CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI
SẢN NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp
Một cơ thể sống cần rất nhiều tế bào để cơ cấu và hoàn thiện nên.Với nền kinh tế
cũng vậy, nếu ta coi nền kinh tế là một cơ thể sống thì mỗi doanh nghiệp sẽ là một tế
bào.Sức khoẻ của nền kinh tế phụ thuộc vào tình hình hoạt động của mỗi tế bào ấy.Xét
trên khía cạnh lý thuyết tài chính, doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư
cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở
hữu.
Theo định nghĩa của luật doanh nghiệp Việt Nam, ban hành ngày 29 tháng 11
năm 2005 của Việt Nam: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”
1.1.2. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tài sản ngắn hạn
Khái niệm tài sản sản ngắn hạn
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có 3 yếu
tố là: đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh
doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hóa lao vụ, dịch vụ.
Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động (nhiên liệu, vật liệu, bán thành phẩm,…)
chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh và luôn thay đổi hình thái vật chất
ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và được
bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối
tượng lao động được gọi là tài sản ngắn hạn.
Tài sản ngắn hạn là một khoản mục trong bảng cân đối kế toán bao gồm tất cả
các loại tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi sang tiền mặt trong vòng một năm hay trong
một chu kỳ sản xuất kinh doanh. TSNH bao gồm tiền mặt và các khoản tương đương
tiền, các khoản phải thu ngắn hạn, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, hàng tồn kho
và những tài sản có tính thanh khoản khác. Trong lĩnh vực sản xuất TSNH được thể
hiện dưới hình thái như nguyên vật liệu, vật đóng gói, phụ tùng thay thế. Trong lĩnh
vực lưu thông nó tồn tại dưới nhiều hình thức như thành phẩm, tiền, các khoản phải
thu và các khoản tiền tạm ứng trước phát sinh trong quá trình mua vật tư hàng hóa
hoặc thanh toán nội bộ; các khoản vốn đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, cho vay ngắn
1
hạn…v.v..vận động không ngừng nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến
hành liên tục. TSNH thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
−
Đơn vị có quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát và sử dụng.
−
Có giá phí xác định.
−
Chắc chắn thu được lợi ích từ việc sử dụng tài sản này.
−
doanh
Tài sản có chu kỳ luân chuyển trong một năm hoặc một chu kì kinh
Theo giáo trình “Tài chính doanh nghiệp”, tác giả PGS.TS Lưu Thị Hương –
PGS.TS Vũ Duy Hào, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2005: “Tài sản ngắn hạn
là biểu hiện bằng tiền giá trị của những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
mà thời gian sử dụng thu hồi vốn luân chuyển thường chỉ là một năm hoặc là một chu
kỳ kinh doanh”.
Quản lý và sử dụng hiệu quả TSNH có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Mặc dù không phải tất cả các vụ phá sản trong kinh
doanh là đều xuất phát từ vấn đề quản trị TSNH yếu kém, nhưng cũng có thể thấy rằng
sự bất lực của một số Công ty trong việc hoạch định, kiểm soát các loại TSNH và các
khoản nợ ngắn hạn thiếu chặt chẽ chính là nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của họ.
Đặc điểm tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn là một yếu tố không thể thiếu và được luân chuyển thường
xuyên trong quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần duy trì hoạt động sản xuất kinh
doanh được liên tục, không bị gián đoạn. TSNH có những đặc điểm sau:
−
TSNH liên tục thay đổi hình thái biểu hiện trong suốt quá trình kinh
doanh, chuyển hóa từ dạng vật chất sang tiền tệ và ngược lại mà không chịu chi
phí lớn. Tuy nhiên điều này lại gây khó khăn cho quả lý chống thất thoát. Mỗi
loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có một hình thái TSNH khác nhau.
−
TSNH có thời gian luân chuyển ngắn, có tính thanh khoản cao nên đáp
ứng được khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
−
TSNH đáp ứng nhanh chóng sự biến động của doanh số và sản xuất vì
các khoản đầu tư vào TSNH có thể hủy bỏ tại bất cứ thời điểm nào mà không tốn
quá nhiều chi phí. Đổi lại, TSNH thường chịu sự lệ thuộc khá nhiều vào những
dao động mang tính mùa vụ và chu kỳ trong kinh doanh.
−
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp gắn liền với quá trình lưu thông.
Trong quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, các TSNH luôn
chuyển hóa, vận động không ngừng làm quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
liên tục.
2
Thang Long University Library
−
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường
xuyên, liên tục, doanh nghiệp phải có một lượng vốn lưu động nhất định. Do đó,
để hình thành nên các TSNH doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn tiền tệ nhất
định đầu tư vào các TSNH này. Số vốn này gọi là vốn lưu động của doanh
nghiệp.
1.1.2.2. Phân loại tài sản ngắn hạn
Để quản lý TSNH được tốt cần phải phân loại TSNH. Dựa theo những tiêu thức
khác nhau có thể phân loại TSNH thành nhiều loại khác nhau. Thông thường có một
số cách phân loại chủ yếu sau:
Phân loại theo vai trò từng loại tài sản ngắn hạn trong quá trình sản xuất kinh
doanh
Theo cách phân loại này thì TSNH được chia làm ba loại:
−
TSNH trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm giá trị các khoản nguyên vật
liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vốn vật đóng gói, vốn công
cụ dụng cụ nhỏ… và tài sản trong sản xuất như sản phẩm dở dang, bán thành
phẩm…
−
TSNH trong khâu trực tiếp sản xuất: Bao gồm các khoản sau chi phí sản
phẩm dở dang, chi phí trả tiền trước.
−
TSNH trong khâu lưu thông: Bao gồm các thành phẩm, hàng hóa, tiền
mặt, phải thu, tạm ứng, chứng khoán ngắn hạn,..v.v...
Phương pháp này cho phép biết được kết cấu TSNH của doanh nghiệp theo vai
trò. Từ đó, giúp cho việc đánh giá tình hình phân bổ TSNH trong các khâu của quá
trình luân chuyển TSNH, thấy được vai trò của từng thành phần vốn đối với quá trình
kinh doanh.Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp tổ chức quản lý thích hợp nhằm tạo ra
một kết cấu TSNH hợp lý tăng tốc độ luân chuyển TSNH.
Phân loại tài sản ngắn hạn theo tính thanh khoản
Đây là cách phân loại dựa trên khả năng huy động cho việc thanh toán.Dựa theo
cách phân loại này thì có thể chia TSNH thành: tiền và cá khoản tương đương tiền,
đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu và các khoản ứng trước, hàng tồn kho và
các TSNH khác.
−
Tiền và các khoản tương đương tiền
Vốn bằng tiền là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, được hình thành
trong quá trình bán hàng và trong các mối quan hệ thanh toán. Vốn bằng tiền gồm:
Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi Ngân hàng và tiền đang chuyển. Hoạt động kinh doanh đòi
hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền nhất định. Tiền là loại tài sản có tính thanh
3
khoản cao nhất, có thể dễ dàng chuyển đổi thành các tài sản khác hoặc thanh toán các
nghĩa vụ tài chính cho doanh nghiệp, vì vậy nó cho phép doanh nghiệp duy trì khả
năng chi trả và phòng tránh rủi ro thanh toán. Đây cũng là loại tài sản không hoặc gần
như không sinh lợi nên việc nắm giữ tiền mặt ở mức độ nào để vừa đảm bảo an toàn,
vừa tiết kiệm vốn là một câu hỏi quan trọng cần nhà quản trị tài chính quan tâm giải
quyết.
Các khoản tương đương tiền: gồm các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn có thời
hạn thu hồi hoặc đáo hạn không quá ba tháng có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành
một lượng tiền xác định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền kể từ
ngày mua khoản đầu tư đó tại thời điểm báo cáo.
−
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: bao gồm các chứng khoán ngắn
hạn, các khoản đầu tư ngắn hạn khác, các khoản dự phòng đầu tư ngắn hạn…
Đây là khoản mục vừa có tính thanh khoản cao, vừa có khả năng sinh lời. Khi có
nhu cầu thanh toán mà tiền không đáp ứng đủ thì doanh nghiệp có thể bán các
chứng khoán này.
−
Các khoản phải thu (tính dụng thương mại): Là một loại tài sản rất quan
trọng đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp thương mại. Chủ yếu là các
khoản phải thu từ phía khách hàng thể hiện ở số tiền mà các khách hàng nợ
doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng, cung ứng dịch vụ dưới hình
thức bán trước trả sau. Doanh nghiệp muốn mở rộng mạng lưới tiêu thụ và tạo
dựng mối liên hệ lâu dài đòi hỏi doanh nghiệp phải có những thỏa thuận bán chịu
cho khách hàng, chính vì vậy đã phát sinh ra cách khoản tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại có thể giúp doanh nghiệp nâng cao doanh số, từ đó tăng
doanh thu nhưng cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn khi
doanh nghiệp không thể thu hồi nợ từ khách hàng. Ngoài ra trong một số trường
hợp mua sắm vật tư khan hiếm, doanh nghiệp còn có thể phải ứng trước tiền mua
hàng cho người cung ứng, từ đó hình thành khoản tạm ứng.
−
Hàng tồn kho: khái niệm “hàng tồn kho” ở đây không có nghĩa là hàng
hóa bị ứ đọng, không bán được mà nó bao gồm một số nhóm chính sau:
+ Nguyênvật liệu chính: Là giá trị các loại nguyên vật liệu chính dự trữ cho sản
xuất, khi tham gia vào sản xuất chúng hợp thành thực thể của sản phẩm.
+ Nguyên vật liệu phụ: Là giá trị các loại vật liệu phụ dự trữ cho sản xuất, giúp
cho việc hình thành các sản phẩm, nhưng không hợp thành thực thể chính của sản
phẩm, chỉ làm thay đổi màu sắc, mùi vị, hình dáng bề ngoài của sản phẩm hoặc tạo
điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện thuận lợi.
4
Thang Long University Library
+ Nhiên liệu: Là giá trị các loại nhiên liệu dự trữ dùng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
−
Tài sản ngắn hạn khác: bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí chờ kết
chuyển…
Trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng có đầy đủ các khoản mục trên
trong bảng cân đối kế toán. Thường thì trong doanh nghiệp chỉ có các khoản chính
như: tiền, khoản phải thu, hàng tồn kho… Chính vì vậy nếu doanh nghiệp xác định
được cách phân loại phù hợp với mình thì sẽ có ưu thế hơn trong việc bảo tồn, quản lý
và sử dụng TSNH.
1.2. Hiệu quả sử dụngtài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả là một khái niệm phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết để
tham gia vào một hoạt động nào đó với những mục đích xác định do con người đặt ra.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển, vấn đề sống còn
doanh nghiệp cần quan tâm là tính hiệu quả.
Hiệu quả kinh tế là kết quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
của các yếu tố bộ phận.Trong đó, hiệu quả sử dụng TSNH gắn liền với lợi ích của
doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, các
doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH.
Khác với tài sản cố định, TSNH cần có các biện pháp linh hoạt, kịp thời, phù hợp
với từng thời điểm mới đem lại hiệu quả cao. Hiệu quả sử dụng TSNH là một trong
những cơ sở đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có ảnh hưởng
lớn đến kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp.
Có thể nói mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận.Việc quản lý
sử dụng tốt TSNH sẽ góp phần giúp doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu đề ra. Quản
lý TSNH không những đảm bảo sử dụng TSNH hợp lý, tiết kiệm mà còn ý nghĩa đối
với việc hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu tiền bán hàng,
từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Tóm lại, hiệu quả sử dụng TSNH
là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng TSNH nhằm đảm bảo cho quá trình
sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục, đảm bảo đem lại cho
doanh nghiệp mức lợi nhuận cao nhất với chi phí thấp nhất.
1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một lượng tài
sản nhất định và một nguồn tài trợ tương ứng, không có tài sản đồng nghĩa với việc sẽ
không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Tuy nhiên việc sử dụng tài sản
5
như thế nào để có thể đem lại hiệu quả cao mới là nhân tố quyết định cho sự tăng
trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, việc quản lý, sử dụng và nâng
cao hiệu quả tài sản nói chung và TSNH nói riêng là một nội dung rất quan trọng trong
công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Khi nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong thời kỳ bao cấp, mọi nhu cầu về vốn và
tài sản dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đều được Nhà nước cấp phát hoặc
cấp tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp, từ đó nảy sinh thực trạng các doanh nghiệp
không thật sự chú trọng tới vấn đề khai thác và sử dụng tài sản một cách hiệu quả. Khi
nước ta đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, mặc dù các doanh nghiệp đã phải tự
tìm cách để huy động các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu
quả sử dụng vốn và tài sản nói chung, TSNH nói riêng vẫn chỉ ở mức thấp. Đó là do
các doanh nghiệp không bắt kịp được với sự phát triển nhanh chóng của thị trường nên
còn nhiều hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng tài sản.
Để đạt được mục tiêu sản xuất kinh doanh, đặc biệt là mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, đòi hỏi doanh nghiệp phải tập hợp, cân nhắc, và xem xét những quyết định tài
chính ngắn hạn và dài hạn cho doanh nghiệp mình một cách hợp lý, chính xác. Trên
thực tế, giá trị các TSNH thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của
doanh nghiệp, vì vậy trong những quyết định tài chính ngắn hạn, việc quản lý và sử
dụng TSNH hiệu quả là nội dung quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tối đa
hóa giá trị của doanh nghiệp.
TSNH đóng vai trò quan trọng trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh.Trong sản xuất, TSNH đảm bảo cho sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành
thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn.Trong lưu thông, TSNH đảm bảo dự trữ đủ
thành phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên thị trường.Thời gian luân chuyển TSNH lớn
khiến cho việc quản lý và sử dụng hiệu quả TSNH sẽ luôn diễn ra thường xuyên trong
doanh nghiệp. Với vai trò to lớn như vậy, việc tăng tốc độ luân chuyển TSNH, nâng
cao hiệu quả sử dụng TSNH là một yếu cầu tất yếu trong nội dung quản trị tài chính
của doanh nghiệp.
Tăng tốc độ lưu chuyển TSNH cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn,
qua đó vốn được thu hồi nhanh hơn, giảm bớt lượng TSNH cần thiết mà vẫn hoàn
thành nhiệm vụ sản xuất. Tăng tốc độ luân chuyển TSNH còn có ảnh hưởng lớn đến
việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng sản
lượng tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có
đủ vốn thỏa mãn nhu cầu sản xuất, thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách nhà
nước, đồng thời có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
6
Thang Long University Library
1.2.2.1. Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Tài sản ngắn hạn là những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Do đó, quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn có ảnh hưởng
rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Chính sách
quản lý tài chính doanh nghiệp được thể hiện như sau:
Chính sách quản lý hàng tồn kho
Tại cùng thời điểm khi doanh nghiệp được hưởng những lợi ích từ việc sử dụng
hàng tồn kho do đó các chi phí có liên quan cũng phát sinh tương ứng, bao gồm: chi
phí đặt hàng, chi phí tồn chữ và chi phí thiệt hại do kho không có hàng.
Chi phí đặt hàng
Chi phí đặt hàng bao gồm chi phí quản lý giao dịch, chi phí vận chuyển và chi
phí giao nhận hàng hóa. Chi phí đặt hàng được tính bằng đơn vị tiền tệ cho mỗi lần đặt
hàng. Chi phí cho mỗi lần đặt hàng thường bao gồm các chi phí cố định và chi phí biến
đổi, bởi vì một phần tỷ lệ chi phí đặt hàng thường biến động theo số lượng hàng được
mua. Tuy nhiên, trong mô hình quản lý hàng tồn kho đơn giản EOQ (sẽ được trình bày
ở phần dưới đây) giả định rằng chi phí cho mỗi lần đặt hàng là cố định và độc lập với
số đơn vị hàng hóa được mua.
Chi phí tồn trữ
Chi phí tồn trữ bao gồm tất cả các chi phí lưu giữ hàng trong kho trong một
khoảng thời gian xác định trước. Chi phí tồn trữ được tính bằng đơn vị tiền tệ trên mỗi
đơn vị hàng lưu kho hoặc xác định bằng tỷ phần trăm trên giá trị hàng lưu kho trong
một chu kỳ. Các chi phí tồn trữ bao gồm: chi phí lưu giữ, chi phí bảo hiểm, chi phí bảo
quản, chi phí về thuế, chi phí đầu tư vào hàng tồn kho, chi phí hư hỏng hàng tồn kho
và chi phí thiệt hại do hàng đang có trong kho bị lỗi thời…
Chi phí thiệt hại khi hàng tồn kho hết
Chi phí thiệt hại khi hàng tồn kho hết xảy ra bất cứ khi nào doanh nghiệp không
có khả năng giao hàng bởi vì nhu cầu hàng lớn hơn số lượng hàng sẵn có trong kho. Ví
dụ, nguyên vật liệu trong kho hết thì chi phí thiệt hại sẽ bao gồm chi phí đặt hàng khẩn
cấp và chi phí thiệt hại do ngừng sản xuất. Khi sản phẩm dở dang tồn kho bị hết thì
doanh nghiệp bị thiệt hại do kế hoạch sản xuất kinh doanh bị thay đổi, gây nên thiệt
hại do ngưng trệ sản xuất và phát sinh chi phí. Khi thành phẩm, hàng hóa tồn kho hết
có thể gây ra hậu quả là lợi nhuận bị mất trong ngắn hạn kho khách hàng mua sản
phẩm của doanh nghiệp khác gây nên những mất mát tiềm năng trong dài hạn.
7
Mô hình quản lý hàng tồn kho hiệu quả - Mô hình EOQ
Mô hình EOQ là một mô hình quản lý hang tồn kho mang tính định lượng được
sử dụng để xác định mức tồn kho tối ưu cho doanh nghiệp, dựa trên cơ sở giữa chi phí
tồn trữ hàng tồn kho và chi phí đặt hàng có mối quan hệ tương quan tỷ lệ nghịch. Cụ
thể, nếu số lượng sản phẩm cho mỗi lần đặt hàng tăng lên thì số lần đặt hàng trong kỳ
giảm xuống và dẫn đến chi phí đặt hàng trong kì giảm trong khi chi phí tồn trữ hàng
hóa tăng lên. Do đó mục đích của quản lý hàng tồn kho là cân bằng hai loại chi phí:
chi phí tồn trữ và chi phí đặt hàng sao cho tổng chi phí tồn kho là thấp nhất.
Gọi Q là lượng hàng tồn kho cho mỗi lần đặt hàng, khi hết hang doanh nghiệp lại
tiếp tục đặt mua Q đơn vị hàng mới, Tại thời điểm đầu kỳ, lượng hàng tồn kho là Q và
ở thời điểm cuối kỳ là 0 nên số lượng tồn kho bình quân trong kỳ là:
Hình 1.1 Biến động hàng tồn kho trong một chu kỳ, hàng tồn kho bình quân
Gọi C là chi phí tồn trữ cho mỗi đơn vị hàng tồn kho thì tổng chi phí tồn trữ hàng
tồn kho trong kỳ là:
Q
xC
2
Gọi S là hàng tiêu thụ trong kỳ nên số lần đặt hàng trong kỳ là:
Gọi T là tổng chi phí thì : T =
S
Q
Q
S
xC xO
2
Q
Hình 1.2 Đường biểu diễn mối quan hệ giữa chi phí tồn trữ và chi phí đặt hàng
tổng chi phí theo các mức sản lượng tồn kho
8
Thang Long University Library
Gọi Q* là lượng hàng tồn trữ tối ưu tức tại Q* là lượng hàng cho chi phíthấp nhất
dẫn đến: Q* =
2SO
C
Nếu gọi T* là thời gian dự trữ tối ưu được tính bằng cách lấy số lượng hàng tối
ưu Q* chia cho nhu cầu sử dụng hàng tồn kho bình quân một ngày, tức S/365 ( giả
định một năm có 365 ngày), đơn vị tính ngày.
Ta có công thức sau: T* =
Q*
S / 365
Công thức trên cũng có thể được viết lại như sau: T* =
365 xQ *
S
Mô hình EOQ mở rộng
Mô hình EOQ dựa trên một số giả định, bao gồm nhu cầu về hàng tồn kho, thời
gian chuẩn bị giao nhận hàng bổ sung, chi phí đặt hàng và chi phí tồn trữ là cố định.
Tuy nhiên trong ứng dụng thực tế mô hình hàng tồn kho, một vài giả định không còn
giá trị. Do vậy, để hiểu sự khác biệt về các giả định đã tác động đến phân tích số lượng
đặt hàng tối ưu như thế nào là điều cần thiết và quan trọng. Sau đây xin trình bày một
số phương pháp khi một vài giả định ban đầu được thay thế.
Thời gian chuẩn bị giao nhận hàng khác
Mô hình EOQ giả định rằng việc cung cấp bổ sung hàng tồn kho sẽ được diễn ra
ngay tức thời, như vậy thời gian chuẩn bị giao nhận hàng là bằng 0. Tuy nhiên, trên
thực tế thường có một khoảng thời gian trôi qua giữa thời điểm đặt mua hàng và thời
điểm hàng được nhận tại kho. Khoảng thời gian chuẩn bị giao nhận hàng này có thể
bao gồm khoảng thời gian cần thiết để sản xuất mặt hàng đó hay khoảng thời gian cần
thiết để đóng gói và vận chuyển hoặc cả hai. Nếu thời gian chuẩn bị giao nhận hàng là
một con số nào đó không thay đổi theo thời gian và được biết chắc chắn thì số lượng
đặt hàng tối ưu Q* sẽ không bị tác động bởi việc đặt hàng lại. Trong thực tế doanh
9
nghiệp không bao giờ chờ đến cuối chu kỳ hàng tồn kho mới đặt hàng mà là thường
đặt hàng trước n ngày cho cuối mỗi chu kỳ dự trữ. Số ngày n được xác định bằng với
thời gian chuẩn bị giao nhận hàng bổ sung.
Gọi Q' là điểm đặt hàng lại, khi đó điểm đặt hàng lại được tính bằng công thức
sau: Q' = nx
S
; với S/ 365 là nhu cầu hàng tồn kho trong một ngày.
365
Chiết khấu theo số lượng
Khi một doanh nghiệp đặt hàng với số lượng lớn thì thông thường sẽ được nhà
cung cấp bán với giá chiết khấu do đó doanh nghiệp sản xuất sẽ tiết kiệm được một
khoản chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm được sản xuất ra, tiết kiệm được chi phí trên
mỗi đơn vị khi thực hiện đơn hàng và mỗi đơn vị trong quá trình vận chuyển. Nhiều
doanh nghiệp khuyến khích khách hang của họ đặt một đơn hàng số lượng lớn bằng
cách dành cho họ một tỷ lệ chiết khấu và được gọi là chiết khấu theo số lượng.
Trước hết ta có mô hình EOQ đã trình bày ở trên. Kế đó, ta tính toán mức sinh
lợi ròng hàng năm khi số lượng đặt hàng được gia tăng từ mức tồn kho EOQ lên mức
đặt hàng cần thiết để có thể nhận được khoản chiết khấu. Nếu mức sinh lời ròng tăng
thêm hàng năm là số dương thì số lượng đặt hàng tối ưu là số lượng đặt hàng cần thiết
để có thể được hưởng chiết khấu. Nếu không, số lượng đặt hàng tối ưu sẽ là giá trị
EOQ.
Mô hình kiểm soát hàng tồn kho theo rủi ro
Trong mô hình EOQ, việc phân tích dựa trên những giả định.Tuy nhiên, trong
thực tế hầu hết các vấn đề phát sinh trong quản lý hàng tồn kho là những giả định này
lúc nào cũng diễn ra đúng như vậy. Thường thì nhu cầu hàng tồn kho biến động theo
mùa vụ hay biến động có tính chất chu kỳ hoặc biến động bởi những ảnh hưởng ngẫu
nhiên và những dự báo không chính xác mức cầu hàng tồn kho trong tương lai. Với
những tác động như vậy, khả năng thiếu hụt hàng tồn kho là hoàn toàn có thể xảy ra.
Để khắc phục sự thiệt hại trong những trường hợp như vậy, hầu hết các doanh nghiệp
sử dụng cách thức bổ sung một lượng hàng tồn kho an toàn để sẵn sàng đáp ứng trước
những biến động bất thường đó.
Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0
Hệ thống quản lý hàng tồn kho đúng lúc là một phần của quá trình quản lý sản
xuất nhằm mục đích giảm thiểu chi phí hoạt động và thời gian sản xuất bằng cách loại
bỏ bớt những công đoạn kém hiệu quả gây lãng phí. Hệ thống cung ứng đúng thời
điểm được dựa trên những ý tưởng cho rằng tất cả các mặt hàng cần thiết có thể được
cung cấp trực tiếp cho các giai đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh một cách chính xác
10
Thang Long University Library
cả về thời điểm giao hàng lẫn số lượng hàng được giao thay vì phải dự trữ thông qua
tồn kho.
Mô hình tồn kho bằng 0 tỏ ra có hiệu quả nhất đối với những doanh nghiệp có
hoạt động sản xuất mang tính lặp đi lặp lại. Một phần quan trọng của phương pháp
cung cấp đúng thời điểm là thay thế việc sản xuất từng lo hàng với một số lượng lớn
sản phẩm bằng cách sản xuất theo một dòng liên tục các sản phẩm được sản xuất ra
với số lượng nhỏ. Việc sử dụng phương pháp này đòi hỏi một sự kết hợp chặt chẽ giữa
nhà sản xuất và nhà cung cấp, bởi vì bất kỳ một sự gián đoạn nào trong quá trình cung
ứng cũng có thể gây tổn thất cho nhà sản xuất vì phải gánh chịu các chi phí phát sinh
do ngừng sản xuất hay mất doanh số bán hàng.
Tuy nhiên, đây chỉ là một phương pháp quản lý được áp dụng trong một số loại
dự trữ nào đó của doanh nghiệp và muốn đạt hiệu quả cao phải kết hợp với các phương
pháp quản lý hàng tồn kho khác.
Chính sách quản lý tiền mặt
Tiền mặt của công ty bao gồm tiền mặt tồn quỹ, tiền trên tài khoản của ngân
hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền
thuế, trả các khoản nợ đến hạn…
Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do vậy trong quản lý tiền mặt
thì việc tối thiểu hóa lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất.
Mô hình quản lý tiền mặt EOQ
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền tại quỹ và tiền gửi ngân hàng.Sự
quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài sản gắn liền với tiền mặt
như các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao.
Có sự giống nhau giữa mô hình quản lý tiền mặt và mô hình quản lý hàng tồn
kho. Thật vậy, về hình thức tiền mặt cũng giống như hàng tồn kho vì cả hai đều là
nguyên vật liệu dùng trong sản xuất. William Baumol là người đầu tiên phát hiện mô
hình hàng tồn kho đơn giản có thể vân dụng cho mô hình quản lý tiền mặt. Giả sử bạn
đang lưu giữ tiền mặt cần thiết cho các hoá đơn thanh toán, khi tiền mặt xuống thấp
bạn sẽ bổ sung bằng cách bán các chứng khoán. Chi phí tồn trữ chủ yếu trong trường
hợp này chính là lãi suất mà bạn mất đi. Các chi phí đặt hang chính là chi phí hành
chính quản trị cho mỗi lần bán chứng khoán.
Khi dự trữ tiền mặt, doanh nghiệp sẽ mất chi phí cơ hội, tức là lãi suất bị mất đi,
chi phí này tương đương với chi phí tồn trữhàng hóa trong quản lý hang tồn kho. Chi
phí đặt hàng chính là chi phí cho việc bán các chứng khoán, khi đó áp dụng mô hình
EOQ ta có lượng dự trữ tiền mặt tối ưu (M*) như sau:
11
M* =
2 xM n xC b
i
Trong đó:
M* : Lượng dự trữ tiền mặt tối ưu
M : Tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm
Cb: Chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản
i : Lãi suất.
Mô hình Baumol cho thấy nếu lãi suất càng cao thì doanh nghiệp sẽ nắm giữ số
dư bình quân tiền mặt thấp hơn và do đó làm cho doanh số bán chứng khoán nhỏ hơn
nhưng với tần suất bán nhiều hơn( nghĩa là M* thấp hơn ). Mặt khác, nếu giá phải trả
cho mỗi lần bán chứng khoán cao thì doanh nghiệp nên nắm giữ một số tiền mặt lớn
hơn.
Mô hình Baumol cho thấy số dư tiền mặt không thực tiễn ở chỗ giả định rằng
doanh nghiệp chi trả tiền mặt một cách ổn định.Điều này lại không luôn đúng trong
thực tế.Trong hoạt động của các doanh nghiệp rất hiếm khi lượng tiền vào, ra của
doanh nghiệp lại đều đặn và dự kiến trước được.Mức dự trữ tiền mặt dự kiến dao động
trong một khoảng, tức là lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp nhất đến giới hạn
cao nhất.Nếu lượng tiền mặt ở mức thấp thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có
lượng tiền dự kiến, ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá
mức giới hạn mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt về mức dự kiến.
Mô hình Baumol giúp chúng ta hiểu được tại sao các doanh nghiệp vừa và nhỏ
lưu giữ một số dư tiền mặt đáng kể. Trong khi đối với các công ty lớn, các chi phí giao
dịch mua bán chứng khoán lại trở nên quá nhỏ so với cơ hội phí mất đi do giữ một số
lượng tiền mặt nhàn rỗi.
Xác định lượng tiền mặt cần thiết dựa vào kinh nghiệm
Phương pháp này dựa vào số liệu thống kê của các năm trước để xây dựng kế
hoạch tài chính cho từng giai đoạn trong mỗi niên độ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.Thông thường, người ta sử dụng tỷ lệ % doanh số bán trong một giai đoạn để
xác định lượng tiền cần thiết. Nếu doanh số bán tăng thì lượng tiền cần thiết tương ứng
giảm với một tỷ lệ % doanh số nhất định do giảm chi phí bán hang và chi phí sản xuất.
Phương pháp này thường áp dụng trong điều kiện tình hình sản xuất kinh doanh
tương đối ổn định hoặc mang tính chu kỳ.
Chính sách quản lý các khoản phải thu.
`Các khoản phải thu của doanh nghiệp thường chịu tác động của các nhân tố như
số lượng; giá cả hàng hoá, dịch vụ bán ra; sự thay đổi doanh thu theo mùa vụ; chính
12
Thang Long University Library
sách tín dụng thương mại(chính sách bán chịu) của doanh nghiệp … Trong các nhân
tố trên thì chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp là quan trọng nhất, ảnh
hưởng trực tiếp đến quy mô các khoản phải thu cua doanh nghiệp. Để hiểu rõ vấn đề
này ta phải đi sâu vào nghiên cứu nội dung của chính sách tín dụng thương mại:
Chính sách tín dụng thương mại
Trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể sử dụng các chiến lược về
sản phẩm, quảng cáo, giá cả, giao hàng và các dịch vụ hậu mãi … để cạnh tranh với
các đối tác.Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu hàng hoá, dich
vụ là việc bình thường, tín dụng thương mại có thể đem đến cho doanh nghiệp nhiều
lợi thế nhưng cũng có thể gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh. Chính sách tín dụng
thương mại có những tác động cơ bản sau:
−
Do thực hiện chính sách bán chịu nên khách hàng mua nhiều hàng hoá
hơn, do đó làm tăng doanh thu và giảm chi phí tồn kho.
−
Tín dụng thương mại làm tăng lượng hàng hoá sản xuất ra, do đó góp
phần làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản.
−
Khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có thể làm tăng thêm chi
phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp cho thiếu hụt ngân quỹ.
−
Nếu thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng cao và làm cho lợi
nhuận bị giảm.
Với những tác động trên ,buộc các nhà quản lý doanh nghiệp phải so sánh hiệu
quả thu nhập và chi phí tăng thêm để xem có nên áp dụng chính sách thương mại hay
không? Nếu có thì các ràng buộc trong chính sách tín dụng thương mại như thế nào là
tốt nhất?
Phân tích tín dụng thương mại
−
Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng
Để thực hiện việc cấp tín dụng thì quan trọng nhất là phải phân tích khả năng tín
dụng của khách hàng. Khả năng tín dụng của khách hàng có thể được xây dựng thông
qua các tiêu chuẩn sau: phẩm chất, tư cách tín dụng, năng lực trả nợ, các tài sản có thể
thế chấp, nguồn vốn kinh doanh của khách hàng… Nếu khả năng tín dụng của khách
hàng phù hợp với một số tiêu chuẩn đó thì tín dụng thương mại có thể được cấp.
−
Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị
Cũng như rất nhiều sự phân tích và sự lựa chọn khác nhau,việc phân tích đánh
giá khoản tín dụng thương mại được đề nghị để quyết định xem có nên cấp hay không,
thông thường người ta dựa vào việc tính NPV của luồng tiền.
13
−
Theo dõi các khoản phải thu. Để quản lý hiệu quả các khoản phải thu,
nhà quản lý phải biết cách theo dõi các khoản phải thu, trên cơ sở đó có thể thay
đổi chính sách tín dụng thương mại kịp thời. Thông thường người ta dựa vào các
cách sau:
+ Kỳ thu tiền bình quân: Khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán ra
và lợi nhuận không tăng thì cũng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở khâu
thanh toán. Khi đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp ngay.
+ Sắp xếp thời gian cho các khoản phải thu: Theo phương pháp này, nhà quản lý
sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian nợ để theo dõi và có biện phap thu nợ
khi đến hạn.
+ Xác định các khoản phải thu: Theo phương pháp này, các khoản phải thu
hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán ra.
Sử dụng phương pháp này doanh nghiệp hoàn toàn có thể thấy nợ tồn đọng của khách
hàng nợ doanh nghiệp. Cùng với cách theo dõi khác, người quản lý có thể thấy được
ảnh hưởng của các chính sách tài chính nói chung và chính sách tín dụng thương mại
nói riêng.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý TSNH của doanh nghiệp
1.2.3.1. Nhóm chỉ tiêu phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của
mình, các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn cần đến
nguồn tài trợ khác là vay nợ.Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối tượng và
dưới nhiều hình thức khác nhau, tuy nhiên dù là đối tượng nào đi nữa thì để đi đến
quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đề quan tâm đến khả năng
thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các
khoản phải trả có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong
kỳ. Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ
giảm được rủi ro trong quan hệ tính dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn giúp
cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện pháp
kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài sản cho hợp lý, nâng cao khả năng
thanh toán…
Khả năng thanh toán ngắn hạn
Khả năng thanh toán ngắn hạn thể hiện năng lực đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán
trong thời gian ngắn của doanh nghiệp, biểu hiện mỗi quan hệ so sánh giữa TSNH với
các khoản nợ ngắn hạn
14
Thang Long University Library
hả năng thanh toán ngắn hạn =
Tổng à ả
ắ
ạ
Tổng nợ ngắn hạn
TSNH bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển đổi thành tiền, các
khoản phải thu và kho, nợ ngắn hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và
các tổ chức tín dụng khác.Hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
được đảm bảo thanh toán bởi bao nhiêu đồng TSNH. Hệ số tăng khi tổng TSNH tăng
hoặc tổng nợ ngắn hạn giảm, hoặc khi tốc độ tăng của TSNH lớn hơn tốc độ tăng của
nợ ngắn hạn, ngược lại, hệ số giảm khi tốc độ giảm của tài sản thấp hơn tốc độ giảm
của nợ ngắn hạn.
Hệ số này càng cao, khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn, thông
thường tỷ số này có giá trị lớn hơn 1 là tích cực.Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 thì doanh
nghiệp có khả năng không hoàn thành được nghĩa vụ trả nợ của mình khi tới hạn.Mặc
dù với tỷ lệ nhỏ hơn 1, có khả năng không đạt được tình hình tài chính tốt nhưng điều
đó không có nghĩa là doanh nghiệp sẽ bị phá sản vì có rất nhiều cách để huy động vốn.
Doanh nghiệp có thể so sánh hệ số này với mức trung bình ngành hay với hệ số kì
trước để có được sự đánh giá tốt hơn.
Khả năng thanh toán nhanh
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán của doanh nghiệp đến các tài sản có
thanh khoản cao sau khi đã loại trừ hàng tồn kho. Nói cách khác, tỷ số này đo lường
mối quan hệ của các TSNH có khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh so với nợ ngắn
hạn.
Khả năng thanh toán nhanh =
Tổng à ả
ắ
ạ - Hàng tồn kho
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho thấy 1 đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo bởi bao
nhiêu đồng TSNH có tính thanh khoản cao. Hệ số khả năng thanh toán nhanh tăng khi
tổng nợ ngắn hạn giảm hoạt các loại TSNH (trừ chỉ tiêu hàng tồn kho) tăng thêm. Nếu
hệ số này cao thể hiện khả năng thanh toán nhanh của Công ty tốt nhưng nếu quá cao
sẽ là một biểu hiện không tốt khi đánh giá về khả năng sinh lời, hệ số này mà nhỏ hơn
1 thì tình hình tài chính của doanh nghiệp có khả năng không đáp ứng được các khoản
nợ trước mắt.
Một tỷ lệ thanh toán hiện hành cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp
có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi
phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong
tài sản ngắn hạn và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần phải xét đến
15
hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp.Ở đây hàng tồn kho bị loại vì trong tài sản
ngắn hạn, hàng tồn kho được coi là loại tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản thấp hơn.
Khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức thời đánh giá năng lực đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn
bởi các tài sản có tính thanh khoản cao như tiền và các khoản tương đương tiền của
doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán tức thời =
Tiền và các khoản tương đương tiền
Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ số này cho biết 1 đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi bao nhiêu đồng tài sản
có tính thanh khoản cao là tiền và các khoản tương đương tiền. Cũng như các chỉ số
khả năng thanh toán khác, chỉ số này cao thể hiện khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ của
doanh nghiệp tốt, nhưng nếu ở mức quá cao thì sẽ làm tăng chi phí cơ hội và chi phí
lưu trữ, quản lý của việc nắm giữ tiền.
Tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống như trường hợp
các hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh toán tức thời tốt hay
xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu hệ số này
nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.
1.2.3.2. Nhóm chỉ tiêu phân tích khả năng quản lý của tài sản ngắn hạn
Vòng quay hàng tồn kho
ò
à
ồ kho =
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho đo lường khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh, doanh
nghiệp bán hàng tốt và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều.Có nghĩa là doanh nghiệp
sẽ ít rủi ro hơn nếu khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có giá trị giảm qua
các năm. Tuy nhiên, hệ số này quá nhỏ cũng không tốt, vì như vậy tức là lượng hàng
dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất có khả năng
doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Hơn nữa, dự
trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây
chuyền sản xuất bị ngưng trệ.Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để
đảm bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.Tuy nhiên, hàng tồn
kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh doanh nên không phải cứ tồn kho thấp là tốt,
mức tồn kho cao là xấu.
16
Thang Long University Library
Thời gian luân chuyển kho trung bình
Thời gian lưu chuyển kho trung bình =
360
ò
à
ồ kho
Chỉ số này cho biết hàng tồn kho được lưu trong kho của doanh nghiệp trong bao
nhiêu ngày.Để duy trì hoạt động kinh doanh thì hàng hóa cần phải dự trữ ở một số
lượng cần thiết nào đó. Tuy nhiên, lưu giữ quá nhiều hàng tồn kho đồng nghĩa với việc
làm tăng chi phí quản lý và tăng rủi ro khó tiêu thụ hàng tồn kho này do có thể không
hợp nhu cầu tiêu dùng cũng như thị trường kém đi. Do vậy tỷ số này cần xem xét để
xác định thời gian tồn kho hợp lý theo chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
mức độ bình quân chung của ngành cũng như mức tồn kho hợp lý đảm bảo cung cấp
được bình thường.
Vòng quay các khoản phải thu
Phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp
và được xác định theo công thức:
Vòng quay các khoản phải thu =
Doanh thu thuần
Số dư các khoản phải thu
Số dư các khoản phải thu được tính bằng các khoản phải thu trên bảng cân đối kế
toán. Doanh thu thuần được tính ở đây chính là tổng doanh thu thuần của cả ba loại
hoạt động (hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường)
Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh là tốt, vì
doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu (không phải cấp tín
dụng cho khách). Ngược lại, vòng quay quá nhỏ sẽ làm giảm doanh thu do chính sách
cấp tín dụng cho khách hàng trở nên nghiêm ngặt hơn.
Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu
(số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). Vòng quay các khoản phải thu càng
lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và ngược lại. kỳ thu tiền bình quân được xác
định theo công thức:
Kỳ thu tiền bình quân =
360
Vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền càng lớn chứng tỏ các khoản phải thu lớn, hay vốn bị chiếm dụng
nhiều. Tuy nhiên hệ số này lớn có thể do doanh nghiệp đang mở rộng thị trường, thâm
nhập vào thị trường mới, dùng chính sách bán hàng trả chậm để tạo thế cạnh tranh, thì
lúc đó tình trạng của doanh nghiệp chỉ là tạm thời.
17
Kỳ thu tiền của doanh nghiệp càng nhỏ thể hiện doanh nghiệp thu hồi các khoản
nợ ngày càng nhanh, vốn ít bị chiếm dụng. Tuy nhiên nếu kỳ thu tiền quá nhỏ có thể
ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ, vì ít có đối tác muốn hợp tác với doanh nghiệp quá
khắt khe về chi trả. Vì trong nền kinh tế thị trường hiện nay mua bán chịu là tất yếu vì
người mua bao giờ cũng muốn kéo dài thời gian trả tiền, người bạn lại muốn kéo dài
kỳ hạn trả tiền với nhà cung cấp.
Vòng quay các khoản phải trả
òng quay các khoản phải trả =
Giá vốn hàng bán+ Chi phí quản lý, bán hàng
Phải trả người bán
Hệ số trả nợ là chỉ tiêu vừa phản ánh uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng
vừa phản ánh khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường muốn thu
nợ nhanh, trả nợ chậm nên họ rất muốn kéo dài thời gian hoàn trả nợ dẫn đến hệ số trả
nợ thấp. Hệ số này thấp cho thấy Công ty có uy tín và là khách hàng tốt của nhà cung
cấp nên được cho chậm trả, nhưng cũng có thể là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang
khó trả các khoản nợ đến hạn. Để khẳng định được khả năng thanh toán nợ của doanh
nghiệp cần phân tích chi tiết các khoản phải trả, các khách hàng cho nợ, doanh số phát
sinh nợ và tuổi nợ các khoản phải trả, đối chiếu với hợp đồng mua hàng, xem xét tốc
độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận… để có kết luận về việc hệ số trả nợ thấp là do
được cho chậm trả hay do doanh nghiệp kinh doanh yếu kém mất khả năng thanh toán
các khoản nợ.
Thời gian trả nợ trung bình
Thời gian trả nợ trung bình =
360
Hệ số trả nợ
Chỉ tiêu này cho biết thời gian để doanh nghiệp thanh toán được một đồng nợ của
mình.Nếu thời gian trả nợ trung bình lớn thì doanh nghiệp đang được lợi từ việc chiếm
dụng vốn, tuy nhiên điều này cũng làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp đồng
thời cũng chứa đựng các rủi ro về khả năng trả nợ.
Hệ số luân chuyển tài sản ngắn hạn
Hệ số luân chuyển à ả
ắ
ạ
=
Doanh thu thuần
Tài sản ngắn hạn bình quân
Hệ số luân chuyển của TSNH (số vòng quay của TSNH) cho biết trong kỳ kinh
doanh, TSNH quay được mấy vòng.Số vòng quay càng lớn, tốc độ luân chuyển của
TSNH càng cao, hiệu quả sử dụng tài sản càng cao và ngược lại.muốn đạt được hệ số
luân chuyển TSNH lớn, điều cần thiết là phải tập trung rút ngắn chu kì sản xuất kinh
doanh và đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp (tăng doanh thu – tử
18
Thang Long University Library
số), do việc giảm tài sản ngắn bình quân sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất
kinh doanh.
1.2.3.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn
Việc sử dụng TSNH đạt hiệu quả có cao hay không biểu hiện trước hết ở tốc độ
luân chuyển tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhanh hay chậm.Trong tài chính, tốc
độ luân chuyển tài sản ngắn hạn là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng đánh giá khả
năng thanh toán của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn nhanh hay
chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt: mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh
nghiệp có hợp lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không, các khoản
phí tổn trong quá trình sản xuất kinh doanh là cao hay thấp? Thông qua phân tích chỉ
tiêu tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn có thể giúp cho doanh nghiệp tìm ra giải pháp
đẩy nhanh được tốc độ luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
Vòng quay tài sản ngắn hạn
Vòng quay TSNH trong kỳ =
Doanh thu thuần
Trong đó:
−
Trong năm tổng mức luân chuyển tài sản ngắn hạn được xác định bằng
doanh thu thuần của doanh nghiệp.
−
TSNH bình quân trong kỳ: được tính theo công thức sau:
đầu kỳ +
TSNH bình quân trong kỳ =
cuối kỳ
Chỉ tiêu vòng quay tài sản ngắn hạn phản ánh trong một năm tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp luân chuyển được bao nhiều vòng hay một đồng TSNH bình quân
trong năm tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
Tài sản ngắn hạn bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản ngắn hạn ở
đầu kỳ và cuối kỳ. Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong
doanh nghiệp, cho biết cứ một đồng tài sản ngắn hạn đưa vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
Hệ số này càng lớn, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao vì hàng hóa tiêu
thụ nhanh, vật tư tồn đọng thấp, ít có các khoản phải thu. Ngược lại, nếu hệ số này
thấp, phản ánh hàng tồn kho lớn, lượng tiền tồn quỹ nhiều, doanh nghiệp không thu
được các khoản phải thu, từ đó doanh nghiệp cần xem xét lại tình hình tài chính của
mình để khắc phục.
19
Thời gian luân chuyển tài sản ngắn hạn
Thời gian luân chuyển TSNH =
Thời gian của kỳ phân tích
Vòng quay TSNH trong kỳ
Trong đó: Thời gian của kỳ phân tích được ước tính một năm là 360 ngày, một
quý là 90 ngày và một tháng là 30 ngày.
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của TSNH hay số
ngày bình quân cần thiết để TSNH thực hiện một vòng quay trong kỳ. Trái ngược với
chỉ tiêu số vòng quay TSNH trong kỳ, thời gian luân chuyển TSNH càng ngắn càng
chứng tỏ TSNH được sử dụng hiệu quả.
Hệ số đảm nhiệm TSNH (hay còn gọi là hàm lượng TSNH)
bình quân trong kỳ
Hệ số đảm bảo TSNH =
Doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng
TSNH. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt đối với doanh nghiệp, vì khi đó tỷ suất lợi
nhuận của một đồng TSNH sẽ tăng lên. Do đó qua chỉ tiêu này, các nhà quản trị tài
chính xây dựng kế hoạch đầu tư tài sản ngắn hạn một cách hợp lý, góp phần nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
1.2.3.4. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
Nếu như các chỉ số về khả năng quản lý tài sản, quản lý vốn phản ánh hiệu quả
từng hoạt động của doanh nghiệp thì chỉ số về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp
nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp.
Tỷ suất sinh lời trên tài sản ngắn hạn
Tỷ số này được tính ra bằng cách ấy lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trong
kỳ báo cáo chia cho tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp trong kỳ. Số liệu về lợi nhuận
sau thuế (lợi nhuận ròng) được lấy từ báo cáo kết quả kinh doanh, còn tài sản ngắn hạn
lấy trên bảng cân đối kế toán
Tỷ suất sinh lời trên tài sản
ắ
ạ
=
Lợi nhuận sau thuế
TSNH
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng và trình độ quản lý tài sản ngắn hạn của
doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đơn vị tài sản ngắn hạn sử dụng
trong quá trình kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Trị số của chỉ
tiêu càng cao, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng lớn. Nếu tỷ số này lớn hơn 0 có
nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi, còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0 thì doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ.
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -