Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán ngân hàng ngoại thư...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán ngân hàng ngoại thương việt nam – vcbs

.PDF
92
19
114

Mô tả:

Luận văn tốt nghiệp -1- Đồng Phan Thùy Anh LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự ra đời và đi vào hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2000 dường như là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Trong suốt hơn 10 năm hoạt động TTCK Việt nam đã dần hoàn thiện và chứng tỏ một vị trí quan trọng với tư cách là một kênh đầu tư hấp dẫn và hiệu quả, cung cấp vốn trực tiếp cho toàn bộ nền kinh tế, cũng như cung cấp các sản phẩm tài chính đa dạng cho các nhà đầu tư. Môi giới chứng khoán là một trong những hoạt động nghiệp vụ đặc trưng và cơ bản của TTCK, đòi hỏi một chất lượng đặc biệt về kĩ năng, nghiệp vụ, đạo đức đồng thời đòi hỏi một môi trường hỗ trợ tương đối phức tạp về tổ chức, pháp luật, cơ sở vật chất, thiết bị, văn hóa, xã hội…TTCK phát triển ở trình độ cao là tiền đề để nghề MGCK có thể đảm nhận tốt chức năng của mình. Ngược lại, MGCK đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của TTCK. Đối với thị trường, MGCK giúp những người bình thường, không am hiểu nhiều về kinh tế, tài chính cũng có thể tiếp cận thị trường, đáp ứng nhu cầu đầu tư, giao dịch của họ; làm tăng nguồn vốn trực tiếp vào thị trường chứng khoán, thu hút nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư và phát triển. Đối với công ty chứng khoán, MGCK không chỉ tạo ra nguồn thu đều đặn mà còn mở rộng, thắt chặt và củng cố quan hệ với khách hàng, qua đó có thể làm nền tảng cho các hoạt động khác của công ty. Công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương là một trong những công ty ra đời đầu tiên tại Việt nam và cũng là công ty đi đầu trong việc cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng trên thị trường lúc bấy giờ. Với nhiều năm hoạt động, VCBS đã đạt những thành công nhất định trong khả năng kiểm soát thị trường, tạo dựng vị thế và uy tín của công ty. Tuy nhiên, cũng như nhiều công ty chứng khoán khác, VCBS vẫn chưa sử dụng hết những khả năng nội tại của mình để đạt đến xây dựng một bộ máy hoàn thiện Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp -2- Đồng Phan Thùy Anh với mô hình dịch vụ môi giới chuyên nghiệp, trình độ cao. Bên cạnh đó, với số lượng lớn các công ty chứzng khoán ra đời như hiện nay thì VCBS phải đứng trước một cuộc cạnh tranh khá khó khăn để chiếm lĩnh khách hàng và khả năng điều khiển thị trường. Do vậy, việc tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ môi giới chứng khoán tại các công ty chứng khoán nói chung và tại VCBS nói riêng là rất quan trọng. Với những lý do kể trên, em đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt nam – VCBS” làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài : Khóa luận được nghiên cứu với mục đích: - Hệ thống cơ sở lý luận chung về hoạt động MGCK, cũng như hiệu quả của hoạt động MGCK nói chung. - Phân tích, đánh giá về thực trạng MGCK tại công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, những tồn tại và nguyên nhân. - Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động MGCK tại công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt nam. 3. Đối tượng,phạm vi nghiên cứu Khóa luận lấy hoạt động MGCK tại công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương làm đối tượng nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở một số vấn đề lý luận thực tiễn có liên quan trực tiếp đến hoạt đông MGCK nói chung và hoạt động MGCK tại công ty CK Ngoại thương nói riêng. 4. Kết cấu của khóa luận Khóa luận có kết cấu như sau : ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận được chia ra làm 3 chương : Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp -3- Đồng Phan Thùy Anh Chương 1 : CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ NGHIỆP VỤ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Chương 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIỆP VỤ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp -4- Đồng Phan Thùy Anh CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1 Lý luận chung về công ty chứng khoán 1.1.1. Khái niệm Thị trường chứng khoán (TTCK) là loại thị trường đặc biệt, ở đó thực hiện trao đổi, mua bán các loại chứng khóa, “tư bản giả”, những hàng hóa khác với các loại hàng hóa thông thường. Thị trường chứng khoán là một bộ phận của Thị trường tài chính, được coi là “phong vũ biểu”, là “nhiệt kế đo sức khỏe” của một nền kinh tế. Chính vì vậy, việc đảm bảo tính công bằng, liên tục, an toàn và trật tự của Thị trường chứng khoán là rất quan trọng và một trong những biện pháp hữu hiệu là sự ra đời của các Công ty chứng khoán với vai trò là một định chế trung gian của TTCK. Công ty chứng khoán là tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán thông qua việc thực hiện một hoặc vài giao dịch chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Hiện nay, trên thế giới có 2 mô hình phổ biến về CTCK: - Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán. Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các CTCK độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như: Mỹ, Nhật, Hàn quốc, Canada… Mô hình này có ưu điểm là hạn chế được rủi ro cho hệ thống Ngân hàng, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên khả năng san bằng rủi ro trong kinh doanh bị hạn chế. Trong thời gian gần đây, Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp -5- Đồng Phan Thùy Anh các nước áp dụng mô hình này có xu hướng giảm dần sự hạn chế đối với ngân hàng thương mại trong nghiệp vụ chứng khoán. - Mô hình công ty đa năng. Có hai loại công ty đa năng: + Công ty đa năng một phần: Ở đây, ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con kinh doanh độc lập. Ở Việt nam đang áp dụng mô hình này. + Công ty đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh tổng hợp (chứng khoán, bảo hiểm, tiền tệ). Mô hình này có ưu điểm là sự kêt hợp đa năng rất cao nên giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh chung, có khả năng chịu được các biến động của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nếu thị trường biến động mạnh thì hoạt động kinh doanh dễ bị ảnh hưởng nếu không tách bạch rõ ràng các nghiệp vụ kinh doanh. Các nước châu Âu, Anh, Úc… thường áp dụng mô hình này. 1.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán Cơ cấu của một công ty chứng khoán có thể được xây dựng từ đơn giản đến phức tạp tùy thuộc vào quy mô của thị trường, phương thức của chủ sở hữu, khách hàng…Khi TTCK chưa phát triển, CTCK có cơ cấu và hoạt động đơn giản, khi thị trường phát triển thì hoạt động của các CTCK sẽ ngày càng phức tạp và sôi động. Cơ cấu tổ chức, quy mô kinh doanh cũng như các nghiệp vụ mà CTCK được phép hoạt động tùy thuộc vào tính chất sở hữu của công ty. Cơ quan quyền lực cao nhất của CTCK là hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị bổ nhiệm Ban giảm đốc và giám đốc đièu hành công ty. Giúp việc cho Hội đồng quản trị có Ban kiểm soát, có nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát tất cả các giao dịch chứng khoán. Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một CTCK gồm các phòng chủ yếu sau: Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp -6- Đồng Phan Thùy Anh Phòng giao dịch Phòng giao dịch thực hiện các giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán và OTC. Chức năng chính của phòng này là nhận và thực hiện giao dịch tại sở đối với lệnh giao dịch. Thông thường phòng giao dịch bao gồm 3 bộ phận sau: + Bộ phận môi giới cho khách hàng. + Bộ phận tự doanh. + Bộ phận nghiên cứu và phân tích chứng khoán. - Phòng kế toán- Tài chính, gồm 2 bộ phận chủ yếu là: + Bộ phận Kế toán: Xử lý các hợp đồng và tài liệu giao dịch, soạn thảo, in ấn, gửi cho khách hàng, nhận tài liệu từ khách hàng, lưu trữ các hợp đồng, chứng từ, lệnh… + Bộ phận Tài chính: Quản lý tài chính của công ty thông qua các tài khoản chứng khoán và tiền, quản lý việc cho khách hàng vay tiền đầu tư vào chứng khoán… - Phòng Maketing: quan hệ với khách hàng của công ty và nhận lệnh. - Phòng Quản trị hành chính tổng hợp. - Phòng lưu ký, đăng ký, lưu trữ. - Phòng quản lý tài sản. Nhiều CTCK có trụ sở chính ở một thành phố, chi nhánh ở các thành phố khác. Các khách hàng có thể chuyển lệnh của mình qua trụ sở chính hoặc chi nhánh. Các phòng này đem lại nguồn thu nhập cho CTCK bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra sản phẩm phù hợp với các nhu cầu đó. 1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán Vai trò của công ty chứng khoán được thể hiện qua các nghiệp vụ của công ty chứng khoán. Thông qua các hoạt động này, công ty chứng khoán Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp -7- Đồng Phan Thùy Anh đã thực sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của Thị trường chứng khoán nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Công ty chứng khoán đã trở thành tác nhân quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển của thị trường chứng khoán. Vai trò làm cầu nối giữa cung – cầu chứng khoán Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian tham gia hầu hết vào quá trình luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát hành trên thị trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp. Trên thị trường sơ cấp: Công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua một tổ chức chuyên nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Đó là các tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán… Công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệp nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này, công ty chứng khoán thực hiện vai trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Trên thị trường thứ cấp: Công ty chứng khoán là cầu nối giữa các nhà đàu tư, là trung gian chuyển các khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong môi trường đầu tư ổn định, các nhà đầu tư luôn chuộng những chứng khoán có tính thanh khoản cao, vì họ luôn có nhu cầu chuyển đổi số vốn tạm thời nhàn rỗi thành các khoản đầu tư và ngược lại. Công ty chứng khoán với nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp cho cácnhà đầu tư giảm thiều thiệt hại về giá trị khoản đầu tư của mình. Vai trò góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp -8- Đồng Phan Thùy Anh Từ sau cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán thế giới ngày 28/10/1929, chính phủ các nước đã ban hành những luật lệ bổ sung cho hoạt động của thị trường chứng khoán, trong đó đồi hỏi một sự phối hợp giữa Nhà nước với các thành viên tham gia Sở giao dịch chứng khoán nhằm ngăn chặn những cơn khủng hoảng giá chứng khoán có thể xảy ra trên thị trường, vì nếu thị trường chứng khoán bị khủng hoảng thì không những nền kinh tế bị ảnh hưởng mà ngay cả quyền lợi nhà đầu tư, các công ty chứng khoán cùng bị ảnh hưởng. Theo quy định của các nước, các công ty chứng khoán có nghiệp vụ tự doanh phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá giảm và bán chứng khoán dự trữ ra khi giá lên quá cao nhàm góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có quy định này. Dĩ nhiên, sự can thiệp của các công ty chứng khoán chỉ có hạn, phụ thuộc vào nguồn vốn tự doanh và quỹ dự trữ chứng khoán. Tuy vậy, nó vẫn có ý nghĩa nhất định, có tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường. Với vai trò này, các công ty chứng khoán góp phần tích cực vào sự tồn tại và phát triển bền vững của thị trường chứng khoán. Vai trò cung cấp các dịch vụ cho thị trường chứng khoán: Công ty chứng khoán với các chức năng và nghiệp vụ của mình cung cấp các dịch vụ cần thiết góp phần cho thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, cụ thể: Thực hiện tư vấn đầu tư, góp phần giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư: thị trường chứng khoán cũng tương tự như tất cả các thị trường khác, để tiến hành giao dịch, người mua, người bán phải có cơ hội gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, thị chứng khoán với những đặc trưng riêng của nó như người mua người bán có thể ở rất xa nhau, hàng hóa không phải là giá trị thực, vì vậy để cung cầu gặp nhau, thẩm định Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp -9- Đồng Phan Thùy Anh chất lượng, xác định giá cả thì phải mẩt rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho một giao dịch dể phục vụ cho việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin… Công ty chứng khoán với lợi thế chuyên môn hóa, trình độ kinh nghiệp nghề nghiệp sẽ thưc hiện tốt vai trò trung gian mua bán chứng khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch. Cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư: công ty chứng khoán thông qua Sở giao dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác định giá nhằm giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác các khoản đầu tư của mình. Trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, các công ty chứng khoán thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý. Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các công ty chứng khoán được tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá chứng khoán được xác định theo quy luật cung cầu. Ngoài ra, công ty chứng khoán còn cung cấp nhiều dịch vụ khác hỗ trợ giao dịch chứng khoán. Với các nghiệp vụ đa dạng của mình, công ty chứng khoán giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển của thị trường chứng khoán, là chất xúc tác không thể thiếu cho hoat động của thị trường chứng khoán. 1.1.4. Các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán CTCK là một định chế tài chính trung gian, thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua các nghiệp vụ cơ bản sau: - Môi giới (Brokerage Operation). - Bảo lãnh phát hành (Underwirting). - Tư vấn đầu tư chứng khoán (Security investment consutancy). - Tự doanh chứng khoán (Trading operation). Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 10 - Đồng Phan Thùy Anh Như vậy, bằng các hoạt động của mình, các CTCK tham gia vào tất cả các quá trình luân chuyển của chứng khoán: từ giai đoạn phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp (bảo lãnh phát hành), đến các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp (môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư). Môi giới chứng khoán Môi giới là hoạt động dịch vụ quan trọng của CTCK, nó đem lại phần lớn thu nhập (khoảng 30-50% tổng thu nhập) và tạo một cơ sở khách hàng quan trọng cho các CTCK khi thực hiện phân phối các loại chứng khoán mới phát hành trong các đợt bảo lãnh phát hành. Các CTCK khi thực hiện hoạt động môi giới phải tuân thủ nguyên tắc minh bạch, công khai, vì quyền lợi của khách hàng. Đồng thời không được đưa ra các ý kiến tư vấn mang tính chất khẳng định về tiềm năng lợi nhuận hoặc phao tin nhằm thu hút khách hàng vào các mục đích riêng. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng các sảm phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa người mua và người bán chứng khoán. Tự doanh chứng khoán Tự doanh là việc công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện qua cơ chế giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá, hoạt động tự doanh của CTCK thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số loại chứng khoán nhất định và thực hiện mua bán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi cho chính công ty thông qua hành vi mua bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với hoạt động môi giới, vừa thực hiện lệnh của khách hàng Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 11 - Đồng Phan Thùy Anh đồng thời cũng thực hiện lệnh của chính mình. Vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột giữa lợi ích khách hàng và lợi ích bản thân công ty. Do đó, luật chưng khoán quy định phải tách biệt rõ nghiệp vụ môi giới và nghiệp vụ tự doanh, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh tự doanh. CTCK cần phải có nguồn vốn lớn, đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, có khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt khi đóng vai trò làm nhà tạo lập thị trường. Có hai hình thức trong hoạt động tự doanh là giao dịch trực tiếp và giao dịch gián tiếp. Giao dịch trực tiếp là giao dịch thỏa thuận trực tiếp giữa khách hàng và công ty chứng khoán, còn giao dịch gián tiếp là giao dịch đặt lệnh thông qua trung tâm giao dich chứng khoán. Bảo lãnh phát hành chứng khoán Bảo lãnh phát hành là việc CTCK hỗ trợ đơn vị phát hành huy động vốn bằng cách bán chứng khoán trên thị trường. Sự hỗ trợ đó giúp đơn vị phát hành nắm chắc khả năng huy động vốn và có kế hoạch sử dụng vốn huy động. Có 3 hình thức bảo lãnh phát hành mà thế giới thường áp dụng : bảo lãnh với cam kết chắc chắn, bảo lãnh cam kết cố gắng tối đa, bảo lãnh đảm bảo tất cả hoặc không. Như vậy, CTCK sẽ thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa phân phối hết của tổ chức phát hành. Tư vấn đầu tư chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán. Trong hoạt động tư vấn đầu tư, công ty chứng khoán cung cấp thông tin, cách thức đầu tư và loại chứng khoán cần đầu tư đối với khách hàng của mình. Hoạt động này cần đòi hỏi nhiều kiến thức, kĩ năng chuyên môn và kinh Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 12 - Đồng Phan Thùy Anh nghiệm của CTCK. Ngoài ra thì tính trung thực của CTCK cũng là một đặc điểm thu hut khách hàng. Các nghiệp vụ phụ trợ - Lưu ký chứng khoán là việc nhận kí gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán. - Hoạt động quản lý thu nhập chứng khoán(quản lý cổ tức) : Nghiệp vụ này của CTCK xuất phát từ nghiệp vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ lưu ký CTCK phải tổ chức theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho khách hàng. Tuy nhiên trên thực tế các CTCK thường không trực tiếp quản lý mà sẽ lưu ký tại trung tâm lưu ký chứng khoán. - Hoạt động hỗ trợ tín dụng cho khách hàng như Repo ( mua bán chưng khoán có kì hạn), cho vay cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán… + Repo là giao dich mua bán lại chứng khoán có kỳ hạn được giao dịch trên thị trường tài chính. Đây là loại giao dịch nhà đầu tư có thể mua và bán chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu…) của chính mình trong một khoảng thời gian thỏa thuận nhất định với CTCK. Tức là, khi có nhu cầu về vốn trong một thời gian nhất định mà không muốn bán số chứng khoán của mình, nhà đầu tư có thể kí hợp đồng Repo trong đó cam kết sẽ mua lại số chứng khoán đã bán này từ CTCK tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá nhất định xác định trước trong hợp đồng. + Cho vay cầm cố chứng khoán là việc thế chấp chứng khoán (thường là cổ phiếu) để vay tiền của CTCK hoặc ngân hàng trong một thời gian nhất Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 13 - Đồng Phan Thùy Anh định, mức vay được tính bằng 20%- 50% thị giá chứng khoán, tùy theo bên nhận cầm cố, trong thời hạn vay ma thị giá giảm xuống dưới một mức quy định thì người đi vay phải nộp thêm tiền để đảm bảo an toàn cho bên nhận cầm cố, nếu không bên nhận cầm cố có quyền thanh lý chứng khoán. + Ứng trước tiền bán chứng khoán: xuất phát từ ngày thanh toán T + 3 (sau 3 ngày kể từ ngày bán chứng khoán tiền mới về tài khoản của khách hàng) CTCK thường phối hợp với ngân hàng để cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán, phí cho vay thường được tính theo tỷ lệ %/ngày của khoản ứng trước (thường từ 0,03%-0,05%/ngày) và quy định mức tối thiểu cho một lần ứng trước.Dịch vụ này giúp khách hàng tăng vòng quay vốn, nhanh chóng đưa tiền vào kinh doanh chứng khoán, khắc phục nhược điểm T + 3. 1.2. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán 1.2.1. Khái niệm về môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, CTCK đại diện cho khách hàng để tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm về quyết định giao dịch của mình. Theo Luật chứng khoán Việt Nam ( T6/2006), môi giới chứng khoán là việc CTCK làm trung gian thực hiện lệnh mua, bán chứng khoán cho khách hàng. Do vậy : - Quyết định mua, bán chứng khoán là do khách hàng đưa ra và CTCK bắt buộc phải thực hiện lệnh đó. - CTCK đại diện cho khách hàng thực hiện các giao dịch theo lệnh của khách hàng. - Việc hạch toán các giao dịch phải được thực hiện trên các tài khoản thuộc sở hữu của khách hàng. Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 14 - Đồng Phan Thùy Anh - CTCK chỉ được thu phí dịch vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác giao dịch. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tư vấn cho khách hàng, kết nối giữa các nhà đầu tư. 1.2.2. Phân loại môi giới chứng khoán Có nhiều cách để phân loại môi giới chứng khoán. Nhìn chung môi giới chứng khoán thường có một số nhóm sau : - Môi giới toàn phần hay còn gọi là môi giới dịch vụ đầy đủ (FullService) : là những người môi giới có thể cung cấp đầy đủ dịch vụ liên quan đến chứng khoán cho khách hàng, đại diện cho khách hàng để thương lượng mua bán chứng khoán, thay mặt cho khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan đến chứng khoán của khách hàng, như : quản lý chứng khoán, thu cổ tức, cung cấp tài liệu, tư vấn cho khách hàng. Vì vậy phí môi giới thường cao hơn môi giới chiết khấu - Môi giới bán phần- môi giới chiết khấu (Discount Service) : là những người chỉ cung cấp một số ít dịch vụ tùy theo ủy thác của khách hàng, chủ yếu là thương lượng mua bán chứng khoán. Ưu thế của loại hình môi giới này so với môi giới toàn phần là phí dịch vụ thấp hơn nhiều. Ngoài ra môi giới chứng khoán còn được phân loại theo hoạt động của nhà môi giới, bao gồm : 1.2.2.1. Môi giới ủy nhiệm hay môi giới thừa hành: Đây là nhân viên của một công ty chứng khoán thành viên của một Sở giao dịch, làm việc hưởng lương của một công ty chứng khoán và được bố trí để thực hiện các lệnh mua bán cho các công ty chứng khoán hay cho khách hàng của công ty trên sàn giao dịch. Vì thế họ có tên chung là môi giới trên sàn (Floor Broker). Các lệnh mua bán được chuyển đến cho các nhà môi giới Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 15 - Đồng Phan Thùy Anh thừa hành này có thể từ văn phòng công ty, cũng có thể từ các môi giới đại diện (Registered Representative). 1.2.2.2. Nhà môi giới hai đôla : Nhà môi giới 2 đôla là thành viên của SDGCK nhưng là một nhà môi giới độc lập, không thuộc về một công ty nào. Họ có thể sỡ hữu hoặc thuê chỗ cho mình và thực hiện các lệnh giao dịch cho bất kỳ công ty nào thuê họ. Khi một nhà môi giới của CTCK không có khả năng thực hiện các lệnh giao dịch của mình, hoặc vắng mặt trong phòng giao dịch, anh ta có thể chuyển một số lệnh cho nhà môi giới độc lập. CTCK sẽ trả cho nhà môi giới độc lập một khoản phí trên dịch vụ của anh ta, trước đây khoản phí phải trả cho nhà môi giới độc lập là 2 đôla cho 100 cổ phiếu mua bán hộ công ty. Tuy nhiên hiện nay khoản phí này thường lớn hơn 2 đôla. 1.2.2.3. Nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký : Một số người mua chỗ trên SDGCK chỉ nhằm mục đích mua bán chứng khoán cho chính bản thân họ. Những người đó gọi là nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký. Thông thường anh ta không thuộc về một công ty nào. Tuy nhiên do sự gia tăng các nguyên tắc và các quy định nên hoạt động của họ bị hạn chế rất nhiều. Vì thế các nhà giao dịch chứng khoán này hoặc hỗ trợ cho các nhà môi giới chuyên môn hoặc hoạt động như là một nhà môi giới 2 đôla. 1.2.2.4. Nhà môi giới chuyên môn : Mỗi chứng khoán niêm yết tại SDGCK chỉ được buôn bán trên một vị trí nhất định trong phòng giao dịch. Vị trí này được gọi là “quầy”. Trong mỗi ‘quầy” có một số nhà môi giới được gọi là nhà môi giới chuyên môn, họ chịu trách nhiệm mua bán một loại chứng khoán nhất định. Nhà môi giới chuyên môn đảm nhiểm hai chức năng chủ yếu là thực hiện các lệnh giao dịch và tạo thị trường. 1.2.3. Nội dung hoạt động môi giới chứng khoán Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 16 - Đồng Phan Thùy Anh Thực hiện nghiệp vụ môi giới, các CTCK không chỉ đảm nhận vai trò trung gian giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng, mà còn là nhà tư vấn hướng dẫn đầu tư, chăm sóc khách hàng bằng các dịch vụ tiện ích và đa dạng của mình. Nội dung hoạt động môi giới chứng khoán gồm các hoạt đọng chủ yếu sau: - Tư vấn khách hàng Một trong các yếu tố làm nên thành công của quá trình đầu tư của nhà đầu tư là khả năng cập nhật, nắm bắt, thẩm định và phân tích thông tin. Nhưng không phải nhà đầu tư nào cũng có thời gian, khả năng phân tích, thẩm định thông tin và hệ thống thông tin thị trường dù có được công bố một cách minh bạch đến đâu thì nhà đầu tư, bặc biệt là nhà đầu tư cá nhân khó mà nắm bắt kịp thời và đầy đủ. Nhờ lợi thế chuyên môn hóa, các CTCK sở hữu nguồn thông tin phong phú và đáng tin cậy, đã được phân tích và thẩm định bởi các chuyên gia. Do đó, họ có thể thực hiện tư vấn đầu tư, giúp nhà đầu tư đưa ra các quyết định đúng đắn. Trong quá trình tiếp cận khách hàng, tư vấn khách hàng, nhân viên môi giới vừa đưa ra những ý kiến tư vấn vừa cố gắng nắm bắt các thông tin về khách hàng như: tình hình tài chính, thu nhập, khẳ năng chịu dựng rủi ro…từ đó nhân viên môi giới sẽ đưa ra được những lời tư vấn hiệu quả, phù hợp đối với từng khách hàng. - Thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng Khi khách hàng quyết định đặt lệnh, lệnh đó sẽ được chuyển đến bộ phận môi giới giao dịch. Khách hàng có thể đặt lênh trực tiếp tại quầy giao dịch bằng cách ghi vào phiếu lệnh, hoặc đặt lệnh gián tiếp qua điện thoại, fax, internet. Nhân viên môi giới có trách nhiệm giải thích cho khách hàng về nguyên tắc khi đặt lệnh, nguyên tắc khớp lệnh để tránh những sai sót dẫn đến thiệt hại không đáng có cho khách hàng. Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 17 - Đồng Phan Thùy Anh Khi nhận lệnh nhân viên môi giới phải kiểm tra tính chính xác của các thông số trên lệnh: giá, số lượng, tên khách hàng, mã số tài khoản… và đặc biệt phải kiểm tra xem khách hàng có đủ số tiền kí quỹ (đối với lệnh mua) và có đủ số chứng khoán trong tài khoản (đối với lệnh bán). Các thao tác kiểm tra, nhận lênh, truyền lệnh phải được nhân viên môi giới thực hiện theo một trình tự quy định để đảm bảo lệnh của khách hàng được thực hiện chính xác, hạn chế tối đa những sai sót có thể xảy ra. Cuối cùng nhân viên môi giới sẽ thông báo kết quả giao dịch cho khách hàng. - Chăm sóc khách hàng Các CTCK luôn quan tâm đến việc duy trì mối quan hệ thân thiết, lâu dài với khách hàng. Công ty không chỉ đơn thuần thực hiện lệnh của khách hàng mà còn giúp quản lý tài khoản, thực hiện các quyền và lợi ích liên quan đến chứng khoán của khách hàng. Cụ thể công ty sẽ đảm nhận các công việc liên quan đến việc nhận gửi, rút chứng khoán, tiền, thực hiện các quyền liên quan như quyền nhận cổ tức, quyền mua cổ phần mới phát hành… Nhân viên môi giới thường xuyên giữ liên lạc với khách hàng, tiếp tục tìm hiểu thông tin liên quan đến khách hàng. Khi đã trở nên thân thiết và tin cậy, nhân viên môi giới còn là người chia sẻ những lo âu, căng thẳng của khách hàng khi đầu tư, đưa ra những lời khuyên phù hợp. 1.2.4. Nguyên tắc hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán Nhằm bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư và đảm bảo công bằng rằng nhân viên tiến hành giao dịch chứng khoán của mình theo cách thức hợp lý góp phấn duy trì một thị trường công bằng và có trật tự, CTCK phải tuân theo những nguyên tắc hoạt động nhất định. Nguyên tắc hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán bao gồm: Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 18 - Đồng Phan Thùy Anh - Giao dịch trung thực và công bằng : trong quá trình thực hiện mua bán chứng khoán cho khách hàng, nhân viên môi giới cần phải đảm bảo tính trung thực, công khai, và không thiên vị. Đối với phí môi giới nhân viên môi giới cũng không được phép tính quá mức phí được nhà nước cho phép. - Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy và có tinh thần trách nhiệm : một nhân viên môi giới không chỉ là người hội tụ đầy đủ phẩm chất đạo đức nghề nghiệp mà còn phải nắm vững thành thục các kỹ năng hành nghề cơ bản như kỹ năng tìm kiếm khách hàng, kỹ năng truyền đạt, khai thác thông tin, kỹ năng bán hàng; còn phải có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với khách hành, coi lợi ích của khách hàng cũng chính là lợi ích của mình. - Có đội ngũ nhân viên môi giới có năng lực, đã qua đào tạo và tuyển chọn : điều tất yếu là nhân viên môi giới phải nắm vững và luôn tuân thủ các luật lệ, quy chế, quy định hiện hành liên quan đến giao dịch kinh doanh CK. Trong quá trình giao dịch với khách hàng họ phải thể hiện là nhân viên có đủ năng lực cần thiết bao gồm cả việc đào tạo hoặc có kinh nghiệm chuyên môn phù hợp để có thể làm việc tốt ở vị trí được giao phó. - Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lênh của công ty : Nhân viên phải xử lý các lệnh của khách hàng một cách công bằng và theo thứ tự thời gian nhận được chúng, và phải đảm bảo rằng trong mọi trường hợp các lệnh của khách hàng phải được ưu tiên so với các lệnh của chính công ty. - Công khai về thông tin cho khách hàng : nhân viên phải cung cấp cho khách hàng đầy đủ những thông tin phải công khai của chính công ty mình, của các công ty niêm yết, sàn giao dịch, sở giao dịch, UBCKNN… Cung cấp cho khách hàng những thông tin về giao dịch của họ…. - Tuân thủ các quy định về pháp luật : Nhân viên phải thực hiện và duy trì các biện pháp thích hợp để đảm bảo việc chấp hành pháp luật, các nguyên tắc của UBCKNN, TTGDCK và yêu cầu của các cơ quan quản lý đối Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 19 - Đồng Phan Thùy Anh với mình. Họ phải đảm bảo những khiếu nại của khách hàng về những vấn đề liên quan tới lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty đều được điều tra, giải quyết, xử lý nhanh chóng và phù hợp. Nếu nhân viên nao vi phạm các quy định pháp luật thì hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước những hành vi của mình và bị xử lý, kỷ luật theo từng mức độ nặng, nhẹ mà mình gây ra. 1.2.5. Vai trò của nghiệp vụ môi giới chứng khoán 1.2.5.1. Giảm chi phí giao dịch Cũng như tất cả các thị trường khác, để tiến hàng giao dịch thì người mua và người bán phải có cơ hội để gặp gỡ nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa, thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên trên thị trường chứng khoán, với tư các là thị trường của những sản phẩm dịch vụ bậc cao, để thẩm địng chất lượng và giá cả hàng hóa, người ta cần một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo kỹ năng phân tích và tiến hành giao dịch trên một hệ thống thị trường đấu giá tập trung. Những chi phí đó chỉ có các công ty chứng khoán hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải do được hưởng lợi ích kinh tế từ quy mô. Mặt khác sự hiện diện của một tổ chức trung gian và cuyên nghiệp như thế làm cầu nối cho các bên mua bán gặp nhau sẽ làm giảm chi phí đáng kể (chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giảm sát thực thi hợp đồng…). Như vậy, vai trò đầu tiên của nghề môi giới chứng khoán là tiết kiệm được chi phí giao dịch, xét trong từng giao dịch cụ thể cũng như trên tổng thị trường, nhờ đó giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường. 1.2.5.2. Phát triển sản phẩm, dịch vụ trên thị trường Nhà môi giới chứng khoán là người thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, do vậy, họ rất nhạy bén trong việc nắm thông tin từ khách hàng. Giúp nhà môi giới có thể nhìn ra những thuận lợi và bất lợi trong quá trình giao dịch. Từ đó trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, nhà môi giới dần phát triển và hoàn thiện hơn các sản phẩm dịch vụ, tăng tính đa dạng của sản phẩm, Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính Luận văn tốt nghiệp - 20 - Đồng Phan Thùy Anh đa dạng hóa cơ cấu khách hàng, thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư tăng trưởng. 1.2.5.3 Cải thiện môi trường kinh doanh Vai trò cải thiện môi trường kinh doanh được thể hiện trên 3 phương diện: - Góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư : Cùng với sự phát triển của TTCK, hoạt động của công ty môi giới và nhân viên MGCK đang thâm nhập sâu rộng vào cộng đồng các doanh nghiệp và người đầu tư, góp phần quan trọng hình thành nên văn hóa đầu tư với những đặc trưng sau : + Tạo ý thức và thói quen đầu tư trong cộng đồng : Với sự giúp đỡ, quan tâm,chăm sóc,tư vấn của nhân viên môi giới, khách hàng thay vì sử dụng tiền dư thừa một cách lãng phí họ sẽ chọn ưu tiên đầu tư vào tài sản tài chính. Khi đã trở thành nếp suy nghĩ và cách ứng sử của toàn xã hội thì đó là mầm mống quan trọng tạo nên nền văn hóa đầu tư. + Xây dựng thói quen và kỹ năng sử dụng các dịch vụ đầu tư mà phổ biến là dịch vụ MGCK : Cùng với thời gian, lòng tin và sự tín nhiệm của người đầu tư đối với người môi giới dần được hình thành. Họ ý thức được những lợi ích mà dịch vụ này mang lại : thay vì họ phải bỏ thời gian, tiền bạc vào việc tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá thông tin…họ chỉ cần lựa chọn việc trả tiền để được hưởng những tiện ích được cung cấp những ý kiến phân tích, cho lời khuyên về mua bán sản phẩm nào, vào thời gian nào…để có thời gian cho lĩnh vực chuyên môn sâu của mình. + Hoàn thiện môi trường pháp lý, nâng cao hiểu biết và tuân thủ pháp luật cho nhà đầu tư : Công ty môi giới cùng nhân viên môi giới sẽ đưa pháp luật đến với nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư tìm hiểu và tuân thủ pháp luật trong quá trình tìm kiếm lợi ích của mình. Đồng thời công ty môi giới cũng kịp thời phản ánh cho các nhà làm luật chỉnh sửa những bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật. Lớp:K45/17.01 Học viện Tài Chính
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan