tới giá trị tài sản ngắn hạn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp không có được sự bổ sung thích hợp thì nó sẽ làm cho tài sản ngắn hạn bị giảm
sút theo tỷ lệ lạm phát và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
Nhân tố rủi ro
- Các yếu tố tự nhiên: những rủi ro đến từ môi trường bao gồm mưa, bão, lũ, hỏa
hoạn, thường gây tổn thất lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là về mặt tài sản. Đây là
yếu tố mà các doanh nghiệp luôn phải chú ý đề phòng cũng như xây dựng các phương
án đối phó với rủi ro khó tranh được này.
- Rủi ro trong sản xuất kinh doanh: Lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, quá
trình sản xuất kinh doanh luôn chứa đựng những rủi ro bất chắc. Vì vậy, nếu doanh
nghiệp không có những kế hoạch biện pháp phù hợp thì có thể dẫn tới sự suy giảm của
tài sản ngắn hạn, thậm chí còn dẫn tới tình trạng phá sản.
19
Nhân tố công nghệ
Sự phát triển của khoa học công nghệ không những làm thay đổi chất lượng, số
lượng sản phẩm mà còn làm phát sinh những nhu cầu mới, khách hàng trở nên khó
tính hơn. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển tiền, các khoản dự trữ, tồn
kho nhờ tăng năng suất, rút ngắn thời gian sản xuất. Do vậy các doanh nghiệp phải
nắm bắt được điều này để có biện pháp đầu tư, đổi mới công nghệ phù hợp.
Nhân tố nhà nƣớc
Trong nền kinh tế tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, mỗi loại hình
doanh nghiệp mang một đặc thù riêng nó, Nhà nước có trách nhiệm quản lý các doanh
nghiệp đó để nó đi vào hoạt động theo một khuôn khổ mà Nhà nước quy định. Tất cả
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều phải tuân theo pháp luật mà
Nhà nước đưa ra, từ khi bắt đầu thành lập đến khi hoạt động và ngay cả giải thể hay
phá sản doanh nghiệp đều phải tuân theo chế độ hiện hành. Đảng và Nhà nước ban
hành các luật lệ, chính sách nhằm mục đích tránh sự gian lận, đảm bảo sự công bằng
và an toàn trong xã hội. Sự thắt chặt hay nới lỏng chính sách quản lý kinh tế đều có
ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả sử dụng tài sản nói chung và tài sản ngắn hạn nói
riêng của doanh nghiệp.
1.4.2.
Các nhân tố chủ quan
Nghành nghề kinh doanh
Trên thị trường, mỗi ngành nghề kinh doanh có những đặc điểm khác nhau như
tính mùa vụ, chu kỳ sản xuất kinh doanh… từ đó có tác động không nhỏ tới hiệu quả
sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh có tính chất mùa vụ
thường có biến động trong sử dụng tài sản ngắn hạn tương ứng với mùa vụ đó. Ngoài
ra, các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn sẽ có thời gian quay vòng vốn nhanh và
tác động đến hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp.
Đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp có ảnh
hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn. Doanh nghiệp làm nhiệm vụ
sản xuất khác doanh nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông, doanh nghiệp có tính chất thời vụ
thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn khác với doanh nghiệp không mang tính thời vụ.
Chu kỳ sản xuất kinh doanh ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu sử dụng tài sản
ngắn hạn và khả năng tiêu thụ sản phẩm. Những doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh
ngắn thì nhu cầu tài sản ngắn hạn thường không có những biến động lớn, doanh nghiệp
cũng thường xuyên thu được tiền bán hàng. Điều đó giúp doanh nghiệp dễ dàng trang
trải các khoản nợ nần, đảm bảo nguồn vốn cho kinh doanh do đó nó cũng ảnh hưởng
tới hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh
doanh dài thì nhu cầu tài sản ngắn hạn thường biến động lớn, tiền thu bán hàng không
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -