Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của htxdvnn mỹ lộc hạ, xã an thủy...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của htxdvnn mỹ lộc hạ, xã an thủy, huyện lệ thủy, tỉnh quảng bình.

.PDF
86
417
85

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp Họ tên: Đặng Thị Hằng GVHD: PGS.TS Mai Văn Xuân Lớp: K40B KTNN Đề tài: Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ, xã An Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của đề tài HTX nói chung, HTXNN nói riêng là một loại hình tổ chức kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Quá trình phát triển HTX đã trải qua nhiều bước thăng trầm, song luôn là nội dung có tính chiến lược trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện đường lối đổi mới HTXNN của Đảng và thi hành luật HTX 2003, hầu hết các địa phương đều đã chuyển đổi từ HTXNN kiểu cũ sang HTXNN kiểu mới cho phù hợp với quy luật kinh tế thị trường và đặc điểm của SXNN dựa trên quyền tự chủ SXKD của hộ nông dân. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương, sự vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới HTXNN của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp việc chuyển đổi HTXNN đã diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Sau gần 14 năm thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW ngày 24/5/1996 của Ban bí thư Trung ương Đảng khoá VII về : “Phát triển kinh tế hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế” và từ khi Luật HTX được ban hành năm 1996, sửa đổi năm 2003 và nhất là sau khi TW Đảng có Nghị quyết TW 5 khoá IX về củng cố, đổi mới và phát triển kinh tế tập thể, phong trào HTX ở nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, kinh tế hợp tác hiện nay còn bộc lộ nhiều yếu kém: Công tác vận động tuyên truyền Luật HTX sửa đổi chưa tốt nên một bộ phận nông dân còn mặc cảm, chưa hiểu rõ bản chất HTX kiểu mới; nhiều HTX chưa phát huy được tính ưu việt của kinh tế tập thể, chưa coi trọng vai trò hợp tác, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá của nông hộ; một số Sinh viên: Đặng Thị Hằng 1 Khóa luận tốt nghiệp HTX chuyển đổi mang tính hình thức; chất lượng hoạt động dịch vụ của HTX còn thấp; đội ngũ cán bộ quản lý HTX chưa được đào tạo kiến thức quản lý mới,… chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trò của mình. Sự phát triển của HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ nói riêng cũng như các HTXDVNN trên địa bàn huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình cũng không nằm ngoài bối cảnh đó. HTX Mỹ Lộc Hạ là một trong sáu HTXDVNN điển hình của xã An Thủy. Chính vì thế, để chuyển đổi, xây dựng HTXDVNN và các hình thức hợp tác khác thực sự đem lại hiệu quả, chúng ta cần phải phân tích nghiêm túc và kỹ càng thực trạng để từ đó giúp thấy rõ những tồn tại đề ra các giải pháp thiết thực. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ, xã An Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình. 1.2 Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hoá một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu. - Xem xét đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh – dịch vụ của các HTX nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở đó đưa ra những định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ nói riêng và của các HTX trên địa bàn huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình nói chung. 1.3 Đối tƣợng nghiên cứu Là hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ. 1.4 Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tại địa bàn HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ - xã An Thuỷ - huyện Lệ Thuỷ - tỉnh Quảng Bình. - Phạm vi về thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2007 - 2009 1.5 Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện những nội dung trên, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp duy vật biện chứng: được sử dụng như là cơ sở phương pháp luận của đề tài, để xem xét mối quan hệ trong tác động qua lại lẫn nhau, là phương Sinh viên: Đặng Thị Hằng 2 Khóa luận tốt nghiệp pháp chung để nhận thức bản chất của các sự vật, hiện tượng. - Phương pháp thống kê kinh tế, phân tích kinh doanh: + Điều tra, thu thập số liệu để có cơ sở phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ.  Số liệu thứ cấp: Được chúng tôi thu thập tại UBND xã An Thuỷ, phòng Nông nghiệp huyện Lệ Thuỷ, HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ, ngoài ra những thông tin từ các đề tài đã được công bố, các báo cáo, tài liệu, một số website có liên quan đến kết quả thu thập.  Số liệu sơ cấp: Chúng tôi đã điều tra HTX và một số hộ xã viên. Về điều tra hộ xã viên, căn cứ vào điều kiện của thôn Mỹ Lộc Hạ, thôn có 4 đội. Chúng tôi đã chọn 4 đội của thôn để tiến hành điều tra. Đó là 10 hộ đội 1, 10 hộ đội 2, 10 hộ đội 3, 10 hộ đội 4 của thôn Mỹ Lộc Hạ. Chọn mẫu điều tra: Chọn ngẫu nhiên, tổng số mẫu điều tra là 40 hộ. Nội dung điều tra: Điều tra các thông tin liên quan phục vụ cho đề tài nghiên cứu dựa trên các thông tin ghi trên bảng hỏi. Đối với HTX, đó là tổng nguồn vốn kinh doanh, tình hình công nợ của HTX, số khâu dịch vụ và tổng diện tích gieo trồng mà HTX đảm nhận, doanh thu cũng như chi phí trong từng khâu…Đối với các hộ xã viên, đó là đánh giá của họ về chất lượng và giá cả các hoạt động kinh doanh - dịch vụ của HTX, cũng như tư nhân; ý kiến của xã viên về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của HTX. + Tổng hợp số liệu thống kê: Để tổng hợp số liệu thống kê chúng tôi đã sử dụng các phương pháp:  Sử dụng các bảng biểu: Tổng hợp, phân tích, so sánh các chỉ tiêu cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX.  Phân tổ thống kê: chúng tôi tiến hành phân tổ theo các chỉ tiêu: phân lao động theo giới, theo trình độ, theo độ tuổi các cán bộ quản lý. + Phương pháp tính số bình quân, tốc độ phát triển: Nhằm đánh giá mức độ phổ biến của các chỉ tiêu cũng như xem xét sự biến thiên của các chỉ tiêu đó. - Phương pháp so sánh: So sánh sự biến động các chỉ tiêu qua 3 năm từ năm 2007 – 2009 của HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ. Sinh viên: Đặng Thị Hằng 3 Khóa luận tốt nghiệp - Phương pháp chuyên gia: Trong quá trình điều tra chúng tôi đã có tham khảo ý kiến của một số người có am hiểu sâu sắc về hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX , và các thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp để củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của HTX nhằm bổ sung và hoàn thiện cho bài viết của mình. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƢƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1 Những lý luận chung về hiệu quả kinh doanh 1.1.1.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh Vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của mỗi nhà sản xuất, mỗi doanh nghiệp, mỗi HTX, mà còn là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp, HTX muốn tồn tại và phát triển, yêu cầu đặt ra là phải kinh doanh có hiệu quả, không chỉ đạt hiệu quả về kinh tế mà còn phải đạt hiệu quả về môi trường và xã hội, để đạt được điều đó cần phải tìm cách mở rộng quy mô, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh dịch vụ, tìm kiếm thông tin mở rộng thị trường, có như thế mới đứng vững trên thị trường. Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Hiệu quả kinh doanh là thước đo chất lượng hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ tổ chức, quản lý sản xuất là vấn đề sống còn đối với tất cả các doanh nghiệp. Chính vì thế nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra cho các doanh nghiệp đó là phải hoạt động đạt hiệu quả. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và Sinh viên: Đặng Thị Hằng 4 Khóa luận tốt nghiệp vốn…) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh có thể được tính theo các cách sau: Cách 1: H=K-C Hiệu quả kinh doanh tính theo cách này cho thấy được lợi nhuận mang lại như thế nào, cách tính này đơn giản, thuận lợi, nhưng không phản ánh hết chất lượng kinh doanh cũng như những tiềm năng nâng cao hiệu quả và khả năng tiết kiệm hay lãng phí lao động xã hội. Cách 2: Từ nhược điểm của cách trên ta có thể sử dụng cách tính sau: H= K . C Trong đó: - H là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. - K là kết quả thu về từ hoạt động sản xuất kinh doanh. - C là chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Như vậy, chúng ta thấy giữa kết quả và hiệu quả có quan hệ mật thiết với nhau. Kết quả thu được phải là kết quả tốt, kết quả có ích, nó có thể là một đại lượng vật chất được tạo ra do có sự đầu tư chi phí hay mức độ thỏa mãn của nhu cầu và có phạm vi xác định (như tổng sản lượng, tổng sản phẩm hàng hóa…) Hiệu quả kinh doanh, trước hết là một đại lượng so sánh; so sánh giữa kết quả đầu ra với chi phí đầu vào, so sánh giữa chi phí kinh doanh với kết quả thu được. Trên góc độ xã hội, chi phí được xem xét phải là chi phí hoạt động xã hội. Do đó, thước đo của hiệu quả là sự tiết kiệm lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả là tối đa hóa kết quả đạt được hoặc tối thiểu hóa chi phí bỏ ra dựa trên các nguồn nhân tài và vật lực hiện có. 1.1.1.2 Bản chất của hiệu quả kinh doanh Để hiểu rõ bản chất của hiệu quả hoạt động kinh doanh thì cần phải phân biệt được ranh giới giữa hiệu quả và kết quả hoạt động kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ so sánh, so sánh giữa kết quả đầu ra với chi phí đầu vào, so sánh giữa chi phí kinh doanh với kết quả thu được. Trên góc độ xã hội, chi phí được xem xét phải là chi phí hoạt động kinh Sinh viên: Đặng Thị Hằng 5 Khóa luận tốt nghiệp doanh. Từ đó, bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội. Do đó, thước đo của hiệu quả kinh là sự tiết kiệm lao động xã hội và tính chất của hiệu quả là tối đa hóa đạt được hoặc tối thiểu hóa chi phí bỏ ra dựa trên các nguồn nhân lực và vật lực hiện có. Như vậy: Xét về mặt chất: Hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực trong một doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động kinh doanh phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa kết quả thực hiện những mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và mục tiêu chính trị, xã hội. Xét về mặt lượng: Hiệu quả hoạt động kinh doanh ở mối tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Doanh nghiệp, HTX có hiệu quả khi nào kết quả lớn hơn chi phí. Chi phí này càng nhỏ thì hiệu quả càng cao và ngược lại. Xét về mặt thời gian: Hiệu quả của doanh nghiệp phải là hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn, trong từng thời kỳ và trong cả quá trình sản xuất. Xét về mặt không gian: Hiệu quả kinh doanh chỉ có thể coi là đạt được tốt khi toàn bộ các hoạt động của các bộ phận, các đơn vị đều mang lại hiệu quả. Kết quả hoạt động kinh doanh là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình hoạt động, có thể là đại lượng cân, đong, đo đếm được như: số sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận… và cũng có thể là những đại lượng chỉ phản ánh đến chất lượng hoàn toàn như: chất lượng sản phẩm, dịch vụ, uy tín… Vì vậy, kết quả luôn là mục tiêu của doanh nghiệp, HTX. 1.1.1.3 Phân biệt một số loại hiệu quả Khi nói đến hiệu quả kinh tế, thì có nhiều quan điểm khác nhau của nhiều nhà kinh tế đề cập đến vấn đề này, nhưng có một điểm chung nhất đó là: Doanh nghiệp, HTX muốn đạt được hiệu quả thì phải sử dụng các yếu tố nguồn lực (vốn, lao động, tư liệu sản xuất…) một cách hợp lý, tiết kiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh, mà vẫn thu được một kết quả như mong muốn. Tuy nhiên, kết quả này có thể biểu hiện về mặt giá trị tiền tệ, nhưng cũng có thể biểu hiện về mặt hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế là sự tương quan so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra được thể hiện bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản phẩm, lợi nhuận; còn hiệu quả xã hội là sự tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả mà xã hội đạt được như: giải quyết việc làm, môi trường sinh thái… Sinh viên: Đặng Thị Hằng 6 Khóa luận tốt nghiệp Hiệu quả kinh tế - xã hội là sự tương quan so sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được cả về kinh tế và cả cho xã hội; hiệu quả kinh tế – xã hội vừa có tính lý luận sâu sắc vừa là yêu cầu đặt ra phù hợp với thực tiễn. Đối với nước ta nói chung và ở huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình nói riêng, yêu cầu phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo là rất cần thiết; trong đó chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTXNN đóng vai trò quan trọng. 1.1.1.4 Nguyên tắc khi đánh giá hiệu quả kinh doanh a. Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc xem xét hiệu quả kinh doanh dịch vụ Đối với các HTX, việc đánh giá hiệu quả kinh doanh - dịch vụ cần phải chú ý đến tất cả các khâu, các mặt, các yếu tố của quá trình kinh doanh, xem xét ở góc độ không gian và thời gian, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. b. Đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp nói chung, lợi ích của xã hội và cả lợi ích của người lao động. Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của một đơn vị, chúng ta không chỉ xem xét trong phạm vi của đơn vị đó, mà còn phải xem xét hiệu quả của nó trong phạm vi toàn ngành, toàn vùng hoặc của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng phải được xem xét trong mối liên hệ với lợi ích người lao động nhằm kích thích họ phát huy khả năng sáng tạo trong công việc đảm bảo cho sự phát triển lâu dài. c. Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh phải đánh giá cả về mặt định tính lẫn định lượng. Mặt định tính cho chúng ta biết được tổng quát tình hình hoạt động của đơn vị kinh doanh, được sử dụng trong các trường hợp không thể đo lường bằng các con số cụ thể hoặc khó định lượng được. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh được xem xét trong mối tương quan giữa cái được và cái mất. d. Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh – dịch vụ phải căn cứ vào kết quả cuối cùng về hiện vật và cả giá trị. Khi đánh giá hiệu quả kinh doanh dịch vụ, nếu như chúng ta chỉ căn cứ vào kết quả cuối cùng về mặt giá trị thôi thì cũng không đủ, điều này chỉ phản ánh được về Sinh viên: Đặng Thị Hằng 7 Khóa luận tốt nghiệp mặt chất lượng của sản phẩm mà chưa thể hiện được về mặt số lượng, chính vì thế chúng ta cần phải căn cứ cả về mặt số lượng và mặt giá trị. 1.1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh - dịch vụ của các HTX a. Về vốn kinh doanh Vốn sản xuất kinh doanh của HTX được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản dùng trong HTX, bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động. Ngoài vốn kinh doanh lớn hay nhỏ có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của chính HTX đó. Ngoài nguồn vốn góp từ mỗi xã viên, các HTX có thể huy động thêm vốn kinh doanh bằng cách vay từ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, vv… nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn kinh doanh trong các hoạt động. b. Về nguồn nhân lực Ảnh hưởng của yếu tố con người đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của một tổ chức là rất lớn. Con người với tư cách là chủ thể vừa là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Ngày nay, dưới sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, máy móc dần dần thay thế sức lao động của con người nhưng nếu không có sự điều hành của con người thì máy móc sẽ trở nên vô tác dụng. Do vậy nhân tố nguồn lực là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của HTX. c. Về khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệ là một đòi hỏi tất yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quyết định đến chất lượng dịch vụ, năng suất lao động, năng suất cây trồng và vật nuôi… Trong nông nghiệp – nông thôn, khi mà sản xuất hàng hóa đang trên đà phát triển, hoạt động kinh doanh đòi hỏi đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, thì việc thực hiện kinh doanh – dịch vụ của một HTX muốn bắt kịp với nhịp độ của thị trường đòi hỏi phải có những ứng dụng tiến bộ mới vào sản xuất. Những thiết bị, công nghệ hiện đại được ứng dụng một cách phù hợp sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận cho HTX, quyết định đến hiệu quả và kết quả của HTX. d. Về hệ thống thông tin Xây dựng một hệ thống thông tin chính xác là điều cần thiết cho bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, các HTX cần nắm vững thông tin về thị trường: giá cả vật tư, phân bón, nhu cầu của người mua, giá Sinh viên: Đặng Thị Hằng 8 Khóa luận tốt nghiệp cả của đối thủ cạnh tranh,… Ngoài ra, thông tin về các chính sách của Nhà nước ban hành, các chủ trương đổi mới theo Luật nhằm xây dựng HTX theo mô hình mới. Tất cả những thông tin đó đều có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh của HTX. e. Về trình độ tổ chức và điều hành Trình độ tổ chức và điều hành của cán bộ quản lí có vai trò quyết định đến thành công hay thất bại của một tổ chức. Đối với mỗi HTX, cán bộ quản lí là người đầu ngòi tổ chức tất cả các hoạt động của HTX, là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển của HTX đó. Cán bộ quản lí HTX có năng lực, có trình độ chuyên môn trình độ học vấn cao sẽ đưa ra những quyết định đúng hướng, có trình độ phải lớn nhằm giúp HTX ngày càng đi lên, tăng thu nhập cho xã viên, phát triển kinh tế hộ góp phần thúc đẩy chung cho sự phát triển của nông nghiệp - nông thôn. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTX còn chịu ảnh hưởng của một số nhân tố khác như: thời tiết khí hậu, địa hình của địa phương, sự thay đổi của thị trường… 1.1.2. Bản chất kinh tế của hợp tác xã nông nghiệp 1.1.2.1 Khái niệm hợp tác và kinh tế hợp tác Hợp tác là cùng chung sức, chung vốn để làm những việc mà từng người không làm được hoặc làm không có hiệu quả. Kinh tế hợp tác là hình thức liên kết tự nguyện của một nhóm người hoặc nhiều người (các thể nhân hoặc các pháp nhân) để phát huy sức mạnh về lao động và vốn nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề sản xuất kinh doanh hoặc đời sống. Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ thì kinh tế hợp tác là một hình thức kinh tế mà nhờ đó các chủ thể kinh tế tự chủ có điều kiện phát triển. Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là nhu cầu khách quan, hợp tác từ giản đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Trình độ xã hội hóa sản xuất càng cao thì nhu cầu hợp tác càng tăng, quan hệ hợp tác ngày càng sâu rộng, do đó tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các hình thức hợp tác ở trình độ cao hơn, chẳng hạn, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản xuất ngày càng tăng, như là dịch vụ về giống, phòng trừ sâu bệnh, thủy lợi v.v… 1.1.2.2 Các loại hình kinh tế hợp tác Sinh viên: Đặng Thị Hằng 9 Khóa luận tốt nghiệp a. Kinh tế hợp tác giản đơn - Tổ, hội nghề nghiệp được hình thành trên cơ sở tự nguyện của các chủ thể kinh tế độc lập có hình thức và mục đích hoạt động kinh doanh giống nhau, nhằm cộng tác, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuân của mỗi thành viên. Tổ, hội nghề nghiệp thường gồm 5-30 thành viên tự nguyện gia nhập, hoặc rút khỏi tổ. Tổ, hội nghề nghiệp hoạt động không có điều lệ, không có tư cách pháp nhân. Quan hệ giữa các thành viên chủ yếu dựa trên quan hệ tình cảm, tập quán, truyền thống cộng đồng, không mang tính pháp lý. Nội dung hoạt động mang tính khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. - Tổ, nhóm hợp tác là loại hình kinh tế giản đơn do các chủ thể kinh tế độc lập, tự nguyện thành lập, xuất phát từ nhu cầu của các thành viên. Các tổ nhóm hợp tác hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, gia nhập hoặc ra khỏi tổ, thành lập hoặc giải thể tổ chức, quản lý dân chủ, cùng có lợi. - Tổ kinh tế hợp tác, thường gọi tắt là “tổ hợp tác” là loại hình kinh tế hợp tác giản đơn, có quy mô lớn hơn, thường từ 5 – 30 hộ thành viên. Quan hệ hợp tác mang tính ổn định, thường xuyên, có cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý lãnh đạo. So với hợp tác xã thì tổ hợp tác loại này có nội dung, nguyên tắc hoạt động gần giống hợp tác xã, nhưng khác nhau ở chỗ tổ hợp tác hoạt động không có điều lệ, không có tư cách pháp nhân. b. Kinh tế hợp tác xã Trong nông nghiệp, HTX là một tổ chức kinh doanh của những người nông dân có cùng nhu cầu và nguyện vọng, tự nguyện liên kết lại để phối hợp giúp đỡ nhau phát triển kinh tế hoặc đáp ứng tốt hơn về đời sống của mỗi một thành viên, đây là một loại hình kinh tế hợp tác được ra đời và có quy mô và trình độ cao hơn kinh tế hợp tác giản đơn. Ở nước ta, HTX nói chung và HTXNN nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng và phát triển. Để tạo cơ sở pháp lý cho HTX phát triển, năm 1996 luật HTX đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996; có hiệu lực ngày 01 tháng 01 1997 gồm 10 chương và 56 điều. Luật này định nghĩa về HTX: “HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp Sinh viên: Đặng Thị Hằng 10 Khóa luận tốt nghiệp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.” Trong quá trình tổ chức thực hiện, do thực tiễn luôn có những thay đổi vì thế để phù hợp với sự phát triển của thực tiễn thì phải thay đổi những nội dung ít còn phù hợp. Năm 2003 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 4 đã ban hành luật HTX mới ngày 26 tháng 11 năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2004. Luật này được sửa đổi từ luật HTX năm 1996 và định nghĩa về HTX: “HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.” 1.1.2.3 Khái niệm về hợp tác xã, hợp tác xã nông nghiệp Theo Luật HTX 2003 nước ta quy định: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.” HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật. HTXNN là một trong các hình thức cụ thể của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, là tổ chức kinh tế của những người nông dân có cùng nhu cầu và nguyện vọng, tự nguyện liên kết lại để phối hợp giúp đỡ nhau phát triển kinh tế hoặc đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống của mỗi thành viên, tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc, luật pháp quy định, có tư cách pháp nhân. 1.1.2.4 Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp Sinh viên: Đặng Thị Hằng 11 Khóa luận tốt nghiệp Thông qua các hoạt động kinh tế xã hội, HTX đã khẳng định được vai trò quan trọng không chỉ đối với sản xuất kinh doanh và đời sống của hàng chục triệu người dân mà còn là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy dân chủ, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: “Phát triển hợp tác xã là con đường xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững nhất trong giai đoạn CNH, HĐH hiện nay.” Lịch sử phát triển của các HTX ở Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị trí to lớn của HTX trong việc phát triển kinh tế kinh tế xã hội của đất nước. Vào những năm 50 và đến cuối những năm 60, ở miền Bắc có 2,4 triệu hộ (chiếm 84,8%) và 76% diện tích ruộng đất trong nông nghiệp vào làm ăn tập thể trong 41.000 HTX. Chính số lượng đông đúc của các HTX đã góp phần làm ra một lượng lương thực lớn, góp phần giải quyết vấn đề lương thực ở miền Bắc và chi viện cho công cuộc đấu tranh ở miền Nam. Sau ngày giải phóng, mặc dù có những sai lầm trong cách thức phân phối vật phẩm nhưng các HTX cũng đã tạo ra được một lượng vật phẩm lớn cho xã hội, góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn nhất trong giai đoạn này. Vai trò của HTX thể hiện rất rõ trong việc phòng chống thiên tai, có sức mạnh tập thể sẽ hạn chế thiệt hại; kinh tế hợp tác còn thúc đẩy văn hóa – xã hội ở cơ sở phát triển. Ngày nay, trong xu thế hội nhập, các HTX có một vị trí hết sức đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Các HTX được tổ chức theo mô hình HTX kiểu mới, sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn. Các HTXNN đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế nông hộ. Nhờ có hoạt động của các HTX mà các yếu tố đầu vào, các khâu dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được cung cấp kịp thời, đầy đủ và đảm bảo chất lượng, các khâu sản xuất tiếp theo được đảm bảo làm cho hiệu quả sản xuất của nông hộ được nâng lên. Thông qua các hoạt động dịch vụ, vai trò điều tiết sản xuất của các HTXNN được thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, chuyên môn hóa cao. Mặt khác, hoạt động của các HTX chính là cầu nối giữa Nhà nước và nông dân. Thông qua HTXNN Nhà nước có thể thực hiện các chính sách của mình với những Sinh viên: Đặng Thị Hằng 12 Khóa luận tốt nghiệp người nông dân như chính sách khuyến nông, chính sách thuế và một số chính sách kinh tế xã hội khác. Các HTX chính là cầu nối giúp Nhà nước có thể chuyển giao các kỹ thuật, khoa học công nghệ tiến bộ trong sản xuất đến nông dân. Đồng thời, các HTX cũng là nơi cung cấp cho Nhà nước những thông tin cơ bản về tình hình nông nghiệp nông thôn để có những chính sách điều chỉnh phù hợp. Ngược lại, đối với các hộ nông dân, HTX chính là nơi họ có thể tìm thấy những yếu tố đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Và HTX cũng chính là nơi họ thể hiện những yêu cầu, nguyện vọng của mình đối với Nhà nước. HTX là nơi họ có thể tìm đến trong những lúc khó khăn trong sản xuất và đời sống. Vì vậy, kinh tế HTX không thể thiếu trong nền kinh tế, đặc biệt là trong nông nghiệp nông thôn. 1.1.2.5 Các loại hình HTX HTX dựa trên nguyên tắc dân chủ, đảm bảo cho người dân có được các hoạt động dân chủ. Cơ chế hoạt động phổ biến của nó là ngay cả các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đều có thể tổ chức các liên minh HTX trong các hoạt động kinh tế của mọi người bao gồm sản xuất và sinh hoạt. Do vậy, có thể thấy được nhiều cơ chế và phương pháp điều hành. Ở các nước, việc phân loại HTX có thể dựa vào người sáng lập: HTX của người sản xuất, HTX của người tiêu dùng; Dựa vào công việc của HTX: HTX sản xuất, HTX lưu thông; Dựa vào việc cho vay vốn: HTX đầu tư, HTX phi đầu tư; hay có thể dựa vào phạm vi trách nhiệm của xã viên. Trong điều kiện hiện nay của nước ta, để phân loại HTX chúng ta thường căn cứ vào: Chức năng hoạt động, tính chất, trình độ xã hội, quy mô và đặc điểm hình thành HTX. Ở nước ta có các loại hình HTX sau: a. HTX dịch vụ: Bao gồm 3 loại: - HTX dịch vụ từng khâu (còn gọi là HTX chuyên khâu): Hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu công việc trong quá trình sản xuất và phạm vi cho sản xuất, bao gồm HTX đầu vào (thủy lợi, làm đất, vật tư phân bón…); HTX dịch vụ đầu ra, HTX tín dụng… - HTX dịch vụ tổng hợp đa chức năng: có nội dung hoạt động đa dạng, gồm khâu dịch vụ cho sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu… Sinh viên: Đặng Thị Hằng 13 Khóa luận tốt nghiệp - HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX “chuyên ngành”: HTX loại này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất kinh doanh – dịch vụ một loại hàng hóa tập trung hoặc cùng làm nghề giống nhau. b. HTX sản xuất kết hợp dịch vụ. Nội dung hoạt động chủ yếu là dịch vụ và kết hợp. Phù hợp trong các ngành tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, nghề đánh cá, làm muối. c. HTX sản xuất kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện. Cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế độ hạch toán, kiểm kê, kiểm soát, phân phối theo nguyên tắc của HTX kiểu mới và tương tự một doanh nghiệp tập thể. HTX hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận nhằm phát triển kinh tế HTX, đem lại lợi ích cho xã viên. Nội dung hoạt động mang tính hợp tác một cách toàn diện, thích hợp trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, nuôi trồng thủy sản, nghề làm muối và đánh cá. 1.1.2.6 Bản chất HTX kiểu mới theo luật HTX Ở Việt Nam, các loại hình HTX đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng và phát triển. Để đáp ứng quan hệ kinh tế hợp tác mới, tạo điều kiện cho HTX phát triển, Quốc hội đã ban hành Luật HTX năm 1996. Luật HTX được Quốc hội khóa IX kỳ họp lần thứ 9 thông qua ngày 20/3/1996 và có hiệu lực ngày 1/1/1997. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện, Luật đã có nhiều điểm không còn phù hợp với tình hình cơ chế mới. Do vậy, Luật đã được sửa đổi và đến năm 2003 được thông qua trước quốc hội khóa XI kỳ họp lần thứ 4 (Luật gồm 10 chương với 52 điều), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004, thay cho luật năm 1996. Bản chất của luật có thể được tóm lược như sau: ** Đặc điểm cơ bản của HTX kiểu mới a. Đặc điểm chung HTX kiểu mới là một tổ chức kinh tế tự chủ của những người lao động có cùng nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh – dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói chung và của mỗi một thành Sinh viên: Đặng Thị Hằng 14 Khóa luận tốt nghiệp viên tham gia HTX. Người vào HTX đóng góp vốn như nhau, hưởng lợi ích như nhau, có quyền quyết định bình đẳng theo những nguyên tắc cơ bản đã được thừa nhận. HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật. b. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX - Tự nguyện: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật này, tán thành Điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX, xã viên có quyền ra HTX theo quy định của Điều lệ HTX. - Dân chủ, bình đẳng và công khai: xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong điều lệ HTX. - Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuấ kinh doanh, tự quyết về phân phối thu nhập. - Hợp tác và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể. c. Điều kiện trở thành xã viên - Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, có hành vi dân sự đầy đủ, có góp vốn, góp sức, tán thành Điều lệ HTX, tự nguyện xin gia nhập HTX có thể trở thành xã viên. Cán bộ, công chức được tham gia HTX với tư cách là xã viên theo quy định của Điều lệ HTX nhưng không được trực tiếp điều hành và quản lý HTX. - Hộ gia đình, pháp nhân có thể trở thành xã viên theo quy định của Điều lệ HTX. Khi tham gia HTX, hộ gia đình, pháp nhân phải cử người đại diện có đủ điều kiện như đối với cá nhân tham gia. - Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có thể là xã viên của nhiều HTX trong trường hợp điều lệ HTX không cấm. d. Nghĩa vụ của xã viên - Chấp hành điều lệ, nội quy HTX, các Nghị quyết của Đại hội xã viên. Sinh viên: Đặng Thị Hằng 15 Khóa luận tốt nghiệp - Góp vốn theo quy định của điều lệ HTX, mức vốn góp không vượt quá 30% vốn điều lệ HTX. - Thực hiện các cam kết kinh tế với HTX. - Trong phạm vi vốn góp của mình, cùng chịu trách niệm về các khoản nợ, rủi ro, thiệt hại, các khoản lỗ của HTX. - Bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho HTX theo quy định của điều lệ HTX. e. Điều lệ thành lập HTX - Hộ nông dân phải thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ, được pháp luật thừa nhận. - Có môi trường pháp lí thuận lợi, đầy đủ cho việc ra đời HTX. - Hộ nông dân có nhu cầu tự nguyện tham gia HTX, được học tập, được cung cấp thông tin, có hiểu biết về luật HTX, điều lệ mẫu, nhiệt tình gánh vác công việc chung của HTX. Điều kiện đủ để thành lập HTX: - Nền sản xuất nông nghiệp trên địa bàn đã hội đủ các yếu tố của nền nông nghiệp hàng hóa. Các yếu tố sản xuất đều là hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường. - Lãnh đạo cấp ủy Đảng, chính quyền quán triệt, nắm vững về luật HTX, tạo môi trường hỗ trợ, giúp đỡ các HTX ra đời đúng luật. - Có những hộ nông dân có năng lực kinh doanh, am hiểu luật HTX, sẵn lòng tham gia ban sáng lập để gánh vác công việc chung của HTX. - Khi thành lập HTX phải có sáng lập viên là cá nhân, hộ gia đình hoặc pháp nhân khởi xướng việc thành lập HTX và tham gia HTX. - Sáng lập viên báo cáo bằng văn bản với UBND xã, phường, thị trấn nơi dự định đặt trụ sở chính của HTX về việc thành lập, địa điểm đóng trụ sở, phương hướng sản xuất kinh doanh và kế hoạch hoạt động HTX. - Sáng lập viên tiến hành tuyên truyền, vận động các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân khác có cùng nhu cầu tham gia HTX, xây dựng phương hướng sản xuất kinh doanh, dự thảo điều lệ HTX và xúc tiến các công việc cần thiết khác để tổ chức Hội nghị thành lập HTX. f. Điều kiện cấp giấy chứng nhận kinh doanh - Có hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ. Sinh viên: Đặng Thị Hằng 16 Khóa luận tốt nghiệp - Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. - Tên, biểu tượng (nếu có) phải được đăng kí tại cơ quan có thẩm quyền và được bảo hộ theo quy định của pháp luật. - Có vốn điều lệ, đối với HTX kinh doanh ngành, nghề mà chính phủ quy định có vốn pháp định thì vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định. g. Phát triển HTX Quá trình thành lập và phát triển HTX có thể khái quát qua các giai đoạn theo sơ đồ sau: Sinh viên: Đặng Thị Hằng 17 Khóa luận tốt nghiệp Chuẩn bị thành lập HTX (Sáng lập viên, soạn thảo các tài liệu…….) Thành lập HTX theo Luật (Đại hội xã viên, bầu BQT, đăng ký kinh doanh…… HTX là một đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân. Phát triển HTX Hộ xã viên, xã viên là những chủ thể sản xuất độc lập, vừa là chủ vừa là khách của HTX trong sử dụng các dịch vụ Hoàn thiện tổ chức, phát triển nguồn nhân lực. Đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh Phát triển các quan hệ - Hoàn thiện cơ cấu tổ chức. - Đào tạo cán bộ và thành viên HTX. - Phát triển các thành viên hợp tác xã. - Nâng cao trách nhiệm của hệ thống tổ chức. - Phát triển dịch vụ phục vụ kinh tế hộ. - Marketting. - Tìm phương án sản xuất mới. - Đa dạng hoá các hoạt động kinh tế trong HTX. - Liên kết với các hợp tác xã khác. - Phát triển cộng đồng. - Tăng cường quan hệ giữa chính quyền, các tổ chức xã hội với HTX. - Lành mạnh hoá các quan hệ trong nội bộ HTX. Sơ đồ 1: Quá trình thành lập và phát triển HTX Sinh viên: Đặng Thị Hằng 18 Khóa luận tốt nghiệp h. Giải thể, phá sản HTX: * Trường hợp giải thể tự nguyện: - Khi đề nghị theo Nghị quyết của Đại hội xã viên, HTX phải gửi đơn xin giải thể và Nghị quyết Đại hội xã viên đến UBND đã cấp giấy chứng nhận kinh doanh cho HTX, đồng thời đăng báo địa phương nơi HTX hoạt động trong 3 số liên tiếp về việc xin giải thể, thời hạn thanh toán nợ, thanh toán các hợp đồng. - Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn thanh toán nợ và thanh lí hợp đồng, UBND nhận đơn phải ra thông báo về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận về xin giải thể. - Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo chấp thuận cho giải thể, HTX phải thanh toán các chi phí cho việc giải thể, trả vốn góp và chi trả các khoản theo điều lệ HTX cho xã viên. * Trường hợp giải thể bắt buộc: UBND cấp giấy chứng nhận kinh doanh có quyền quyết định buộc phải giải thể đối với HTX khi có một trong các trường hợp sau: - Sau thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà HTX không tiến hành hoạt động. - HTX ngừng hoạt động trong 12 tháng liền. - Trong thời hạn 6 tháng liền, HTX không đủ số lượng xã viên tối thiểu theo quy định của điều lệ mẫu. - Trong thời hạn 18 tháng liền, HTX không tổ chức được Đại hội xã viên thường kì mà không có lí do chính đáng. * Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật - Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với HTX được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản. 1.1.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu Để nghiên cứu làm rõ kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTXDVNN Mỹ Lộc Hạ thì tôi đã sử dụng các chỉ tiêu sau:  Quy mô xã viên.  Quy mô về nguồn vốn kinh doanh. Sinh viên: Đặng Thị Hằng 19 Khóa luận tốt nghiệp  Mức độ đảm nhận các khâu dịch vụ.  Cơ cấu đội ngũ và trình độ chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý.  Doanh thu (DT).  Lợi nhuận của từng khâu dịch vụ và của toàn HTX (LN). LN = DT - CP.  Xác định tổng lợi nhuận: LN = LNKD + LNTC + LNK Trong đó: LNKD: Lợi nhuận kinh doanh. LNTC: Lợi nhuận tài chính. LNK: Lợi nhuận khác. - Một số chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận như tỉ số lợi nhuận với vốn kinh doanh , doanh thu, chi phí, giữa vốn cố định, vốn lưu động, số khâu dịch vụ. Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh phản ánh một đồng vốn bỏ ra trong kỳ hoạt động kinh doanh dịch vụ thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. TP/V = Ps Vkd Trong đó: - TP/V: Tỷ suất vốn kinh doanh. - Ps: Lợi nhuận. - Vkd: Vốn kinh doanh. Hoạt động kinh doanh dịch vụ của HTXNN chúng ta cần phải nắm rõ các chỉ tiêu phân tích hiệu quả, để vận dụng vào đánh giá hiệu quả của quá trình hoạt động kinh doanh của HTXNN từ đó chúng ta có thể đưa ra những phương án sản xuất kinh doanh nhằm tổi thiểu hóa chi phí, mang lại hiệu quả cao, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho đơn vị. 1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1 Tình hình phát triển các HTXNN ở một số nƣớc trên thế giới HTX ra đời ở châu Âu cách đây gần 2 thế kỷ và từ đó đã phát triển hầu khắp thế giới. HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, vì lợi ích của xã viên và cộng đồng dựa trên các giá trị tương trợ lẫn nhau, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công bằng và đoàn kết, xã viên tin tưởng vào giá trị đạo đức, trung thực, cởi mở, có trách nhiệm xã hội và quan tâm đến người khác. Bởi những lý do đó mà HTX đáp ứng Sinh viên: Đặng Thị Hằng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan