TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở TỈNH
BẾN TRE HIỆN NAY
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204
Giáo viên hướng dẫn:
ThS.GVC:Trần Thị Tuyết Hà
Sinh viên thực hiện:
Võ Thị Thanh Lan
MSSV : 6064656
Cần Thơ, Tháng 10/2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
NỘI DUNG
3
Chương I
TÌNH HÌNH HIV/AIDS VÀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG
HIV/AIDS Ở TỈNH BẾN TRE
1.1. HIV/AIDS và đặc điểm tình hình HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre
4
4
1.2. Thực trạng công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Bến Tre trong
thời gian vừa qua.
23
Chương II
NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẲM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS Ở
BẾN TRE HIỆN NAY
41
2.1. Những phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống
HIV/AIDS ở Bến Tre hiện nay
41
2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống
HIV/AIDS ở Bến Tre hiện nay
51
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
71
74
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu của 20 năm đổi mới, hội nghị lần
thứ 11 Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX đã đề ra
mục tiêu phát triển trong 15 năm tới của xã hội Việt Nam: “Đẩy mạnh đổi mới
toàn diện và đồng bộ, phấn đấu đạt bằng được mục tiêu đến năm 2010, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại ”.
Định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đồng nghĩa với phát triển kinh
tế và xã hội.Song song với sự phát triển kinh tế - xã hội thì tệ nạn xã hội không
ngừng gia tăng và một trong những hậu quả của tệ nạn xã hội là HIV/AIDS.
Đây là một trong những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển
của từng cá nhân và toàn xã hội. Vì vậy, phòng, chống HIV/AIDS là một bộ
phận không thể tách rời của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
chiến lược chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân nói riêng. Đây chính là nhiệm
vụ vừa cấp bách vừa lâu dài.
Cùng với chiến lược phòng, chống HIV/AIDS của cả nước. Bến Tre đã
và đang nâng cao hơn nữa hiệu quả phòng, chống HIV/AIDS, lấy dự phòng là
chính, trong đó, thông tin giáo dục truyền thông là then chốt. Bên cạnh đó, từng
bước tăng cường công tác chăm sóc và điều trị HIV/AIDS, đặc biệt là nhấn
mạnh vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan, tổ chức xã hội trong
chỉ đạo, điều hành các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
Thời gian qua, được sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo về công tác phòng, chống HIV/AIDS, qua đó các cấp,
các ngành, và nhân dân trong tỉnh đã quan tâm hơn trong việc thực hiện công
tác phòng, chống HIV/AIDS. Từ đó đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong
nhận thức về HIV/AIDS của nhân dân, ngày càng được nâng cao, ý thức chấp
hành các qui định pháp luật về công tác phòng, chống HIV/AIDS trong các lĩnh
vực đời sống xã hội được thể hiện rõ nét. Nhiều vấn đề về tệ nạn xã hội bức xúc
xảy ra tại các khu vực dân cư, nơi công cộng được kịp thời giải quyết, một số
mô hình về công tác phòng, chống, giảm tác hại của HIV/AIDS được thực hiện
như: câu lạc bộ phòng, chống AIDS, Câu lạc bộ Bạn và Tôi, trung tâm tư vấn
cho người nhiễm HIV/AIDS…..được hình thành và duy trì phát triển. Tuy
nhiên, công tác phòng, chống HIV/AIDS vẫn còn nhiều bất cập, việc chữa trị
cho người bệnh còn gặp nhiều khó khăn, công tác tuyên truyền vận động ở một
số địa phương có làm nhưng chưa linh hoạt, hiệu quả chưa cao, thái độ kì thị, xa
lánh đối với người nhiễm HIV/AIDS vẫn còn xảy ra…
Do vậy, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Bến Tre,
góp phần đưa những người bị nhiễm hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng, hạn
chế những tâm lý tiêu cực như: mặc cảm, tự ti của người nhiễm HIV/AIDS; xây
dựng niềm tin vào cuộc sống của người dân là vấn đề bức xúc hiện nay.
Với mong muốn có thể góp được chút ít hiểu biết còn hạn chế của mình
vào công tác phòng, chống HIV/AIDS của địa phương, tôi đã chọn đề tài:
“Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre hiện nay
– Thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đánh giá đúng thực trạng công tác phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Bến
Tre. Từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả công tác phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện
nay.
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là: Làm rõ đặc điểm tình hình người bị nhiễm HIV/AIDS ở Bến Tre.
Phân tích thực trạng công tác phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre .
Hai là: Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả công tác phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu công tác phòng,
chống HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre.
Phạm vi nghiên cứu đề tài là công tác phòng, chống HIV/AIDS ở tỉnh
Bến Tre từ năm 2000 cho đến nay.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lí luận: đề tài dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác phòng,
chống HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp logic và lịch sử
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp thống kê và khảo sát thực tế.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
2 chương và 4 tiết.
NỘI DUNG
Chương I
TÌNH HÌNH HIV/AIDS VÀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG
HIV/AIDS Ở TỈNH BẾN TRE
1.1.
HIV/AIDS và đặc điểm tình hình HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre
1.1.1.Vài nét về đặc điểm có liên quan đến tình hình HIV/AIDS ở tỉnh
Bến Tre
Bến Tre là một trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự
nhiên là: 2.315 km2, được hình thành bởi cù lao An Hoá, cù lao Bảo, cù lao
Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ mà thành (gồm sông Tiền
dài 83 km, sông Ba Lai 59 km, sông Hàm Luông 71 km, sông Cổ Chiên 82 km).
Điểm cực bắc của Bến Tre nằm trên vĩ độ 9048' bắc, điểm cực nam nằm trên vĩ
độ 10020' bắc, điểm cực đông nằm trên kinh độ 106048' đông, điểm cực tây
nằm trên kinh độ 105057' đông. Dân số là 1.369.358 người trong đó nữ khoãng
643698 người chiếm (48%).[27]
Địa hình của Bến Tre bằng phẳng, rải rác những giồng cát xen kẽ với
ruộng vườn, không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi và những dải rừng
ngập mặn ở ven biển và các cửa sông. Nhìn từ trên cao xuống, Bến Tre có hình
giẻ quạt, đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn như hình nan quạt
xòe rộng ở phía đông. Phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông
Tiền, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long, có ranh giới
chung là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông, với chiều dài bờ biển là 65
km. Những con sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông chính (cửa Đại,
cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên), ngược về phía thượng nguồn đến
tận Campuchia; cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt khoảng 6.000 km đan vào
nhau chở nặng phù sa chảy khắp ba dải cù lao là một lợi thế của Bến Tre trong
phát triển giao thông thủy, hệ thống thủy lợi, phát triển kinh tế biển, kinh tế
vườn, trao đổi hàng hoá với các tỉnh lân cận.
Kinh tế - xã hội
Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, tiếp giáp với
biển Đông, có bờ biển dài 65 km. Phía bắc giáp Tiền Giang, phía tây và tây nam
giáp Vĩnh Long, phía nam giáp Trà Vinh. Thành phố Bến Tre cách Thành phố
Hồ Chí Minh 85 km. Bến Tre có 9 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: Thành
phố Bến Tre (Chính thức được gọi là thành phố Bến Tre kể từ ngày 02/09/2009
theo Nghị quyết số 34/NQ-CP), Huyện Ba Tri, Huyện Bình Đại, Huyện Châu
Thành, Huyện Chợ Lách, Huyện Giồng Trôm, Huyện Mỏ Cày Bắc, Huyện Mỏ
Cày Nam, Huyện Thạnh Phú. Với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Bến Tre thời kỳ 2000 -2020 phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội Vùng đồng bằng sông Cửu Long và chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội chung của cả nước; bảo đảm mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
giải quyết cấp tốc các vấn đề xã hội, đặt biệt là xóa đói, giảm nghèo; giữa phát
triển sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; giữa phát triển kinh tế
và bảo đảm an ninh quốc phòng; giữa phát triển bền vững và bảo đảm môi
trường.
Hơn 30 năm sau ngày giải phóng, qua tám kỳ đại hội Đảng bộ, với tinh
thần “Đồng khởi mới”, trên tất cả các lĩnh vực Đảng, quân, dân Bến Tre đã
giành nhiều thành tựu quan trọng, mang tính đột phá, tạo đà và mở đường cho
bước tăng tốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương.
Riêng năm 2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 10,08%, năm 2005 là
11,24%. Bình quân tốc độ tăng trưởng trong 5 năm (2001-2005) đạt 9,22%, cao
nhất từ trước đến nay (1996-2000 là 6,18%). Tăng thu nhập bình quân đầu
người từ 4,5 triệu đồng (2001) lên 7,4 triệu đồng (2005). Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch khá nhanh theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần
tỷ trọng nông nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 314 triệu USD. Tăng vốn
đầu tư toàn xã hội đạt 14.767 tỷ đồng, vuợt 47,4% so mục tiêu.[27]
Trên đà phát triển nhanh và những thành tựu đã đạt được trong thời gian
qua, Bến Tre đã chủ động hội nhập với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông
Cửu Long và các tỉnh thành của Việt Nam; tiếp tục có những chính sách kêu gọi
đầu tư hấp dẫn về các lĩnh vực như: thủy sản, công nghiệp, nông nghiệp, giao
thông, du lịch và đặc biệt là các dự án chế biến thủy sản, trái cây, các sản phẩm
từ dừa, cầu đường, khu công nghiệp, du lịch … .đời sống của người dân tăng
lên một cách rất rõ rệt. Đây là cơ sở và tiền đề để Bến Tre tạo ra những bước
phát triển vững chắc trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế trong thời gian
tới. Tuy nhiên từ sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đa dạng, nhiều công
trình xây dựng phục vụ yêu cầu phát triển của tỉnh đã được triển khai thực hiện
các vũ trường, nhà nghỉ, khách sạn, nhà trọ mọc lên để đáp ứng yêu cầu. Từ đó
tình hình xã hội ở tỉnh Bến Tre càng phức tạp, trong đó, đã xảy ra nhiều tệ nạn
xã hội như: mại dâm, tổ chức sử dụng và tiêm chích ma túy...và hậu quả đáng
lưu ý là số người bị nhiễm HIV/AIDS ngày càng gia tăng.
Văn hóa
Bến Tre - xứ sở của những đảo dừa, quê hương của những người con trung
dũng kiên cường không chỉ làm nên chiến công oai hùng trong chiến tranh mà
còn đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ đất nước đổi mới. Tuy nhiên hiện
nay dưới sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường đã làm cho nhận thức
của người dân phần nhiều bị ảnh hưởng. Khi tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm
đã có mặt ở hầu hết các địa bàn, các khu dân cư và một số nơi tệ nạn đã tràn
vào trường học. Bên cạnh đó với trình độ nhận thức về các tệ nạn xã hội vẫn
còn nhiều hạn chế đặc biệt là một số huyện, xã vùng sâu, vùng xa thì nhận thức
của người dân ngày càng yếu kém. Các thế lực thù địch ra sức chóng phá cách
mạng nước ta trên nhiều phương diện, góc độ khác nhau trong đời sống xã hội,
chúng tăng cường du nhập lối sống ngoại lai, tôn thờ lối sống tự do cô Chính
Phủ, vô kỉ luật, kích động những dục vọng thấp hèn, những ham muốn lệch lạc
của một số người…Những năm gần đây, các loại văn hóa phẩm đồi trụy kích
động bạo lực, mại dâm, lối sống thực dụng, buông thả…đang bằng mọi phương
thức, hình thức xâm nhập vào nước ta nói chung và điều này cũng làm ảnh
hưởng tương đối lớn đối với người dân tỉnh Bến Tre nói riêng. Đây cũng là một
trở ngại lớn vì chính ma túy và mại dâm chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
sự lây nhiễm HIV/AIDS.
1.1.2. HIV/AIDS và đặc điểm tình hình HIV/AIDS ở tỉnh Bến Tre
Sơ lược về HIV/AIDS ?
HIV/AIDS thường được viết chung và xem như là một chữ có cùng một nghĩa,
tuy nhiên HIV và AIDS có hai nghĩa khác nhau.
HIV/AIDS là gì?
HIV là chữ viết tắt của Human Immunodeficiency Virus, tạm dịch là Siêuvi Suy Thoái Miễn Nhiễm Ở Người, đây là loại siêu-vi khuẩn gây ra tình trạng
liệt kháng trong cơ thể và có thể dẫn đến bệnh AIDS. Nếu bạn bị nhiễm siêu-vi
HIV, kết quả xét nghiệm HIV của bạn sẽ là dương tính (HIV positive). Nghĩa là
siêu-vi HIV đã xâm nhập vào máu của bạn. Hiện nay chưa có cách chữa trị
HIV, và siêu-vi khuẩn này sẽ luôn luôn tồn tại và sinh trưởng trong máu của
bạn. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là nhiều người sau khi bị nhiễm HIV
vẫn cảm thấy khoẻ mạnh, diện mạo vẫn bình thường.
AIDS là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Acquired Immuno Deficiency
Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải). Trước đây, bệnh được
gọi là SIDA (viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome d'Immuno Deficience
Acquise), nhưng do tên này trùng với tên của Tổ chức phát triển quốc tế
Thụy Điển SIDA và tên của Tổ chức CIDA (Canađa) cũng gọi là "Si đa" nên
thống nhất gọi là AIDS để tránh nhầm lẫn và phù hợp với tên quốc tế. AIDS
là một bệnh mãn tính do HIV gây ra. HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn
dịch, khiến cơ thể không còn khả năng chống lại các virus, vi khuẩn và nấm
gây bệnh. Do đó bệnh nhân dễ bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội
mà bình thường có thể đề kháng được. Bản thân virus và nhiễm trùng được
gọi là HIV. Thuật ngữ AIDS được dùng để chỉ giai đoạn muộn hơn của bệnh.
Như vậy, thuật ngữ nhiễm HIV/AIDS được dùng để chỉ những giai đoạn
khác nhau của cùng một bệnh.[ 28 ]
Có thể hiểu HIV giống như một con bạch tuộc khổng lồ, lặng lẽ vươn
hàng nghìn chân rết của nó tới mọi ngóc ngách trong xã hội, lan tới khắp các
tầng lớp nhân dân. Những con số vài nghìn người nhiễm mà bạn đọc trên
báo, nghe trên vô tuyến truyền hình chỉ là con số thu được từ xét nghiệm, mà
những người xét nghiệm ở nước ta còn rất ít.
Có thể ta chưa thấy rõ sự tàn phá của căn bệnh này, nhưng chỉ vài năm
hay chục năm nữa, mấy chục nghìn người nhiễm HIV hôm nay sẽ phát bệnh
AIDS và rời bỏ cuộc đời, và nếu mọi người không có ý thức bảo vệ mình thì
sẽ có thêm bao người khác nữa nhiễm virus này. Đây sẽ không chỉ là nỗi khổ
của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mà sẽ là nỗi đau của cả dân tộc. Mặc dù chỉ
mới xuất hiện cách đây hơn 25 năm, nhưng nhiễm HIV/AIDS đã trở nên một
dịch bệnh có tính cách quốc tế. Ngày 5 tháng 6 năm 1981, ca đầu tiên về
bệnh suy miễn dịch bất bình thường có thể gây tử vong được phát hiện ở một
người nam đồng tính luyến ái và người nghiện dùng chung kim chích tại
California, Hoa Kỳ. Từ năm 1982, nhiều nước lần lược tuyên bố những căn
bệnh tương tự, thấy cả trên những bệnh nhân ưa chảy máu phải truyền máu
nhiều lần, những người tiêm chích ma túy, những người mẹ và những đứa
con họ đẻ ra…
Cũng từ năm 1982, dựa trên 100 trường hợp AIDS đầu tiên được thông
báo, trung tâm phòng, chống bệnh tật ở Mĩ đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về
các tiêu chuẩn lâm sàng chẩn đoán một trường hợp AIDS khi chưa có
phương pháp xét nghiệm tìm căn nguyên. Sưu tầm các hồ sơ bệnh án lưu trữ
tại bệnh viện Portau Prince, thủ đô của Haiti năm 1978, thấy có một số bệnh
nhân gốc Zaia đã chết trong một cảnh giống như bệnh cảnh của AIDS ngày
nay. Như vậy, AIDS có thể đã có từ lâu hơn nữa trước những năm 1970.
Ở nước ta, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào cuối năm
1990, song có xu hướng tăng nhanh. Tính đến 31.5.1998 số người bị nhiễm
HIV ở nước ta là 8.708; 1206 bệnh nhân bị AIDS, trong đó 644 người đã
chết chứng tỏ AIDS đã xâm nhập vào Việt Nam từ cuối thập kỉ 80. Tuy
nhiên mỗi năm có thêm khoảng 1000 nười bị nhiễm HIV, như vậy Việt Nam
vẫn ở cuối giai đoạn I, đầu giai đoạn II của đại dịch, là thời điểm phòng,
chống còn hữu hiệu [3, Tr 12]
Các đường lây nhiễm
Điều đáng sợ của AIDS là người đã nhiễm HIV nhìn bề ngoài có thể vẫn
rất lành lặn, bình thường nhưng đã có thể lây bệnh cho người khác một cách
âm thầm khó nhận biết.
Khi cơ thể người bị nhiễm HIV thì HIV có nhiều trong máu ( từ 1.000 –
10.000 virut/ml máu), kế đến là trong tinh dịch, dịch tiết âm đạo. Sữa mẹ của
phụ nữ nhiễm HIV/AIDS có số lượng thấp hơn. Ngoài ra cũng tìm thấy HIV
trong các dịch khác của cơ thể : nước bọt, nước mắt…nhưng với số lượng rất
ít, không đủ để lây nhiễm.
HIV chủ yếu lây nhiễm qua 3 đường:
Lây nhiễm qua đường tình dục : Là đường lây chủ yếu của AIDS, chiếm
khoảng 70 – 80% trường hợp nhiễm HIV. Quan hệ tình dục đồng giới hay
khác giới đều có khả năng lây nhiễm HIV, nếu một trong hai người đã
nhiễm HIV. Giao hợp qua đường hậu môn, âm đạo, mồm với người nhiễm
HIV đều là những con đường lây nhiễm HIV từ người nhiễm qua người
khác bởi vì trong khi giao hơp sẽ tạo ra rất nhiều vết xước nhỏ mà mắt
thường không nhìn thấy được. HIV có rất nhiều trong tinh dịch và dịch tiết
âm đạo sẽ thông qua các vết xước này để xâm nhập vào cơ thể. Trong
quan hệ tình dục ai là người nhận tinh dịch thì người đó dễ bị nhiễm HIV
hơn...
Lây nhiễm qua đường máu : Đó là con đường nguy hiểm nhất, xác suất lây
nhiễm cao nhất, tiến triển nhanh nhất vì HIV trực tiếp nhiễm vào máu, tấn
công thẳng vào bạch cầu lympho T không vấp phải hàng rào đại thực bào
như trong trường hợp nhiễm trùng qua đường tình dục.
Truyền máu hoặc truyền những phế phẩm của máu ( huyết tương
khô…) thụ tinh nhân tạo, ghép tổ chức hay cơ quan( ví dụ: ghép thận…)
của người bị nhiễm HIV cũng làm lây nhiễm AIDS. Người ta ước tính 5 10% người nhiễm HIV ở những vùng có tỉ lệ nhiễm cao là do truyền máu
bị nhiễm.
Dùng nhiều lần những trang thiết bị truyền máu như chai đựng
máu, ống dẫn và kim lấy máu hoặc dùng chung những kim tiêm,
những dụng cụ rạch chích da ở những người tiêm chích ma túy, xâm
da, châm cứu…mà không được khử khuẩn kĩ lưỡng cũng dễ bị
nhiễm HIV/AIDS.
Một số nghề nghiệp phục vụ số đông đối tượng và phải sử dụng
những dụng cụ sắc nhọn như nghề cắt tóc, nha sĩ, kĩ thuật viên
thường phải tiếp xúc với máu hoặc những chất dịch của bệnh
nhân…nếu bị rách xước da trong lúc hành nghề cũng dễ bị nhiễm
HIV/AIDS.
Lây nhiễm từ mẹ sang con (qua giai đoạn chu sinh) : Lây nhiễm từ mẹ
sang con là phương thức lây truyền chủ yếu ở trẻ em. Nhiều nghiên cứu về
dịch tể học cho biết phụ nữ có thai và cho con bú bị nhiễm HIV/AIDS có
khoảng 30% truyền HIV sang con và khoảng 80% trẻ bị nhiễm HIV là do
lây nhiễm từ mẹ sang con xảy ra chủ yếu ở thời kì chu sinh : trước, trong
và thời gian ngắn sau khi sinh.
Nguy cơ lây nhiễm
Các thống kê cho thấy, nguy cơ lây nhiễm HIV qua một lần tiếp xúc cao
nhất là qua truyền máu, rồi đến mẹ truyền sang con, dùng chung kim tiêm,
quan hệ tình dục. Lây nhiễm qua tiếp xúc với các vật phẩm có chứa HIV
qua y tế rất thấp.
Tuy nhiên, nếu so sánh tỉ lệ phần trăm người nhiễm HIV qua từng
phương thức trong tổng số người nhiễm HIV lại thấy số người nhiễm HIV
lây qua đường tình dục, đặc biệt là tình dục khác giới chiếm tỉ lệ cao
Phương thức lây
Nguy cơ lây
Tỷ lệ % trên tổng
nhiễm
nhiễm qua một
số người nhiễm
lần tiếp xúc
HIV toàn cầu
Rất cao 90%
3- 5
- Mẹ truyền cho con
14 – 40
5 - 10
- Dùng chung kim bơm
0.5 – 1
5 – 10
0.1 – 1
70 -80
- Truyền máu
tiêm
- Tình dục
- Chăm sóc y tế
0.01
0.8
Các đường không lây nhiễm
Muỗi đốt
Khi đốt bạn, muỗi tiết vào cơ thể bạn một ít nước bọt. Nhưng vì HIV
không sinh sống trong cơ thể muỗi nên nước bọt này không chứa HIV, vì
vậy bạn không thể lây nhiễm HIV được. Vòi muỗi rất tinh tế, cho phép
muỗi lấy máu rất gọn gàng, không bao giờ máu của người bị đốt trước
dính vào người bị đốt sau. Muỗi hoàn toàn vô can trong sự lan nhiễm HIV.
Hôn
Hôn nhìn chung không làm lây nhiễm HIV, bởi HIV trong nước bọt vô
cùng ít, không truyền được. Chỉ khi hai người bị loét, xước trong miệng
hoặc chảy máu răng mà hôn sâu thì mới có khả năng lây do tiếp xúc máu.
Tiếp xúc thông thường
Tất cả các kiểu tiếp xúc thông thường như cùng ăn uống, mặc chung
quần áo, ôm ấp, bơi chung bể bơi, ở cùng nhà, ngủ chung giường (tất
nhiên là không quan hệ tình dục!), làm việc cùng cơ quan, dùng chung nhà
vệ sinh, cắt tóc… không làm cho ai bị nhiễm HIV.
Như vậy, khi tiếp xúc thông thường nếu có trực tiếp với HIV trong các
dịch thể như: nước mắt, nước mũi, nước tiểu, mồ hôi…đều có HIV nhưng
có số lượng HIV rất ít ( Dưới ngưỡng lây ). Dù cho da thịt người mạnh có
trầy xước ( có ngỏ vào) vẫn không lây. Bởi vì không hội đủ 2 điều kiện để
lây.
Tác hại của HIV/AIDS
Sau hai thập kỷ, loài người vẫn chưa thể ngăn chặn sự lan truyền của
bệnh do virus HIV. Tác hại của HIV - AIDS không chỉ đơn thuần là vấn đề
sức khỏe và tính mạng của bệnh nhân cùng gia đình họ mà còn là thiệt hại về
kinh tế cùng những vấn đề xã hội.
HIV/AIDS ảnh hưởng đến dân số
Đại dịch AIDS là một trong những khủng hoảng phá huỷ sức khoẻ ghê
gớm nhất trong thời kì hiện đại, tàn phá các gia đình và cộng đồng trên khắp thế
giới. Đến năm 2005, hơn 25 triệu người đã chết và khoảng 39 triệu người bị
nhiễm HIV. Ước tính, 4 triệu người mới bị nhiễm HIV vào năm 2005-trong đó
95% đang sống ở khu vực châu Phi cận Sahara, Đông Âu, hay châu Á. Trong
khi châu Phi cận Sahara bị ảnh hưởng nặng nề nhất, các khu vực khác cũng đối
mặt với đại dịch AIDS nghiêm trọng. Những năm gần đây, điều tra đại diện của
các quốc gia đã giúp các nhà nghiên cứu hạ thấp các ước tính đã công bố trước
đây về tỷ lệ nhiễm HIV ở một số nước. Nhưng số người nhiễm và những ảnh
hưởng tới gia đình, cộng đồng và đất nước họ vẫn còn gây sửng sốt. [ 29]
Những ảnh hưởng về mặt nhân khẩu học và sức khoẻ của HIV/AIDS
Những nước bị tác động mạnh của đại dịch AIDS đã chứng kiến sự tăng
nhanh về số lượng người chết và tuổi thọ giảm trong cuối thập kỷ qua. Nhưng
do những nước bị tác động nặng nề ở khu vực châu Phi cận Sahara đồng thời
cũng là nước có mức sinh cao (số con trung bình của một phụ nữ) và có qui mô
dân số tương đối nhỏ nên đại dịch không làm giảm dân số của khu vực này. Ở
một số nước như Bốt-soa-na, Lê-sô-tô, và Nam Phi, tốc độ tăng trưởng dân số
đã giảm mạnh hoặc thậm chí không tăng do AIDS, nhưng tốc độ tăng trưởng
dân số nói chung trong khu vực vượt quá so với các khu vực khác trên thế giới.
Thậm chí, cho dù có tử vong do AIDS, dự báo dân số của khu vực châu Phi cận
Sahara vẫn tăng từ 767 triệu năm 2006 lên 1,7 tỷ năm 2050. [29]
Tuy nhiên, AIDS đã tàn phá nặng nề đến mọi xã hội. AIDS đứng thứ tư
trong những nguyên nhân của tử vong trên thế giới và là nguyên nhân số một ở
châu Phi cận Sahara. Năm 2005, UNAIDS ước tính trên thế giới có khoảng 3,1
triệu người lớn và trẻ em chết do AIDS trong đó có 2,4 triệu người ở châu Phi
cận Sahara. [29]
Ảnh hưởng đến tử vong và tuổi thọ
Những người đang sống chung với HIV và AIDS có khả năng mắc các
loại bệnh và các loại truyền nhiễm khác bởi hệ thống miễn dịch bị suy giảm và
kết quả là đại dịch AIDS đã làm tăng thêm bệnh viêm phổi và lao ở rất nhiều
nơi trên thế giới.
Ở châu Phi cận Sahara, tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi thường cao
hơn nhiều so với trường hợp nếu như không mắc HIV (xem số liệu). Thiếu
thuốc để kéo dài thời gian sống, 1/3 số trẻ sinh ra bị nhiễm HIV (bị nhiễm từ
mẹ) chết trước khi tròn một tuổi, và khoảng 60% chết trước 5 tuổi. [29]
Sự gia tăng tử vong do AIDS cũng làm ngừng hoặc làm đảo lộn những
kết quả đạt được về tuổi thọ trung bình ở nhiều nước ở châu Phi. Ví dụ, ở Lêsô-tô, năm 2005, ước tính có 1/4 người lớn đang sống chung với HIV/AIDS,
tuổi thọ trung bình là 60 năm từ 1990-1995, nhưng con số này đã giảm mạnh
xuống 34 năm vào giai đoạn 2005-2010, chủ yếu là do tử vong liên quan đến
AIDS. Liên hợp quốc dự báo tuổi thọ bình quân ở Lê-sô-tô có thể tăng đến 69
năm trong giai đoạn 2015-2020 nếu không bị tử vong quá mức do AIDS. Các
nước ngoài châu Phi bao gồm Ba-ha-ma, Căm-pu-chia, Cộng hoà Đô-mi-ni-ca,
Ha-i-ti và Mi-an-ma, tuổi thọ bình quân triển vọng sẽ giảm. [29]
Ảnh hưởng đối với cấu trúc tuổi và giới tính
Tử vong liên quan đến AIDS đang làm thay đổi cấu trúc tuổi của dân số ở
những nước bị ảnh hưởng nặng nề. Ở những nước đang phát triển có tỷ lệ
nhiễm HIV và AIDS thấp, hầu hết các trường hợp tử vong là ở những người rất
trẻ hoặc rất già. Nhưng AIDS tấn công chủ yếu vào người lớn ở độ tuổi lao
động những người bị nhiễm thường là vị thành niên và thanh niên làm thay đổi
tỷ lệ tử vong thông thường và làm thay đổi cấu trúc tuổi ở một số nước. ở Nam
Phi chẳng hạn, do tỷ lệ tử vong do AIDS ngày càng tăng cao, số người ở độ tuổi
20-49 chiếm tới 3/5 tổng số người tử vong ở khu vực này trong giai đoạn 20002005, trong khi đó tỷ lệ này chỉ chiếm 1/5 trong giai đoạn 1985-1990. [29]
Vì số người chết do nhiễm AIDS tập trung ở nhóm tuổi 25-45, những
cộng đồng có tỷ lệ nhiễm HIV cao sẽ mất cân đối về số cha mẹ và những công
nhân có kinh nghiệm và tạo ra những lổ hỗng rất khó bù đắp cho xã hội.
Ở một số khu vực, phụ nữ là những người dễ bị tổn thương hơn nam giới,
và cái chết của họ làm nhiều gia đình mất đi những người chăm sóc chính trong
gia đình. Ở châu Phi cận Sahara và Caribê, nơi vi-rút lan rộng chủ yếu qua quan
hệ tình dục khác giới, tỷ lệ nhiễm HIV của phụ nữ cao hơn ở nam giới.
Ảnh hưởng tới xã hội và nền kinh tế
Ở những nước bị đại dịch AIDS tác động mạnh, những mất mát lớn lao
và không đúng lúc của cha mẹ và những công dân có năng suất không chỉ ảnh
hưởng đến gia đình mà còn ảnh hưởng đến các trang trại, và những nơi làm
việc, trường học, hệ thống y tế và chính phủ. Đại dịch này đang ảnh hưởng đến
hầu hết mọi mặt của cuộc sống.
Hộ gia đình chịu ảnh hưởng trực tiếp của HIV/AIDS, bởi vì gia đình là
những người chăm sóc chính cho những người bị nhiễm AIDS và có những khó
khăn về tài chính liên quan đến AIDS. Trong suốt một thời gian dài đau ốm do
AIDS, sự mất mát về thu nhập và chi phí cho một thành viên gia đình đang hấp
hối có thể làm cho họ bị nghèo đi. Khi một người cha hoặc mẹ mất đi, hộ gia
đình có thể bị tan vỡ và con cái sẽ được gửi đi sống cùng với họ hàng hoặc tự
bảo vệ bản thân.
Hệ thống chăm sóc y tế cũng có những yêu cầu lớn do HIV/AIDS lan
rộng. Các hệ thống y tế ở châu Phi vốn dĩ yếu kém đã bị tê liệt trước sự tấn
công của đại dịch. Chi phí dành cho điều trị và các trường hợp nhiễm bệnh liên
quan đến AIDS đang tăng lên. Sự phân bổ nguồn lực hiếm hoi dành cho
HIV/AIDS có thể chuyển hướng chú ý tới những quan tâm khác về y tế và khi
ngân sách công dành cho chăm sóc sức khoẻ trở nên eo hẹp thì chi phí của khu
vực tư nhân, của các cá nhân và các hộ gia đình ngày càng tăng.
Doanh nghiệp và nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi
HIV/AIDS. Chủ lao động bị ảnh hưởng nặng nề do thiếu công nhân, thường
xuyên vắng mặt ở nơi làm việc, chi phí ngày càng tăng do việc chi trả quyền lợi
về chăm sóc y tế (bao gồm cả thuốc phòng chống AIDS rất đắt đỏ) và việc chi
trả cho quyền lợi của những người chết. Khả năng tồn tại về mặt kinh tế của các
trang trại nhỏ và nông nghiệp thương phẩm cũng bị ảnh hưởng bởi mất mát
những người lao động. Một nghiên cứu của Tổ chức nông lương thế giới (FAO)
cho thấy ở 10 nước châu Phi bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi HIV/AIDS, lực lượng
lao động nông nghiệp sẽ giảm xuống khoảng 10%-26% vào năm 2020. Một
nghiên cứu khác cho thấy ở các nước như Kê-ni-a, Ma-la-uy, Tan-da-ni-a và
Dăm-bi-a, sản xuất nông nghiệp tăng trưởng thấp có thể dẫn đến mất an ninh về
lương thực vào năm 2010.
Chính vì thế sự ổn định về kinh tế bị ảnh hưởng do các doanh nghiệp và
nông nghiệp sút kém. ở những nước bị ảnh hưởng mạnh bởi đại dịch, các
nghiên cứu cho thấy tổng sản phẩm quốc nội hàng năm giảm từ 1-2 điểm phần
trăm so với tình trạng giả định là “không có AIDS”. Nhưng tác động dài hạn có
thể nghiêm trọng hơn so với các phân tích trên. Thật khó có thể tính được
những tổn thất về vốn con người như giáo dục trẻ em, dinh dưỡng, và các thiệt
hại về mặt sức khoẻ trực tiếp và gián tiếp do AIDS. Những tác động của đầu tư
thấp hơn đối với thế hệ trẻ có thể ảnh hưởng đến thành tựu kinh tế trong hàng
thập kỉ.
Tóm lại, từ những ảnh hưởng trên sẽ tác động vô cùng to lớn đến văn
hóa, chính trị….
Đặc điểm tâm sinh lý, nhu cầu tâm lý – xã hội của người nhiễm
HIV/AIDS ở Bến Tre
Qua nghiên cứu có thể khái quát người bị nhiễm HIV/AIDS ở Bến Tre có
đặc điểm như sau:
Thứ nhất: Người bị nhiễm HIV/AIDS khi biết mình mắc bệnh đều rơi
vào tâm trạng khủng hoảng, hoang mang. Họ hầu như không muốn tiếp xúc
với ai, nhất là người lạ. Thậm chí, có người còn định tìm đến cái chết để kết
thúc cuộc đời mình.
Đây là rối loạn tâm thần hành vi cấp tính. Thường có các biểu hiện rối
loạn tâm thần và hành vi sau: Sốc tâm lý nặng nề dẫn đến những khủng hoảng
tâm lý cấp như hoảng sợ, lo âu kinh hoàng, cảm thấy như hụt xuống vực sâu,
trời đất xung quanh quay cuồng, người lạnh toát, vã mồ hôi, chân tay run rẩy,
miệng khô đắng, ngực như bị đè ép, người muốn xỉu đi, mọi tương lai hy vọng
bị sụp đổ hoàn toàn, cảm tưởng như bị “kết án tử hình”… Họ thường có hành vi
bỏ trốn hay thu mình tránh gặp người thân, bạn bè, họ lao vào dùng rượu, ma
túy để tự hủy hoại hay để quên đi, có người rơi vào trạng thái trầm cảm tuyệt
vọng hối hận, tự kết tội đã gây hậu quả cho bản thân và gia đình, phụ công ơn,
lòng mong mỏi của mọi người. Với những người độc thân trẻ tuổi thì đây là một
thảm họa, tương lai nghề nghiệp, lập gia đình sinh con hoàn toàn sụp đổ. Còn
đối với người có gia đình, ngoài lo sợ tuyệt vọng cho bản thân, họ còn cảm thấy
tội lỗi hơn vì lo sợ có lây sang cho vợ con mình không, nếu cả vợ con đều bị
nhiễm thì thực sự đây là cú ‘nốc ao” cuối cùng làm cho họ gục hẳn. Do đó với
các đối tượng trên thường có nguy cơ và hành vi tự sát rất cao.
Trái lại, một số người khi biết mình bị nhiễm HIV thì rơi vào tuyệt vọng
xen lẫn tức giận, thù oán kẻ đã gây cho mình và thù oán cả xã hội nên lại càng
lao vào ăn chơi bừa bãi, không chỉ gây hại cho bản thân mà còn dễ gieo rắc
bệnh tật cho người khác với tâm lý trả thù đời hoặc không còn gì để mất.
Một số trường hợp sau khi biết mình bị nhiễm HIV thường rơi vào tình
trạng sốc tâm thần với các biểu hiện loạn thần cấp như hoang tưởng, ảo giác,
mất ngủ kéo dài, kèm theo những suy nghĩ ám ảnh dày vò triền miên, hay kích
động, giận dữ la hét, có khi trầm cảm sững sờ không nói không ăn...
Thứ hai: Khi mới bị nhiễm HIV một vài tuần đầu khi virut mới xâm
nhập vào cơ thể, bệnh nhân chỉ có một số các rối loạn chức năng tạm thời
như: sốt nhẹ, uể oải. Bệnh nhân cần được nghỉ ngơi hoặc giảm nhẹ cường
độ lao động.
Trong 2-8 tuần sau khi nhiễm HIV, bất kỳ qua con đường nào, 20% bệnh
nhân có biểu hiện của một nhiễm trùng cấp với sốt (38-40 độ C), đau cơ, đau
khớp, vã mồ hôi, mệt mỏi, chán ăn, nôn ói, tiêu chảy, viêm họng, phát ban đỏ
ngoài da (xuất hiện ở 50% bệnh nhân), hạch to, lách to. Một số bệnh nhân có
- Xem thêm -