TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
CHUYÊN ĐÊ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: Nâng cao hiệu quả phân tích tài chính của Công ty Cổ phần Sản
xuất và Dịch vụ MS
Giảng viên hướng dẫn
: PGS, TS. Nguyễn Thị Bất
Sinh viên thực hiện
: Đào Bích Hanh
Lớp
: TCDN 20.18
Hà Nội 2012
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế đầy cạnh tranh và khốc liệt như hiện nay, sự tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như môi trường kinh
doanh, trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp, đặc biệt trình độ quản lý tài
chính là một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu và có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự sống còn đối với nhiều doanh nghiệp. Mục đích của việc phân tích tài chính
là giúp người sử dụng thông tin đánh giá được sức mạnh tài chính, khả năng sinh
lời và triển vọng của doanh nghiệp. Do vậy, phân tích tài chính có ý nghĩa quan
trọng không chỉ đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp mà
còn hữu ích đối với các nhà đầu tư, nhà cung cấp, nhà cho vay, người lao động
trong doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế.
Hoạt động phân tích tài chính trong doanh nghiệp không chỉ cung cấp thông tin về
tình hình thực hiện công tác tài chính của doanh nghiệp trong thời gian đã qua mà
qua đó còn giúp nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra được những đánh giá, rút kinh
nghiệm từ những điểm còn bất cập, phát huy điểm mạnh để từ đó vạch ra được các
quyết định quản lý và tài chính phù hợp để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu
quả nhằm tối đa hóa lợi nhuận, củng cố hình ảnh doanh nghiệp trong thị trường.
Ngày này, với sự phát triển của kinh tế tài chính, xu hướng hội nhập kinh tế quốc
tế và cách mạng công nghệ thông tin, phân tích tài chính càng được chú trọng
nhiều hơn và phát huy vai trò của nó, đồng thời có nhiều đổi mới cho phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế xã hội mới.
Tuy nhiên, hiện nay do chưa ý thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính và
còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động phân tích tài chính, nhiều doanh nghiệp ở
Việt Nam vẫn chưa đầu tư thích đáng cho lĩnh vực này dẫn đến hoạt động sản xuất
kinh doanh có năng suất thấp, chưa tạo được bước phát triển nhảy vọt, đóng góp
lớn vào sự phát triển của đất nước
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao, hoàn thiện chất lượng phân tích
tài chính trong các doanh nghiệp, và qua thời gian thực tập tại Công ty CP Sản xuất
và Dịch vụ MS, trong khuôn khổ chuyên đề này, xin được chọn đề tài “Nâng cao
hiệu quả phân tích tài chính của Công ty Cổ phần Sản xuất và Dịch vụ MS ” với
mong muốn cung cấp thông tin khách quan về tình hình phân tích tài chính của
3
doanh nghiệp này và sau đó cũng xin được nêu ra một số gợi ý nhằm thúc đẩy hoạt
động này trong doanh nghiệp.
Chuyên đề bao gồm ba chương như sau:
Chương 1: Lý thuyết và hiệu quả phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng phân tích tài chính tại Công ty CP Sản xuất & Dịch vụ
MS
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phân tích tài chính tại Công ty
CP Sản xuất & Dịch vụ MS
4
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VÀ HIỆU QUẢ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và
các công cụ theo một hệ thống nhất đinh, cho phép thu thập và xử lý các thông tin
kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một
doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp đó, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin
đưa ra các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro phá sản
tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh
giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của
doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và
đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng
của doanh nghiệp trong tương lai. Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo
nhiều hướng khác nhau: với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ),
với mục đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích (trong doanh
nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp)
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có các hoạt động
trao đổi điều kiện và kết quả sản xuất thông qua những công cụ tài chính và vật
chất. Chính vì vậy, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải tham gia vào các mối
quan hệ tài chính đa dạng và phức tạp. Các quan hệ tài chính đó có thể chia thành
các nhóm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước. Quan hệ này biểu
hiện trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa
ngân sách Nhà nước với các doanh nghiệp thông qua các hình thức:
-
Doanh nghiệp nộp các loại thuế vào ngân sách theo luật định.
5
-
Nhà nước cấp vốn kinh doanh hoặc tham gia với tư cách góp vốn.
Thứ hai: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác huy động
các yếu tố đầu vào (thị trường hàng hóa, dịch vụ lao động...) và các quan hệ để
thực hiện tiêu thụ sản phẩm ở thị trường đầu ra.
Thứ ba: Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính và các tổ
chức tài chính. Thể hiện cụ thể trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn và ngắn
hạn cho nhu cầu kinh doanh:
-
Trên thị trường tiền tệ: Đó là mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng...
- Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp huy động các nguồn vốn dài hạn
bằng cách phát hành các loại chứng khoán cũng như việc trả các khoản lãi
hoặc doanh nghiệp gửi các khoản vốn nhàn rỗ vào ngân hàng hay mua
chứng khoán của các doanh nghiệp khác.
Thứ tư: Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp. Đó là các khía
cạnh tài chính liên quan đến vấn đề phân phối thu nhập và chính sách tài chính
của doanh nghiệp như vấn đề cơ cấu tài chính, chính sách tái đầu tư, chính sách
lợi tức cổ phần, sử dụng ngân quỹ nội bộ doanh nghiệp.
1.2 Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp như: Chủ
doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng... Mỗi đối tượng quan tâm
với các mục đích khác nhau nhưng thường liên quan đến nhau.
-
Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm
hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Ngoài ra, các nhà
quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến mục tiêu khác nhau như tạo công
ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí...
Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện các mục tiêu này nếu họ kinh
6
doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục rút cục
sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và buộc phải đóng cửa, còn nếu doanh nghiệp
không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng buộc phải ngừng
hoạt động.
-
Đối với các chủ ngân hàng, cái họ quan tâm hàng đầu là khả năng thanh
toán các khoản nợ khi tới hạn bao gồm cả gốc và lãi mà không cần biết đến
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
-
Đối với người lao động: Đây là nhóm đối tượng liên quan trực tiếp tới tình
hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Cái họ quan
tâm là khả năng chi trả các khoản tiền lương đúng hạn và sự ổn định việc
làm lâu dài.
-
Đối với nhà đầu tư: Mối quan tâm hàng đầu của họ là giá trị doanh nghiệp.
Họ kỳ vọng vào khả năng sinh lời, tối đa hoá giá trị của chủ sở hữu doanh
nghiệp thông qua mức tăng trưởng đều của giá trị cổ phiếu trên thị trường và
cổ tức trả lãi cho các cổ đông trên cơ sở an toàn tài chính. Vì vậy, họ cần các
thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và
tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp để nhận biết khả năng sinh lợi
của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ quyết định có bỏ
vốn vào doanh nghiệp hay không. Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ
đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp và họ có thể phải gánh
chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc giảm giá cổ phiếu trên thị
trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, quyết
định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi đạt
được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng tăng
trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh
nghiệp. Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ
sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh
hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng
7
phát triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các
nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều
kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra
sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu
cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những
người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ
cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết
sức coi trọng vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu
nhập của cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị
tăng thêm của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và
vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh
nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ
phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô
doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các
yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ
phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên
thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như
hiệu quả của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi
thực hiện phân tích tài chính.
-
Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế (cục thuế, các bộ chủ
quản…) không chỉ thực hiện việc giám sát, kiểm tra tình hình kinh doanh và
tài chính của mỗi doanh nghiệp, mà còn theo dõi khả năng hoàn thành nghĩa
vụ đối với nhà nước, lợi ích kinh tế -xã hội mà hoạt động của doanh nghiệp
đem lại cho nền kinh tế, để từ đó kịp thời điều chỉnh vào hoạt động sản xuất
kinh doanh theo những chủ trương, định hướng của Đảng và Chính phủ.
Tất cả những cá nhân, tổ chức quân tâm nói trên đều có thể tìm thấy và thoải
mãn nhu cầu về thông tin của mình thông qua hệ thống chỉ tiêu do phân tích tài
chính cung cấp. Như vậy, việc phân tích tài chính trong doanh nghiệp phải đạt
được các mục tiêu chủ yếu sau đây:
8
-
Cung cấp đầy đủ thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các tín chủ và những
đối tượng có nhu cầu sử dụng khác giúp họ đưa ra các quyết định đúng đắn.
-
Cung cấp thông tin cho chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay và các
đối tượng khác trong việc đánh giá khả năng, tính chắc chắn của các dong
tiền mặt và tình hình sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tình hình vầ khả năng
thanh toán của doanh nghiệp.
-
Cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả
của quá trình, sự kiện và các tình huống làm biến đổi cơ cấu nguồn vốn và
các khoản nợ của doanh nghiệp.
1.3 Trình tự các bước tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp
1.3.1 Thu thập thông tin
Đây là bước đầu tiên và có ý nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài chính doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả
năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ
cho quá trình dự đoán tài chính
Có rất nhiều nguồn khác nhau để thực hiện "thu thập thông tin" từ thông tin nội bộ
đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin kế toán đến các thông tin quản
lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị..., trong đó, thông tin kế toán được
coi là nguồn quan trọng nhất được phản ánh trong các báo cáo tài chính của doanh
nghiệp. Do vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, thực chất của phân tích tài chính
doanh nghiệp là phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
1.3.2 Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu thập
được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu, ứng
dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu phân
tích đã đặt ra : Xử lý thông tin là quá trình xắp xếp các thông tin theo những mục
9
tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân
của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
Những phân tích tài chính sẽ không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là công việc tổng
hợp và sắp xếp số liệu trong khi các đối tượng tài chính cần nghiên cứu lại luôn
luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên ở giai đoạn này, các
chuyên gia phân tích tài chính phải biết đặt một đối tượng tài chính này trong mối
quan hệ biện chứng với các đối tượng khác trong các báo cáo tài chính và trong
mối liên hệ với các tiêu chuẩn, các định mức tài chính và kinh tế được đặt ra bởi
các đối tác tài chính của doanh nghiệp. Mỗi đối tượng đều đưa ra cho doanh nghiệp
những tiêu chuẩn khác nhau song nhìn chung, đều nhằm vào bốn mục tiêu: khả
năng sinh lời, khả năng thanh toán, khả năng cân đối tài chính và mức độ rủi ro.
1.3.3 Dự đoán và ra quyết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để
người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra những quyết định tài chính. Có
thể nói mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài chính. Nếu hai
giai đoạn trên được thực hiện theo đúng thứ tự và đúng nguyên tắc thì kết quả của
giai đoạn này chỉ còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của những người sử
dụng thông tin.
Dự đoán và ra quyết định được thực hiện sẽ xây dựng lên bức tranh toàn cảnh về
hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng của
doanh nghiệp trong quá khứ. Qua đó, mỗi đối tượng khác nhau khi sử dụng các kết
quả phân tích để đưa ra các quyết định riêng của mình trong tương lai đáp ứng mục
tiêu đã lựa chọn ở giai đoạn 1.
-
Đối với chủ doanh nghiệp, nhà quản lý doanh nghiệp: đó là quyết định có
liên quan tới mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp.
-
Đối với các nhà đầu tư và chủ nợ của doanh nghiệp: đó là các quyết định tài
trợ và đầu tư.
10
-
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: đó là các quyết định quản
lý doanh nghiệp
1.4 Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử dụng tài
sản của doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và tình hình
biến động của các khoản mục trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo tài
chính với nhau.
Việc phân tích báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng hai phương pháp:
phương pháp phân tích ngang và phương pháp phân tích dọc báo cáo tài chính.
Phân tích ngang báo cáo tài chính là việc so sánh đối chiếu tình hình biến động cả
về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài chính, còn
phân tích dọc là việc sử dụng các quan hệ tỷ lệ, các hệ số thể hiện mối t ương quan
giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo tài chính với
nhau để rút ra kết luận.
Cụ thể, trong thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau:
1.4.1 Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến nhất và là phương pháp chủ yếu trong
phân tích tài chính để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến đổi của chỉ
tiêu phân tích.
Có nhiều phương thức so sánh và sử dụng phương thức nào là tuỳ thuộc vào mục
đích và yêu cầu của việc phân tích.
Người ta thường tiến hành các cách so sánh sau:
-
So sánh số thực hiện kỳ này so với kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về
tài chính, đánh giá sự tăng trưởng hay suy thoái của hoạt động kinh doanh.
-
So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch trong kỳ để thấy mục đích phấn
đấu của doanh nghiệp.
11
-
So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành để
đánh giá tình trạng tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu.
-
So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể
dể đánh giá bién động của từng cá thể trong tổng thể.
-
So sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy sự biến đổi về số lượng
tương đối, tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán.
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh
được của các chỉ tiêu:
+ Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng phải thống nhất về mặt chất lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu chất lượng phải thống nhất về mặt số lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp phải thống nhất về nội dung, cơ cấu
của các chỉ tiêu.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu hiện vật khác nhau phải tính ra các chỉ tiêu này bằng
những đơn vị tính đổi nhất định.
+ Khi không so sánh được bằng các chỉ tiêu tuyệt đối thì có thể so sánh bằng
các chỉ tiêu tương đôí. Bởi vì, trong thực tế phân tích, có một số trường hợp,
việc so sánh các chỉ tiêu tuyệt đối không thể thực hiện được hoặc không mang
một ý nghĩa kinh tế nào cả, nhưng nếu so sánh bằng các chỉ tiêu tương đối thì
hoàn toàn cho phép và phản ánh đầy đủ, đúng đắn hiện tượng nghiên cứu.
Trong phân tích so sánh có thể sử dụng số bình quân, số tuyệt đối và số tương
đối.
Số bình quân phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua sự phát triển
không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng đó, hay nói cách khác,
số bình quân đã san bằng mọi chênh lệch về trị số của các chỉ tiêu...Số bình
quân có thể biểu thị dưới dạng số tuyệt đối hoặc dưới dạng số tương đối( tỷ
12
suất). Khi so sánh bằng số bình quân sẽ thấy mức độ đạt được so với bình quân
chung của tổng thể, của ngành, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật.
Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy rõ khối lượng, quy mô của hiện tượng kinh
tế. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản ánh, cách
tính toán xác định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường.
Sử dụng số tương đối để so sánh có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu của
hiện tượng kinh tế, đặc biệt có thể liên kết các chỉ tiêu không giống nhau để
phân tích so sánh. Tuy nhiên số tương đối không phản ánh được thực chất bên
trong cũng như quy mô của hiện kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khi so
sánh cần kết hợp đồng thời cả số tuyệt đối và số tương đối.
1.4.2 Phương pháp tỷ lệ
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các đại lượng tài chính
trong các quan hệ tài chính. Mỗi sự biến đổi của các tỷ lệ cố nhiên sẽ là sự biến
động của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải
xác định được các định mức, các ngưỡng để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động
tài chính doanh nghiệp trên cơ sở các tỷ lệ nhất định. Các ngưỡng này còn gọi là
các tỷ lệ tham chiếu.
Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng các nhóm chỉ tiêu tỷ lệ có lựa chọn sau:
-
Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng
để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn cuả doanh nghiệp
-
Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho
việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp .
-
Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định
và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
-
Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi và phân phối lợi nhuận.: Phản ánh hiệu
quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất cuả doanh nghiệp.
13
Tuỳ theo mục tiêu phân tích mà các nhà phân tích tài chính lựa chọn những
chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu phù hợp.
1.4.3 Phương pháp Dupont
Trong phân tích tài chính người ta thường vận dụng mô hình Dupont để phân tích
mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa
các chỉ tiêu mà người ta có thể thấy được mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số
hoạt động trên phương diện chi phí và các chỉ số hiệu quả sử dụng vốn.
Mô hinh Dupont thương đươc vân dung trong phân tich tai chinh co dang:
Lợi nhuận thuần
ROI=
Lợi nhuận ròng
=
Tổng tài sản
Doanh thu thuần
x
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Dupont đã khái quát hóa và trình bày chỉ số Tỉ suất lợi nhuận theo tài sản (ROI)
một cách rõ ràng, nó giúp cho các nhà quản trị tài chính có một bức tranh tổng hợp
để có thể đưa ra các quyết định tài chính có hiệu quả.
Từ mô hình phân tích trên cho thấy, để nâng cao khả năng sinh lời của một đồng
tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng, quản trị doanh nghiệp phải nghiên cứu và
xem xét có những biện pháp gì cho việc nâng cao không ngừng khả năng sinh lời
của quá trình sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Mô hinh phân tich tai chinh Dupont đươc biêu hiên băng sơ đô sau:
Tỷ suất lợi nhuận theo tài sản
Tỷ lệ lãi theo doanh thu
Lợi nhuận
thuần
Vòng quay của tài sản
Doanh thu
thuần
Doanh thu
thuần
14
Tổng tài
sản
Doanh thu
thuần
Chi phí ngoài
sản xuất
Tổng chi
phí
Tổng tài sản
ngắn hạn
Chi phí sản
xuất
Vốn vật tư
hàng hóa
Tổng tài
sản dài hạn
Vốn bằng
tiền phải thu
Mô hình trên cho thấy, số vòng quay của tài sản càng cao thì sức sản xuất tài sản
của doanh nghiệp càng lớn làm cho tỷ lệ sinh lời của tài sản càng lớn. Để nâng cao
số vòng quay của tài sản, một mặt phải tăng quy mô về doanh thu thuần, mặt khác
phải sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu của tổng tài sản. Như vậy tổng doanh
thu thuần và tổng tài sản bình quân quân có quan hệ mật thiết với nhau, thông
thường chúng có quan hệ cùng chiều. Nghĩa là tổng tài sản thì tổng doanh thu
thuần cũng tăng.
Mô hình trên cũng cho thấy, tỷ lệ lãi theo doanh thu thuần phụ thuộc vào hai nhân
tố cơ bản đó là tổng lợi nhuận thuần và doanh thu thuần. Hai nhân tố này lại có
quan hệ cùng chiều nghĩa là doanh thu thuần tăng thì cũng làm cho lợi nhuận thuần
tăng. Để tăng quy mô về doanh thu thuần, ngoài việc phải giảm các khoản giảm trừ
doanh thu, còn phải giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, bao gồm cả chi
phí ngoài sản xuất và chi phí sản xuất sản phẩm. Đồng thời cũng phải thường
xuyên nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng giá bán, góp phần nâng cao tổng mức
lợi nhuận.
1.5 Nội dung phân tích tài chính trong doanh nghiệp
Trước khi tiến hành phân tích các chỉ tiêu tài chính, trước hết cần phải có được
những thông tin cần thiết về tình hình tài chính chung nhất của doanh nghiệp.
15
Trước hết cần đánh giá khái quá tình hình tài chính qua phân tích báo cáo tài
chính:
Việc này sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin khai quát về tình hình tài chính
của doanh nghiệp trong kỳ là khả quan hay không khả quan thông qua một số nội
dung sau
Để đánh giá chung trước khi đi vào đánh giá chi tiết, ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lãi
trên tổng tài sản (ROI):
Lợi nhuận thuần
ROI=
Lợi nhuận ròng
=
Tổng tài sản
Doanh thu thuần
x
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
ROI là phân tích của hệ thống vòng quay vòng vốn với tỷ lệ lãi thuần trên doanh
thu, mặt khác ROI còn có 2 ý nghĩa: Cho phép liên kết hai con số cuối cùng của
hai báo cáo tài chính cơ bản (lãi thuần của báo cáo kết quả kinh doanh và Tổng tài
sản); Kết hợp ba yếu tố cơ bản cần phải xem xét ngay từ đầu trước khi đi vào phân
tích chi tiết.
Bên cạnh việc huy động và sử dụng vốn, khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và
mức độ độc lập về mặt tài chính cũng cho thấy một cách khái quát về tình hình tài
chính doanh nghiệp.
Vốn CSH
Tỷ suất tài trợ
=
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này càng nâng cao, chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh
nghiệp càng lớn vì hầu hết tài sản doanh nghiệp có được đều là của doanh nghiệp.
Tỷ suất thanh toán
hiện hành
Tổng tài sản lưu động
=
Tổng số nợ ngắn hạn
16
Tỷ suất này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là
cao hay thấp. Nếu tỷ lệ này càng dần tới 1 thì doanh nghiệp có tình hình tài chính
càng bình thường tương đương với việc có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn.
Tổng số vốn bằng tiền
Tỷ suất thanh toán
của vốn lưu động
=
Tổng số vốn bằng tài sản lưu
động
Chỉ tiêu này cho thấy khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản lưu động. Nếu chỉ
tiêu này lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0.1 đều không tốt vì sẽ gây ra ứ động vốn hoặc
thiếu vốn cho hoạt động thanh toán.
Tỷ suất thanh toán
tức thời
Tổng số vố bằng tiền
=
Tổng số nợ ngắn hạn
Nếu tỷ suất này lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, nếu nhỏ
hơn 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán nợ. Vì vậy có thể
xảy ra khả năng bán gấp hàng hóa để thanh toán nợ. Tuy nhiên, nếu tỷ suất này quá
cao thì cũng không tốt vì lúc này vốn bằng tiền quá nhiều. Điều đó phản ánh khả
năng quay vòng vốn chậm, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Một số chỉ tiêu khác cần được xem xét:
Vốn hoạt động thuần = Tài sản lưu động – Nợ ngắn hạn
Nếu chỉ tiêu này càng lướn thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao.
Nhưng khi vốn hoạt đồng quá cao thì lại làm giảm hiệu quả hoạt động đầu tư và
giảm thu nhập vì phần tài sản lưu động nằm dư ra so với nhu cầu chắc chắn không
làm tăng thêm thu nhập.
Tuy nhiên, do hoạt động tài chính doanh nghiệp là một bộ phận của hoạt động sản
xuất kinh doanh và có mối liên hệ trực tiếp, hai chiều với hoạt động sản xuất kinh
17
doanh. Vì vậy, để quá trình đánh giá được sâu sắc hơn, chúng ta cũng cần phải đi
nghiên cứu các báo cáo tài chính khác.
Khái quát tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
qua phân tích bảng cân đối kế toán:
-
Tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét và đánh giá sự thay đổi
các chỉ tiêu cuối kỳ so với đầu kỳ trên BCĐKT về nguồn vốn và cách sử dụng vốn
của doanh nghiệp vào công việc cụ thể. Sự thay đổi của các tài khoản trên BCĐKT
từ kỳ trước tới kỳ này cho ta biết nguồn vốn và sử dụng vốn.
Để tiến hành phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, trước tiên người ta
trình bày BCĐKT dưới dạng BCĐ báo cáo từ tài sản đến nguồn vốn, sau đó so
sánh số liệu cuối kỳ với đầu kỳ trong từng chỉ tiêu của BCĐ để xác định tình hinh
tăng giảm vốn trong doanh nghiệp theo nguyên tắc:
+ Nếu tăng phần tài sản và giảm phần nguồn vốn thì được xếp vào cột sử dụng
vốn.
+ Nếu giảm phần tài sản và phần tăng nguồn vốn thì được xếp vào cột nguồn vốn.
+ Nguồn vốn và sử dụng vốn phải cân đối với nhau.
Cuối cùng, tiến hàng sắp xếp các chỉ tiêu về nguồn vốn và sử dụng vốn theo những
trình tự nhất định tùy theo mục tiêu phân tích và phản ánh vào bảng biểu.
Nội dung phân tích này, cho ta biết trong một kỳ kinh doanh nguồn vốn tăng, giảm
bao nhiêu, tình hình sử dụng vốn như thế nào. Những chỉ tiêu nào là chủ yếu, ảnh
hưởng tới sự tăng giảm nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Từ đó có giải
pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả vốn trong doanh nghiệp.
-
Tình hình đảm bảo nguồn vốn:
18
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có tài sản cố định, đầu tư
dài hạn, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Để hình thành hai loại tài sản này,
phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng, bao gồm nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn
ngắn hạn. Nguồn vố dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành TSCĐ, phần dư
của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành lên TSCĐ.
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn, các nhà phân
tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng hay vốn lưu động thường xuyên
của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc
đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp. Nó được xác định là
phần chênh lệc giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn (Vốn lưu động ròng
= TSLĐ – Nợ ngắn hạn).
Vấn đề về khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô phụ thuộc phần
lớn vào vốn lưu động nói chung và vốn lưu động ròng nói riêng. Do vậy, sự phát
triển còn được thể hiện ở sự tăng trưởng vốn lưu động ròng. Mức độ an toàn của tài
sản ngắn hạn phụ thuộc vào mức độ của vốn lưu động thường xuyên.
Muốn phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cần phải tính toán và so sánh giữa
các nguồn vốn với tài sản. Nói cách khác, khi nguồn vốn dài hạn < TSCĐ hay
TSLĐ < Nguồn vốn ngắn hạn, nghĩa là nguồn vốn thường xuyên < 0. Do đó nguồn
vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ, doanh nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một
phần nguồn vốn ngắn hạn.
Khi đó cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng, doanh nghiệp phải
dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn. Khi đó, doanh nghiệp
cần tăng cường huy động vốn ngắn hạn hoặc giảm qui mô đầu tư dài hạn.
Trường hợp ngược lại, tức là nguồn vốn lưu động thường xuyên dương (>0) cho
thấy nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ. Đồng thời TSLĐ >
nguồn vốn ngắn hạn, do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.
19
Trường hợp nguồn vốn dài hạn đủ tài trợ cho TSCĐ và TSLĐ, nghĩa là vốn lưu
động thường xuyên = 0. Lúc này doanh nghiệp có đủ khả năng trả các khoản nợ
ngắn hạn, tình hình tài chính doanh nghiệp lành mạnh, nghĩa là nhu cầu vốn lưu
động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một
phần tài sản lưu động không phải là tiền.
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Tồn kho và các khoản phải thu – Nợ ngắn
hạn.
Khái quát tình hình tài chính qua Báo cáo kết quả kinh doanh
Đây là một bản báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tình hình và kết quả hoạt động
kinh doanh theo từng loại hoạt động của doanh nghiệp.
Nội dung của báo cáo này thay đổi theo từng thời kỳ tùy thuộc vào yêu cầu quản
lý, nhưng khi đánh giá khái quát tình hình tài chính thì phân tích báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh phải phản ánh được bốn nội dung cơ bản đó là doanh thu, giá
vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp thông qua phương
trình: Lãi (Lỗ) = Doanh thu – Chi phí bán hàng – Chi phí hoạt động kinh doanh.
Sau khi đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, ta đi vào đánh giá
chi tiết một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của doanh nghiệp như sau:
1.5.1 Nhóm chỉ tiêu về cấu trúc tài chính
Phân tích cấu trúc tài chính là việc phân tích tình hình huy động, sử dụng vốn và
mối quan hệ giữa tình hình huy động với tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Qua đó giúp các nhà quản lý nắm được tình hình phân bổ tài sản và các nguồn tài
trợ tài sản, biết được nguyên nhan cũng như các dấu hiệu ảnh hưởng đến cân bằng
tài chính.
Thực chất của việc phân tích cấu trúc tài chính của doanh nghiệp bao gồm các nội
dung: Phân tích cơ cấu tài sản, nguồn vốn và mối quan hệ giữa chúng.
20
1.5.1.1
-
Cơ cấu tài sản – nguồn vốn
Phân tích cơ cấu tài sản của doanh nghiệp được thực hiện bằng cách so sánh
tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ
phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản. Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản
chiếm trong tổng số tài sản được xác định như sau:
Giá trị của từng bộ phận tài
Tỷ trọng từng bộ
phận TS chiếm
sản
=
x
100
Tổng tài sản
trong Tổng TS
Tỷ trọng này cho phép nhà quản lý đánh giá được khái quát tình hình phân bổ (sử
dụng) vốn và đánh giá được việc sử dụng vốn có phù hợp với lĩnh vực kinh doanh
và có phục vụ tích cực cho mục đích kinh doanh của doanh nghiệp hay không.
-
Phân tích cơ cấu nguồn vốn: Cũng tiến hành tương tự như phân tích cơ cấu
tài sản. Trước hết, cần tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân
tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số
nguồn vốn. Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số
nguồn vốn được xác định như sau:
Giá trị của từng bộ phận
Tỷ trọng từng bộ
phận NV chiếm
NV
=
trong Tổng NV
x
100
Tổng nguồn vốn
Tỷ trọng trên chỉ ra được cơ cấu huy động vốn, biết được trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với các nhà cho vay, nhà cung cấp, người lao động, ngân sách...Tỷ
trọng này cũng cho thấy được mức độ độc lập về tài chính cũng như xu hướng biến
động của cơ cấu nguồn vốn huy động.
1.5.1.2
Hê sôô vêê kha năng thanh toan lai vay
21
- Xem thêm -