Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của T...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh – Bộ Công an trong tình hình hiện nay

.PDF
99
34
128

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN VĂN CHẾ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC AN NINH – BỘ CÔNG AN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN VĂN CHẾ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC AN NINH – BỘ CÔNG AN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 8 31 02 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS, TS. TRƯƠNG GIANG LONG HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy GS, TS. Trương Giang Long. Nội dung của luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước với những trích dẫn và sử dụng tài liệu trong giới hạn cho phép. Các kết quả của luận văn chưa được công bố trong các công trình nào khác. Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn. Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Tác giả luận văn Trần Văn Chế MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CÔNG AN NHÂN DÂN ........................................................................... 9 1.1. Nhận thức chung về công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân ............................................................. 9 1.2. Nhận thức chung về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân .......................................... 27 Chương 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC AN NINH .............................................................................................. 34 2.1. Những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh ........................... 34 2.2. Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng .............. 43 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC AN NINH ................................. 64 3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh ................................... 64 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh ........................... 68 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 1 PHỤ LỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT An ninh, trật tự : ANTT An ninh nhân dân : ANND Ban Chấp hành Trung ương : BCHTW Bộ Chính trị : BCT Cán bộ, chiến sỹ : CBCS Công an nhân dân : CAND Chủ nghĩa xã hội khoa học : CNXHKH Chủ nghĩa xã hội : CNXH Kinh tế thị trường : KTTT Tổng cục An ninh : TCAN Xã hội chủ nghĩa : XHCN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đạo đức là một trong những yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với mỗi người cán bộ, đảng viên nói chung, của CBCS CAND nói riêng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, có tài mà không có đức là người vô dụng. Đạo đức là một nhân tố mang tính quyết định đối với mục đích, diễn biến, kết quả hành động của mỗi cá nhân nói riêng và của xã hội nói chung. Đối với CBCS CAND, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng. Bởi vì CAND là thanh bảo kiếm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân nên mang bản chất chính trị sâu sắc; phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, có lối sống trong sạch, lành mạnh. Những nhiệm vụ chính trị đặc biệt mà Đảng và nhân dân giao phó cho các CBCS CAND có được thực hiện hay không và thực hiện ở mức độ nào, kết quả như thế nào chịu ảnh hưởng rất lớn từ phẩm chất đạo đức của người đó. Giáo dục đạo đức cách mạng cho người CBCS CAND giúp nâng cao ý thức đạo đức, bồi dưỡng niềm tin, tình cảm đạo đức, hình thành lối sống chuẩn mực, thanh cao, trong sáng, tận tâm với nghề, tận tuỵ với nhân dân. Do đó, công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND có tầm quan trọng đặc biệt. Với sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng nhiều và đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, chính quyền về đạo đức, đặc biệt đối với lực lượng CAND. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, ta đã phát hiện nhiều những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với những diễn biến ngày càng phức tạp. Sự phai nhạt về niềm tin, lý tưởng, dao động lập trường chính trị, quan điểm không đúng đắn về tiến trình xây dựng CNXH, về nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện ở một bộ phận cán bộ, đảng viên dẫn đến sự vi phạm về đạo đức, pháp luật; biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch... Trong lực lượng CAND đã xuất hiện một bộ phận cán bộ, kể cả ở cán bộ cấp 1 cao, vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thực tế này đã làm cho uy tín Đảng, của lực lượng CAND phần nào bị sút giảm, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước đang có dấu hiệu bị ảnh hưởng. Do đó, công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND, đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực, tha hoá đạo đức – đứng trước những chuyển biến mạnh mẽ, những khó khăn, thử thách của thời đại mới, được đặt lên hàng đầu trong tình hình hiện nay. Trong những năm qua, lãnh đạo TCAN đã chỉ đạo sát sao, chú trọng đúng mức đến việc thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS Tổng cục. Việc giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN được tiến hành thường xuyên, là một nhiệm vụ chính trị của đơn vị, của các cấp lãnh đạo và mỗi cá nhân. Đại bộ phận CBCS Tổng cục An ninh đã có những nhận thức đúng đắn về vai trò của đạo đức, của việc tự rèn luyện, tự bồi dưỡng để hoàn thiện bản thân, đồng thời đem lại hiệu quả cao cho công việc của mình. Tuy nhiên, trong thực tế công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN có lúc, có nơi vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, tồn tại một bộ phận CBCS vi phạm kỷ luật, đạo đức, chưa thực hành lối sống trong sạch, lành mạnh. Điều này xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, những mặt còn hạn chế của công tác giáo dục đạo đức cách mạng, từ phía người thực hiện công tác giáo dục đạo đức cách mạng đến CBCS là đối tượng của công tác giáo dục; của tình hình thực tế công tác của đơn vị TCAN; sự tác động từ phía môi trường xã hội… Tình hình trên đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu, khảo sát, nắm bắt những mặt thuận lợi để phát huy, những khó khăn, hạn chế để khắc phục nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng của CBCS TCAN. Nhằm tiến hành nghiên cứu một cách khách quan, khoa học, nghiêm túc, khảo sát bao quát từ lý luận đến thực tiễn để có thể nắm bắt, phân tích vấn đề một cách toàn diện, mang lại hiệu quả tối ưu trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng của CBCS TCAN nói riêng, của CBCS CAND nói chung trong tình hình hiện nay, chúng tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng 2 cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh – Bộ Công an trong tình hình hiện nay” để nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ vấn đề. 2. Tình hình nghiên cứu Nhận thức tầm quan trọng của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội trong thời đại mới, từng bước thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước bàn về vấn đề đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng nói chung, cụ thể như: - Thành Duy (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1996. - Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Thanh Lê (2004), Giáo dục lối sống nếp sống mới, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. - Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Ngọc Long (1982), Sự hình thành đạo đức xã hội chủ nghĩa trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Luận án tiến sỹ Triết học, Mátxcơva. - Phạm Huy Kỳ (1999), “Suy nghĩ về giải pháp khắc phục sự suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay”, Tạp chí Báo chí Tuyên truyền, số 3/1999. - Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”, in trong Tạp chí Triết học, số 9/2001. - Đỗ Lan Hiền (2002), “Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển 3 kinh tế thị trường”, in trong Tạp chí Triết học, số 4/2002. - Đỗ Huy (2002), “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành vi đạo đức cá nhân”, in trong Tạp chí Triết học, số 2/2002. - Phạm Mạnh Hà (2002), “Những nguyên nhân chủ quan chủ yếu của tình trạng suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay”, in trong Tạp chí Triết học, số 3/2002. - Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Phóc (2003), “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường”, in trong Tạp chí Triết học, số 1/2003. - Vũ Khiêu (2003), “Sự suy thoái đạo đức và giải pháp của chúng ta”, in trong Tạp chí Tâm lý học, số 9/2003. - Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2013), Bàn về giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. - Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2014), Tư diễn biến, tự chuyển hóa về vấn đề đặt ra đối với thanh niên hiện nay, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. - Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2015), Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong lực lượng Công an nhân dân hiện nay, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Các công trình trên, ở mức độ nhất định, đã đề cập những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về đạo đức cách mạng, đặc biệt là việc xây dựng, hoàn thiện những giá trị đạo đức mới trong điều kiện xã hội chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN; những giá trị đạo đức mới - đạo đức XHCN, đạo đức cách mạng, lối sống mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh; những mặt tích cực và những mặt tiêu cực, những biểu hiện tha hoá về đạo đức, “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên ta cùng những nguyên nhân khách quan, chủ quan chủ yếu; bước đầu đưa ra những phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói riêng, cho toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung. Bàn về nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan, làm rõ được 4 một số mặt về lý luận và thực tiễn nhằm củng cố, nâng cao chất lượng công tác, cụ thể như: - Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2015), “Định hướng giá trị trong giáo dục thanh niên, sinh viên Công an nhân dân hiện nay”, Tạp chí Lý luận Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 6/2015. - Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2017), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân vững vàng về bản lĩnh chính trị - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Cộng sản, tháng 9/2017. - Giáp Văn Thông (2004), Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ CAND trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. - Phạm Bá Lượng (2009), Giá trị đạo đức truyền thống trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Công an nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận văn Tiến sỹ Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. - Phan Thuý Quỳnh (2012), Hiệu quả giáo dục 6 điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân trong sinh viên học viện An ninh nhân dân, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. - Phạm Thị Nguyệt (2012), Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. - Phạm Thị Tâm (2013), Công tác giáo dục tư tưởng chính trị của Đảng đối với cán bộ, chiến sỹ Công an Huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. - Y Quyết B’Krông (2015), Đảng uỷ Công an Tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân tỉnh hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội. - Đặng Thái Giáp (1997), “Suy nghĩ về đức và tài của người Công an cách 5 mạng”, in trong Tạp chí Công an nhân dân, số 6/1997. - Đặng Thái Giáp (1998), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công an trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, in trong Tạp chí Công an nhân dân, số 7/1998. - Tô Lâm (2018), Xây dựng đạo đức người Công an nhân dân trong tình hình mới, đăng trên www.tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 15/3/2018. - Phạm Thái Bình (2009), “Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong các trường Công an nhân dân trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh”, in trong Tạp chí Công an nhân dân, số 1/2009. Những công trình trên đã phần nào nghiên cứu, làm rõ những mặt của công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND nói chung: Các công trình đã hướng tới xây dựng hệ giá trị đạo đức cách mạng mới của CBCS CAND; phân tích những quan điểm Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND; phân tích những vấn đề về lý luận và khảo sát thực tiễn xã hội Việt Nam những yếu tố tác động đến công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND, đặc biệt trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay; những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của công tác giáo dục đạo đức cách mạng của CBCS CAND để khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác. Tuy nhiên, chưa có công trình nào khảo sát, đưa ra hệ các tiêu chí và đánh giá hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND nói chung, của CBCS TCAN nói riêng. Do đó, đề tài mà học viên lựa chọn không trùng với các công trình khoa học đã được công bố, có giá trị đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận về chung về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND, luận văn đi sâu phân tích, làm rõ thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN, qua đó đề xuất những phương hướng và một số giải pháp để nâng cao chất lượng mặt công tác trên trong thời gian tới. 6 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau: - Một số vấn đề lý luận về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND. - Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN. - Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN từ năm 2014 đến 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cách mạng của người CBCS CAND trong quá trình thực hiện mục tiêu của luận văn. Luận văn còn được thực hiện dựa trên việc vận dụng những phương pháp chung như phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp logic, phương pháp lịch sử… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện các căn cứ khoa học và thực tiễn để đánh giá và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND nói chung, của CBCS TCAN nói riêng trong thời gian tới. 7 Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy chuyên đề, ứng dụng của các nhà nghiên cứu về chính trị, các nhà hoạt động chính trị trong lực lượng vũ trang, lực lượng CAND và ứng dụng trong công tác lãnh đạo của Đảng uỷ các đơn vị CAND. 7. Kết của của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân. Chương 2: Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CÔNG AN NHÂN DÂN 1.1. Nhận thức chung về công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân 1.1.1. Một số khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm đạo đức cách mạng Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Ý thức về đạo đức xuất hiện tương đối sớm trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau kể từ khi có sự xuất hiện của loài người. Đạo đức đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội; sự phát triển về trình độ nhận thức về đạo đức là một trong những thước đo cho sự phát triển của loài người. Trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND, đạo đức ở đây là đạo đức cộng sản, đạo đức Mác – Lênin hình thành nên cơ sở lý luận về đạo đức cách mạng. Các nhà sáng lập, phát triển CNXHKH từ C. Mác, Ph. Ăngghen, Lênin đến Hồ Chí Minh luôn chú ý đến vấn đề đạo đức. Các nhà triết học, nhà tư tưởng trước C. Mác và Ph. Ăngghen, do những hạn chế về mặt lịch sử, hệ tư tưởng về cơ bản đã không đưa ra được một quan niệm đúng đắn về đạo đức, họ thường quy bản chất đạo đức về một bản nguyên, cội nguồn phi lịch sử nào đó. Với việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật biện chứng hình thành quan niệm duy vật lịch sử, C. Mác đã lý giải một cách khoa học các mặt trong đời sống xã hội con người. Trong tác phẩm kinh điển Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị, C.Mác khẳng định: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [65, tr.15]. Hay nói cách khác, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, hệ thống các quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, niềm tin, lý tưởng đạo đức…hợp thành hình thái ý thức đạo đức được quy định bởi trình độ phát triển của đời sống vật chất 9 trong xã hội. Ph. Ăngghen khi tiến hành phê phán nhận thức về đạo đức của Đuyrinh (ông Đuyrinh cho rằng đạo đức có tính chân lý vĩnh cữu) đã chỉ rõ và phân tích một cách thấu đáu về các học thuyết đạo đức đang tồn tại trong xã hội Châu Âu. Đó là sự tồn tại của các học thuyết đạo đức trong xã hội phong kiến, đạo đức trong xã hội tư sản cận đại và đạo đức vô sản của tương lai. Ph. Ăngghen nhận định: “không có đạo đức nào là chân chính cả, nếu nói theo ý nghĩa tuyệt đối cuối cùng; nhưng tất nhiên, thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích tương lai, tức là đạo đức vô sản, - là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài” [66, tr.136]. Như vậy, Ph. Ăngghen cho rằng đạo đức của giai cấp vô sản là đạo đức của tương lai loài người, là đạo đức phát triển ở mức độ cao nhất với ý nghĩa là một hình thái ý thức xã hội. Sau này, các học trò của C. Mác, Ph. Ăngghen, đặc biệt là lãnh tụ V.I.Lênin, đã khẳng định đạo đức của giai cấp vô sản trong thời kỳ mới là đạo đức cộng sản, đạo đức mới, đạo đức XHCN. V.I. Lênin cho rằng đạo đức của chủ nghĩa duy tâm, siêu hình là đạo đức phản động không phải là đại diện cho sự tiến bộ, văn minh của xã hội con người tương lai, thậm chí là trở lực cho sự phát triển; đạo đức của xã hội tương lai phải là đạo đức cộng sản. V.I.Lênin đã luận giải một cách sâu sắc về lĩnh vực đạo đức mới của những người cộng sản và có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa tư tưởng về đạo đức mới - đạo đức cộng sản - trên thực tiễn xây dựng nhà nước XHCN Liên Xô. Theo V.I.Lênin: “Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [106, tr.369]. Với việc học tập, nghiên cứu, tiếp thu một cách sâu sắc những quan điểm mang tính chất phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã chủ trương xây dựng nền đạo đức mới, đạo đức của những người cộng sản, đạo đức cách mạng ở nước ta. Cụm từ “đạo đức 10 cách mạng” do Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên nêu ra chính là nền đạo đức của những người cộng sản, đạo đức của CNXH, chủ nghĩa cộng sản mà C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển trong quá trình đấu tranh cho nhân loại tiến bộ toàn thế giới. Tiếp nối các nhà sáng lập CNXHKH, Hồ Chí Minh nhận định: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [43, tr. 220]. Như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức mới hay đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản nó vượt qua trình độ của đạo đức phong kiến lạc hậu, cũ kỹ và cũng khác biệt, thậm chí trái ngược hẳn với đạo đức tư sản vốn nhấn mạnh nhiều đến chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vụ lợi... Đồng thời, Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cách mạng chính là cái gốc, cái nền của người làm cách mạng, “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [42, tr. 292]. Chính đạo đức mới, đạo đức cách mạng giúp cho mỗi người cán bộ cách mạng có sức mạnh to lớn, lòng kiên trì trong việc thực hiện các mục tiêu cách mạng đề ra. Tóm lại, dựa trên sự phân tích các quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể hiểu: Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội; là một hình thái ý thức xã hội chịu sự quy định của tồn tại xã hội và có sự tác động trở lại một cách tương đối. Đạo đức mà các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu lên là đạo đức mới, đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng – đó là thành tố mà công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND đề cập. Với sự quan niệm về khái niệm đạo đức như trên, ta có thể hiểu: Đạo đức cách mạng là đạo đức mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặt nền móng xây dựng; là sản phẩm của sự kết hợp những quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại; là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, giá 11 trị đạo đức tiên tiến, biểu hiện tư tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức của người làm cách mạng, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 1.1.1.2. Khái niệm giáo dục Giáo dục là một quá trình quan trọng của đời sống xã hội loài người. Nhờ có giáo dục, con người được truyền thụ những tri thức, những hiểu biết được tích lũy qua quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Giáo dục là một quá trình hai mặt: giáo dục tạo ra sự tác động từ bên ngoài hướng đến đối tượng giáo dục (Nhà giáo dục tạo nên sự tác động của tri thức, văn hóa vào trong tư tưởng, hành động của người học), từ đó, đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự phát triển thông qua giáo dục. Theo C. Mác, con người chính là một thực thể có sự thống nhất của mặt sinh học và mặt xã hội. Đó là sự đúc kết khoa học của C. Mác thông qua một quá trình nghiên cứu sự hình thành, phát triển của con người. Mác cho rằng đứa trẻ khi vừa được sinh ra chính là một “con người dự bị”; “con người dự bị” sẽ không thể thực sự trở thành con người nếu bị cô lập, bị tách biệt khỏi đời sống xã hội (chỉ có mặt tự nhiên mà không có mặt xã hội). Khi trình bày trong tác phẩm Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, C.Mác đã khẳng định: “Cá nhân là thực thể xã hội, cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó, ngay cả nếu nó không biểu hiện sinh hoạt tập thể, được biểu hiện cùng với những người khác - là biểu hiện và khẳng định của sinh hoạt tập thể” [69, tr. 171]. Hay nói cách khác, Mác khẳng định một con người thực sự là con người đầy đủ khi “con người dự bị” được tham gia vào môi trường xã hội, được đắm mình trong các hoạt động xã hội trong quá trình tồn tại, phát triển của mình. Khi tham gia vào các hoạt động xã hội, thông qua những thiết chế xã hội (đặc biệt là thông qua quá trình được giáo dục), con người hòa nhập vào xã hội, phát triển mặt xã hội của mình để trở thành một con người toàn vẹn. Giáo dục chính là một hoạt động cần thiết để con người truyền thụ lại những kinh nghiệm cần thiết cho các thế hệ tiếp nối, nhằm phục vụ cho quá trình sống, thích ứng và phát triển trong môi trường xã hội. Đặc biệt, quá trình giáo dục truyền thụ lại trong các thế hệ 12 con người những giá trị tri thức và văn hóa. Các nhà sáng lập CNXHKH đã nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa môi trường xã hội và hoạt động giáo dục – nhân tố xã hội có tác dụng quy định những yếu tố của hoạt động giáo dục, có tác dụng định hướng cho sự phát triển của giáo dục, còn giáo dục lại đóng vai trò tích cực, quan trọng đối với sự phát triển của môi trường xã hội và sự tồn tại của con người. Khi tìm tòi, đúc kết những quy luật của sự phát triển xã hội loài người, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Lịch sử, khi nhìn nhận ở góc độ khoa học, khách quan, chính là sự phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (từ thời kỳ Cộng sản nguyên thủy - Chiếm hữu nô lệ Phong kiến - Tư bản chủ nghĩa - XHCN - Cộng sản chủ nghĩa). Mỗi hình thái kinh tế - xã hội lại có tương ứng các nền giáo dục khác nhau một cách phù hợp với mỗi hình thái kinh tế - xã hội đó. Sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội mới thay cho hình thái kinh tế - xã hội cũ sẽ tương ứng với sự thay đổi của nền giáo dục mới thay cho nền giáo dục cũ. Nền giáo dục mới sẽ chứa đựng những yếu tố tiến bộ, tích cực hơn so với nền giáo dục cũ bởi lẽ sự thay thế, phát triển các hình thái kinh tế xã hội là sự phát triển về chất – hình thái kinh tế - xã hội mới bao giờ cũng tiến bộ hơn, trước hết là sự tiến bộ về trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển hơn kéo theo sự biến đổi trong mối quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất, từ đó dẫn đến sự biến đổi các mối quan hệ xã hội và đến mỗi cá nhân. Trước thực tại này, Ph.Ăngghen phân tích rõ: “giống như trong thế kỷ trước, người nông dân và người công nhân công trường thủ công, sau khi được thu hút vào đại công nghiệp, đã thay đổi toàn bộ lối sống của họ và bản thân họ đã trở thành những con người hoàn toàn khác hẳn” [67, tr. 474]. Bởi vì sự phát triển của lực lượng sản xuất (mà trước hết là trình độ của trí tuệ con người và công cụ sản xuất) thể hiện trình độ phát triển của con người trong việc chinh phục và chiếm lĩnh các lực lượng trong tự nhiên với tư cách là yếu tố cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người. Điều này, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “sẽ cần những con người hoàn toàn mới” và “cũng cần có những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất”; do đó, “công tác giáo dục sẽ làm 13 cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn…” và làm cho những thành viên trong xã hội “có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình” [69, tr. 475]. Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen còn đưa ra những dự báo thiên tài của mình rằng: “Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi phí hơn là vào sức mạnh của những tác nhân được khơi động trong thời gian lao động, và bản thân những tác nhân, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng), tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất… Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo, máy sợi con dọc di động, v.v.. Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người, là vật liệu tự nhiên được chuyển hoá thành những cơ quan của ý chí con người chế ngự giới tự nhiên, hoặc của hoạt động của con người trong giới tự nhiên. Tất cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đã được vật hoá của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hoá đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực” [70, tr. 368-369, 372-373]. Chính vì vậy, các nhà lý luận kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết luận: “bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp công nhân hiểu rất rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân tức là tương lai của loài người, hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [71, tr. 7]. Nhìn nhận xuyên suốt quá trình phát triển các quan niệm về giáo dục, tư tưởng giáo dục, triết lý giáo dục, các nhà tư tưởng đều nhìn nhận giáo dục chính là 14 một cách thức để truyền thụ những tri thức của nhân loại, giá trị của xã hội đến người học; thông qua quá trình giáo dục, con người được truyền thụ về các giá trị xã hội, học cách để gia nhập vào xã hội và phục vụ cho một chế độ xã hội thể hiện trong một giai đoạn xác định. Giáo dục ở đây được hiểu là có mục đích lấy xã hội làm trung tâm, xã hội trang bị cho đối tượng học tập các kiến thức cơ bản về kinh tế, kỹ thuật... nhằm phục vụ xã hội. Tuy nhiên, có một sự khác biệt trong quan niệm của C. Mác và các nhà tư tưởng trước C. Mác về giáo dục: nếu như các quan niệm trước C. Mác đều xem giáo dục chính là cách thức để đào tạo nên con người trở thành những cỗ máy thực sự để phục vụ cho xã hội đương thời thì C. Mác lại xem giáo dục không chỉ làm cho con người thích nghi với xã hội, nhằm phục vụ cho xã hội, mà quan trọng hơn, giáo dục làm cho người người được phát triển toàn diện các năng lực của mình. Ở điểm này, C.Mác quan niệm nền giáo dục sau này sẽ là nền giáo dục làm cho mỗi một trẻ em, khi đến lứa tuổi nhất định, đều biết “kết hợp trí dục và thể dục với lao động chân tay và do đó, kết hợp lao động chân tay với trí dục và thể dục”, “kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục” và coi đó không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện…” [68, tr. 687, 688]. Nhìn lại lịch sử nhân loại, có thể khẳng định: Quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục có mục đích chính là vì sự phát triển của con người là một quan niệm đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với nhân tính của con người, vì sự tiến bộ của nhân loại. Như vậy, giáo dục hướng tới sự phát triển của chính bản thân con người. Về mặt định nghĩa, có thể hiểu theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê làm chủ biên: Giáo dục là “hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [104, tr. 394]. Giáo trình Giáo dục học đã đưa ra định nghĩa: “Giáo dục là quá trình thống nhất của sự hình thành tinh thần và thể chất của mỗi các nhân trong xã hội. Giáo dục là một mặt không thể tách rời của cuộc sống con người, của xã hội, nó là một hiện tượng đặc 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan