Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh bến tre hiện nay...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh bến tre hiện nay

.PDF
85
364
114

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ …...... LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TỈNH BẾN TRE HIỆN NAY. Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân Giáo viên hướng dẫn Th.S. GVC TRẦN THỊ TUYẾT HÀ Sinh viên thực hiện TRẦN THỊ NHƯ MSSV: 6064673 Lớp: SP GDCD_K32 Cần Thơ – 0 4/2010 1 LỜI CẢM ƠN ! Trong 4 năm qua, tôi đã được rèn luyện và nâng cao kiến thức dưới mái trường Đại học Cần Thơ. Trong thời gian học tập tại trường, tôi đã được thầy cô truyền đạt những kiến thức bổ ích, cùng với quá trình tự luyện của mình, tôi đã vận dụng những kiến thức đó vào việc nghiên cứu một đề tài để làm bài luận văn tốt nghiệp của mình. Được làm luận văn là một niềm hạnh phúc lớn và vinh hạnh của tất cả sinh viên nói chung và đối với tôi nói riêng. Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự ủng hộ, động viên và giúp đỡ từ phía khoa Khoa học chính trị, tỉnh ủy Bến Tre, của các thầy cô trong khoa, của thầy cô THPT, của gia đình và các bạn lớp sư phạm GDCD-K32, đặc biệt nhất là trong thời gian qua Th.s.GVC Cô Trần Thị Tuyết Hà đã hướng dẫn tôi một cách nhiệt tình và chu đáo. Nhân đây tôi xin gởi lời cám ơn chân thành đến Cô Trần Thị Tuyết Hà, đến tỉnh ủy Bến Tre, đến tất cả các thầy cô trong khoa Khoa học chính trị, thầy cô THPT, gia đình và toàn thể các bạn trong lớp sư phạm GDCD-K32. Tôi hoàn thành luận văn trong một khoảng thời gian ngắn cùng với hạn chế về kiến thức nên chắc chắn bài luận văn sẽ còn nhiều sơ sót. Chính vì vậy tôi rất mong được sự đóng góp của tất cả các thầy cô và các bạn để tôi hoàn thiện những mặt còn hạn chế của mình trong bài luận văn này. Nếu có điều kiện, tôi sẽ cố gắng trau dồi thêm kiến thức để hoàn thiện mặt hạn chế, làm sáng tỏ hơn những vấn đề có liên quan trong đề tài luận văn. Cần Thơ, ngày 27, tháng 4, năm 2010. Tác giả Luận văn Sinh viên: Trần Thị Như 2 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 3 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Lý luận chung về công tác dân vận 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về công tác dân vận 7 1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận 14 1.2.1 Tư tưởng công tác dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh 14 1.2.2 Những quan điểm của Đảng về công tác dân vận 20 trong thời kỳ mới Chương 2: Thực trạng công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong thời gian qua 2.1 Những thành tựu và nguyên nhân của những thành tựu trong 32 công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong thời gian qua 2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong 44 công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong thời gian qua Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay 3.1 Những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay 57 3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh Bến tre trong giai đoạn hiện nay 61 PHẦN KẾT LUẬN 77 PHẦN PHỤ LỤC 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Ngày nay hầu hết 63 tỉnh thành trong cả nước nói chung và tỉnh Bến Tre nói riêng đều quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt nhất là về công tác dân vận mà Đảng ta đã đề ra. Đảng bộ tỉnh Bến Tre luôn nêu cao tầm quan trọng của công tác dân vận và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị về công tác dân vận của Đảng. Có thể nói, Bến Tre là một quê hương Đồng Khởi, quật cường năm xưa với nhiều thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Và ngày nay, Bến Tre là một thành phố trẻ vừa mới được thành lập, để xây dựng thành phố ngày càng vững chắc, phát triển đi lên, và đặc biệt là hòa cùng với cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiến đến mục tiêu chung: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì công tác dân vận đóng vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu được trong quá trình phát triển đi lên và thực hiện thắng lợi sự nghiệp đó. Trong những năm qua, công tác dân vận của tỉnh nhà đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhìn chung công tác dân vận của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở trong thời gian qua có nhiều đổi mới, chuyển biến tích cực theo hướng “gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với dân”. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng về công tác dân vận ngày càng sát hợp, hiệu quả tuyên truyền, vận động được quần chúng tham gia sôi nổi vào các phong trào cách mạng của địa phương; các cấp, các ngành nâng cao vai trò, trách nhiệm trong công tác quản lý, điều hành và vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ theo phương châm : “Dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”; các chỉ thị, nghị quyết của tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh được chính quyền các cấp cụ thể hóa thành những chủ trương, giải pháp để tổ chức nhân dân thực hiện; hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể các cấp có bước chuyển biến rõ nét, bám sát nhiệm vụ chính trị, tập trung hướng về cơ sở gắn với chăm lo lợi ích về kinh tế cho đoàn viên, 4 hội viên, chú trọng xây dựng và nhân rộng các mô hình tiên tiến, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, học tập chủ trương, nghị quyết ra dân gắn với phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động tại địa phương. Bên cạnh những thành tựu đó, công tác dân vận của tỉnh nhà trong thời gian qua vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém, phương thức lãnh đạo công tác dân vận của các cấp ủy Đảng chưa đổi mới kịp thời với tình hình quần chúng trong giai đoạn cách mạng mới; chưa huy động và phát huy hết sức mạnh của hệ thống chính trị tập trung thực hiện công tác dân vận; một số vấn đề bức xúc của nhân dân tại địa phương, cơ sở chưa được giải quyết hoặc giải quyết chưa kịp thời, chưa thấu tình đạt lý, kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính còn hạn chế, các giải pháp về giải quyết việc làm, dạy nghề, chăm lo đời sống cho nhân dân của chính quyền một số nơi hiện nay chưa thật sự phấn khởi người dân; việc nắm bắt tư tưởng, nguyện vọng các tầng lớp nhân dân của hệ thống công tác dân vận và công tác tham mưu còn chậm, công tác tuyên truyền các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân kết quả còn hạn chế; chất lượng đoàn viên, hội viên một số đoàn thể cơ sở có hiện tượng giảm sút, thiếu lực lượng nòng cốt có uy tín trong nhân dân…. Xuất phát từ thực trạng đó, với mong muốn được đóng góp phần kiến thức còn hạn chế của mình vào việc nâng cao hiệu quả công tác dân vận của tỉnh nhà mà tôi đã lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre hiện nay” để làm bài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 2.1 Mục đích Mục đích của đề tài này là: Đánh giá đúng thực trạng công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong thời gian qua và đề ra những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. 2.2 Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ hai nhiệm vụ sau: 5 Một là, đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế của công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong thời gian qua. Phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế đó. Hai là, đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn (2006-đến nay), đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Để làm sáng tỏ nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, chứng minh, điều tra, thu thập thông tin, sưu tầm tài liệu, phân tích và nghiên cứu tài liệu. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài những phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương và 6 tiết. 6 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về công tác dân vận Có thể nói, những tư tưởng chung, tổng quát của Mác và Ăngghen về vai trò của quần chúng nhân dân và về công tác vận động quần chúng, trong đó có những tư tưởng liên quan đến chính quyền với công tác dân vận, vẫn là những tư tưởng rất khoa học, phù hợp với lịch sử và ngày nay vẫn mang tính thời sự, vẫn là kim chỉ nam cho mọi việc nghiên cứu và thực hành công tác dân vận. Mác và Ăngghen đánh giá cao vai trò, lực lượng và khả năng của giai cấp bị áp bức trong xã hội có giai cấp đối kháng. Các ông đã khẳng định rằng: “Một giai cấp bị áp bức là điều kiện sống còn của một xã hội dựa trên sự đối kháng giai cấp” [27, tr 410]. Giai cấp đó là lực lượng sản xuất lớn nhất trong tất cả các lực lượng sản xuất của xã hội. Giai cấp đó có bản chất cách mạng “là khối đông đảo quần chúng đang làm cách mạng”. Theo Mác và Ăngghen, quần chúng nhân dân đóng vai trò đặc biệt quan trọng có thể chuyển hóa những tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực cách mạng và những cuộc cách mạng có vai trò cực kỳ to lớn, như Mác đã từng khẳng định cách mạng là “những đầu tàu của lịch sử”. Như vậy, theo Mác và Ăngghen thì quần chúng nhân dân không những là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sáng tạo ra mọi của cải vật chất của xã hội, mà còn là người quyết định vận mệnh của lịch sử, có sứ mệnh đánh phá cái cũ, cái lạc hậu, khám phá và dựng lên cái mới, cái tiến bộ. Tuy nhiên quần chúng nhân dân là một khối đông đảo, không thuần nhất gồm nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, có đặc điểm và vị trí, vai trò khác nhau. C.Mác và Ăngghen chú trọng trước hết giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử “là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản”, cho nên trong quá trình cách mạng vô sản, “bản thân quần chúng công nhân là điểm tựa tốt nhất ” [17, tr 676]. Bên cạnh đó, Mác và Ăngghen đặc biệt quan tâm đến nông dân với vị trí, vai trò rất quan trọng: “Là một nhân tố rất cơ bản của dân cư, của nền sản xuất 7 và chính quyền” [6, tr 563], do đó phải tuyên truyền, vận động nông dân, để nông dân suy nghĩ trên mảnh đất của mình rồi dần dần giác ngộ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa của chính quyền vô sản. Theo Mác và Ăngghen, Đảng và chính quyền của giai cấp vô sản rất cần thiết tiến hành công tác vận động quần chúng vì: Một là, quần chúng nhân dân có lực lượng và có khả năng to lớn, mà cách mạng vô sản muốn bảo đảm thắng lợi lâu dài cần phải tranh thủ: “Những người xã hội chủ nghĩa càng ngày càng hiểu rõ rằng họ không thể thu được thắng lợi lâu dài, nếu trước đó không tranh thủ được đông đảo quần chúng nhân dân” [6, tr 618]. Hai là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhưng chính bản thân quần chúng cũng có những hạn chế về nhận thức, cần phải được tuyên truyền giáo dân để họ hiểu rõ mục đích lý tưởng và trách nhiệm của mình, như trong lời nói đầu của tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848 đến 1850”, Các Mác và Ăngghen đã viết: “Đã qua rồi, thời kỳ cuộc đột kích, thời kỳ những cuộc cách mạng do những nhóm thiểu số tự giác cầm đầu những quần chúng không tự giác tiến hành. Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế độ xã hội, thì bản thân quần chúng phải tự mình tham gia công cuộc cải tạo ấy, phải tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành đấu tranh, vì sao phải đổ máu và hy sinh tính mạng” [14, tr 9]. Ăngghen còn nhận xét rằng, ngay cả ở Pari, sau thắng lợi, chính quyền vô sản cũng còn tuyệt đối chưa có một ý niệm gì rõ ràng về con đường phải đi theo. Do đó công tác giáo dân, vận động quần chúng vẫn phải được tiếp tục. Ba là, quần chúng đông đảo là những người hăng hái nhiệt tình cách mạng, nhưng cách mạng là một quá trình lâu dài, gian khổ, khó khăn có những lúc tạm thời thất bại, khiến cho quần chúng nhiều khi mệt mõi, thậm chí thất vọng. Vì vậy phải thường xuyên tiến hành công tác vận động quần chúng vì lợi ích thật sự của quần chúng. Có thể nói, từ giữa thế kỷ XVIII trở lại đây, các cuộc cách mạng xã hội không phải do những cá nhân, những nhóm người nhỏ bé cầm đầu, những quần chúng không tự giác tiến hành. Trái lại, từ những năm cuối thế kỷ XIX trở đi, 8 những cuộc cách mạng muốn thắng lợi phải do các Đảng có lý luận tiên phong của các giai cấp lãnh đạo. Các Đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng dám xả thân đấu tranh mới giành thắng lợi. Động lực của những cuộc cải biến, những cuộc cách mạng ấy lại là các lợi ích. Theo C.Mác: Tất cả cái gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ. Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những nguyên nhân và động lực của sự cải biến xã hội nọ sang xã hội kia, Ph.Ăngghen cho rằng, không phải là ở những lý tưởng, những chân lý mà chính là ở sự biến đổi của phương thức sản xuất và trao đổi kinh tế. Động lực thúc đẩy sự cải biến xã hội ấy là những lợi ích kinh tế. Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận: “Thoạt nhìn người ta có thể cho rằng chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến xưa kia-ít nhất là lúc ban đầu-bắt nguồn từ những nguyên nhân chính trị, từ sự chiếm đoạt bằng bạo lực, thì điều đó là không thể chấp nhận được đối với giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Ở đây, ta thấy rõ ràng và cụ thể rằng nguồn gốc và sự phát triển của hai giai cấp lớn đó là những nguyên nhân thuần túy kinh tế-cũng rõ ràng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp chiếm hữu ruộng đất và giai cấp tư sản, cũng như trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, thì trước hết, vấn đề là ở chỗ những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ sử dụng làm phương tiện đơn thuần ” [14, tr 10]. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng, trong những thời kỳ cách mạng, quần chúng nhân dân tỏ ra là người tích cực sáng tạo ra những trật tự xã hội mới, có thể làm được những kỳ công. Trong những lúc như thế, các nhà lãnh đạo “cần phải biết đề ra nhiệm vụ của mình một cách rộng lớn hơn và mạnh bạo hơn; cần phải làm sao cho những khẩu hiệu của họ luôn đi trước được tính chủ động cách mạng của quần chúng, chỉ rõ tất cả sự đẹp đẽ và cao quý của lý tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa của chúng ta, chỉ rõ con đường thẳng nhất và ngắn nhất để đi tới thắng lợi hoàn toàn, tuyệt đối quyết định” [31, tr 131]. Bên cạnh đó,V.I.Lênin còn nhấn mạnh lợi ích thiết thân của cá nhân người lao động. Người viết: “Những lý tưởng cao cả nhất cũng không đáng một xu nhỏ, chừng nào người ta không biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng đó với lợi ích 9 của chính ngay những người tham gia cuộc đấu tranh kinh tế, chừng nào mà người ta không biết kết hợp những lý tưởng đó với những vấn đề “chật hẹp” và nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày của giai cấp ấy như vấn đề trả công lao động một cách công bằng” [14, tr 11-12]. Lênin còn căn dặn, phải lấy lợi ích kinh tế thiết thân của người lao động làm cơ sở để xây dựng nền kinh tế. Người viết: “Chúng ta nói rằng phải xây dựng mọi ngành kinh tế quốc dân quan trọng trên cơ sở sự quan tâm thiết thân của cá nhân” [14, tr 11]. Đặc biệt đối với những nước tiểu nông như Nga, V.I.Lênin còn căn dặn: “…tiến lên chủ nghĩa xã hội, không phải bằng trực tiếp dựa vào nhiệt tình do cuộc cách mạng vĩ đại sinh ra, bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân” [14, tr 12]. Như vậy lợi ích là cái gắn bó người ta lại với nhau. Lợi ích gắn liền với cuộc đấu tranh, là động lực của các cuộc đấu tranh, trong đó lợi ích kinh tế thiết thân của cá nhân là động lực trực tiếp rất mạnh mẽ. Công tác vận động quần chúng trong cách mạng vô sản là một cuộc đấu tranh, hơn nửa đó là cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn gian khổ; cuộc đấu tranh ấy chưa kết thúc ngay cả khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền, mà còn phải tiếp tục trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và xã hội cộng sản vì lợi ích thiết thân của tuyệt đại đa số nhân dân, của toàn xã hội, nhưng với hình thức khác nhau. Vì vậy, muốn vận động quần chúng phải quan tâm lợi ích thiết thân của họ. Sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô địch. Lênin cho rằng: Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được khi quần chúng đông đảo gấp 10, gấp 100 lần trước tự bắt tay vào việc xây dựng nhà nước và một đời sống kinh tế mới”, “Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân” [8, tr 278]. Tuy nhiên, quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy sức mạnh của mình khi họ được tổ chức lại. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” [14, tr 13]. Trong “Vấn đề quân sự ở Phổ và Đảng công nhân Đức”, Ph.Ăngghen viết: “…giai cấp vô sản trở thành một sức mạnh từ khi nó 10 thành lập một đảng công nhân đối lập, mà sức mạnh thì người ta phải chú ý đến” [25, tr 99]. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăngghen, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Tổ chức, tổ chức và tổ chức”, “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên” [14, tr 13]. Vì vậy, V.I.Lênin rất chú ý đến tổ chức công đoàn của giai cấp công nhân. Người cho rằng, những công việc tổ chức như thế là của Đảng, Đảng phải biết cách làm công tác tuyên truyền, tổ chức, cổ động sao cho dễ tiếp thu nhất, dễ hiểu nhất, rõ ràng nhất và sinh động nhất cả đối với các “phố” chợ thuyền, nhà máy lẫn đối với các vùng nông thôn. Muốn có sức mạnh phải thống nhất ý chí, phải đoàn kết, phải có tổ chức. Vì thế, trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ăngghen kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. Nhờ đoàn kết, giai cấp công nhân đã thu được thắng lợi trong các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế đối với các chủ tư bản. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn thể Hội Liên hiệp họp ở La Hay ngày 2 tháng 9 năm 1872 đã khẳng định: “Sự thống nhất các lực lượng của giai cấp công nhân đã đạt được thông qua đấu tranh kinh tế, cũng phải trở thành đòn bẩy trong cuộc đấu tranh của nó chống quyền lực chính trị của những kẻ bóc lột nó” [14, tr 14]. Sau Đại Hội La Hay, tại Amxtescđam, C.Mác đã đọc bài diễn văn, trong đó nhấn mạnh: “…chúng ta hãy nhớ một nguyên tắc cơ bản của Quốc tế: Sự đoàn kết. Chúng ta sẽ đạt được mục đích vĩ đại mà chúng ta đang hướng tới, nếu chúng ta củng cố vững chắc nguyên tắc đầy sức sống ấy trong tất cả các công nhân ở tất cả các nước. Cách mạng phải là đoàn kết, kinh nghiệm lớn lao của Công xã Pari đã dạy chúng ta như thế” [14, tr 14]. V.I.Lênin đã vận dụng tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời đại của mình-thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản và kêu gọi mở rộng khối đoàn kết của giai cấp công nhân với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Người kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Ở nước Nga, sau cách mạng Tháng Mười năm 1917, giai cấp vô sản nắm chính quyền, V.I.Lênin đã khẳng định: “…chúng ta không chấp chính bằng cách chia rẽ, mà bằng cách tạo ra giữa tất cả mọi người lao động những mối liên hệ keo 11 sơn về những quyền lợi thiết thân và ý thức giai cấp” [14, tr 15]. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin nhấn mạnh việc động viên và phát huy mọi lực lượng của quần chúng nhân dân. Người cảnh báo: những ai chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản là những kẻ có tư tưởng hết sức ngây thơ. Mác và Ăngghen cũng đã xác định đối tượng và mục đích công tác tuyên truyền vận động quần chúng “không phải là lôi kéo đây đó những cá nhân hay nhóm hội viên riêng biệt khỏi phe đối lập mà phải hoạt động trong quần chúng đông đảo chưa tham gia phong trào” [28, tr 575]. Về phương pháp công tác dân vận, Ph.Ăngghen căn dặn, phải dùng cách nêu gương và giúp đỡ. Như vậy, chúng ta có thể nhận thức rằng, trong công tác dân vận thì những tấm gương, những mô hình thực tiễn cụ thể….có tác dụng cổ vũ, động viên, hướng dẫn quần chúng nhân dân rất lớn. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, đối với quần chúng nhân dân không được dùng mệnh lệnh, áp đặt ý chí chủ quan của cá nhân lãnh đạo đối với họ. Các Mác và Ăngghen cũng đã nêu ra phương tiện và cách thức tuyên truyền vận động quần chúng rất đa dạng như: sử dụng diễn đàn tại Quốc hội hoặc các cuộc mít tinh, sử dụng báo chí và phương tiện thông tin tuyên truyền cổ động khác, đặc biệt là phổ thông đầu phiếu. Phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ăngghen, V.I.Lênin rất coi trọng phương pháp thuyết phục, giáo dục và nêu gương đối với quần chúng nhân dân. Lênin cho rằng, cách thức tuyên truyền vận động quần chúng là phải biết chỉ dẫn và giải thích cụ thể cho quần chúng biết rõ những khó khăn, phải dùng hết tinh thần nghị lực vượt qua để thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể. Người đề ra nhiệm vụ hàng đầu cho các Đảng Cộng sản là phải “thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình” [29, tr 208]. Lênin cho đây là nhiệm vụ chiến lược quan trọng hơn cả trong thời kỳ chưa giành được chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu là quản lý, nhưng Người vẫn căn dặn: “Chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý được tốt, thì ngoài cái tài biết thuyết phục, biết thắng trong mọi cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn” [29, tr 210]. V.I.Lênin cũng cho rằng: “Việc giáo dục và rèn luyện quần chúng lao động” là nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục của Đảng cộng 12 sản và của “mọi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa” [30, tr 474]. Lênin phê phán những đảng viên, cán bộ, tổ chức không gương mẫu, không dũng cảm hoặc “rất ít dùng những điển hình, những tấm gương cụ thể, sinh động, lấy trong lĩnh vực của đời sống để giáo dục quần chúng” [31, tr 109]. Người yêu cầu lấy kinh nghiệm lâu dài, lấy ví dụ thực tế để chứng minh cho quần chúng thấy rõ sự cần thiết của công việc là một biện pháp có hiệu quả không nhỏ. V.I.Lênin khuyến khích mở rộng dân chủ, công khai làm cho mọi người dân biết công việc của Đảng, của Nhà nước. Đó là một phương pháp công tác quần chúng có tác dụng nâng cao tính chủ động, tích cực sáng tạo cách mạng quần chúng. Người viết: “…một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng đoán được rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán được về mọi cái và đi vào hành động một cách có ý thức” [32, tr 823]. V.I.Lênin rất coi trọng ý kiến của quần chúng nhân dân. Người coi đó là tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là những nguồn tin cực kỳ quý báu để hình thành chính sách. Vì vậy, Người yêu cầu phải tập hợp, tổng kết những ý kiến của quần chúng. V.I.Lênin cũng đề nghị tìm mọi cách để duy trì và phát triển và mở rộng những hội nghị công nhân, nông dân ngoài Đảng, vì thông qua những hội nghị như thế, Đảng có thể “…nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ, giải quyết những nhu cầu của họ, giao cho họ những phần tử tốt nhất trong số họ đảm nhiệm những chức vụ trong bộ máy nhà nước…”[14, tr 17]. Lênin còn chỉ rõ phương châm làm công tác vận động quần chúng một cách có hiệu quả là: “Phải sống sâu vào đời sống công nhân, phải biết tường tận đời sống công nhân, biết xác định một cách chắc chắn bất cứ trong vấn đề nào, trong lúc nào tâm trạng của quần chúng, những nhu cầu những ý nghĩ thực sự của họ, biết nhận rõ mà không mãi may tưởng hóa trình độ giác ngộ của họ và sức mạnh ảnh hưởng của những thiên kiến hay những tàn dư nào của quá khứ, biết chiếm được lòng tin cậy vô bờ bến của quần chúng bằng một thái độ ái hữu đối với họ, bằng cách quan tâm thỏa mãn nhu cầu đối với họ” [35, tr 426]. Lênin còn khẳng định rằng liên hệ với quần chúng, làm tốt công tác vận động quần chúng là nguyên nhân bảo đảm uy tín của Đảng: “ uy tín của Đảng sở dĩ duy trì được là do tín nhiệm của giai cấp công nhân. Mà tín nhiệm của giai cấp công nhân không 13 phải là do bạo lực mà có được-bạo lực chỉ có thể phá hoại sự tín nhiệm đó thôimà phải do lý luận đúng đắn của Đảng, chính sách đúng đắn của Đảng, do lòng trung thành của Đảng với giai cấp công nhân, do mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng giai cấp công nhân, do Đảng có tự nguyện và có năng lực thuyết phục quần chúng tin vào khẩu hiệu của mình không” [31, tr 52-53]. 1.2 Tư tường Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận 1.2.1 Tư tưởng công tác dân vận của Hồ Chí Minh Trải qua hơn nửa thế kỷ kể từ ngày bài báo Dân vận của Bác Hồ ra đời (1410-1949), cho đến nay có thể khẳng định: Bài báo vẫn còn nguyên tính thời sự nóng hổi, tư tưởng cốt lõi, căn bản nhất về dân vận và tác phong dân vận Hồ Chí Minh. Trong bài báo Dân vận Người đã khẳng định vị trí, vai trò quyết định của nhân dân: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [33, tr 698] Như vậy, trước hết Hồ Chí Minh nhấn mạnh bản chất dân chủ của chế độ ta, nhà nước ta. Trong nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ, người dân được đặt ở vị trí cao nhất: Dân là chủ, dân làm chủ, còn các cơ quan Nhà nước và cán bộ nhà nước chỉ là những tổ chức, cá nhân được nhân dân ủy quyền để làm đày tớ của nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội, làm chủ đất nước, là người có quyền quyết định tối cao nhất. Trong bài báo Dân vận, Hồ Chí Minh cũng đã đặt ra câu hỏi và sau đó trả lời câu hỏi rất ngắn gọn, giản dị, nhưng đầy đủ, súc tích, dễ hiểu về quy trình, cách thức dân vận: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho” 14 [33, tr 698]. Bác đã nêu ra bốn vấn đề cần chú ý trong công tác vận động quần chúng, hay nói như ngày nay là bốn quy trình chủ yếu trong công tác dân vận: Một là, dân vận không chỉ bằng chỉ thị, nghị quyết, báo chí, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu là đủ; Thức hai, dân vận phải gắn với lợi ích của quần chúng, nhân dân; Thứ ba, phải bàn bạc, hỏi ý kiến nhân dân, có kế hoạch, biện pháp phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng cụ thể và tổ chức nhân dân thực hiện; Thứ tư, phải theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, rút kinh nghiệm, động viên, khen thưởng. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đã đặt ra câu hỏi và chỉ rõ ai là người “phụ trách” ở đây được hiểu là lãnh đạo và trực tiếp làm công tác vận động quần chúng nhân dân, Người đã chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh…) đều phải phụ trách dân vận” [33, tr 699]. Nói như cách hiện nay thì tất cả hệ thống chính trị, các tổ chức nghề nghiệp và mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức…đều phải có trách nhiệm làm công tác vận động quần chúng, nhân dân. Phần cuối cùng của bài báo Dân vận, Hồ Chí Minh đã chỉ ra tác phong của những người làm công tác dân vận, tuyệt đối không được làm công tác dân vận một cách qua loa, đại khái, giản đơn; nhất là phải tránh những biểu hiện: “Lời nói không đi đôi với việc làm; nói một đằng, làm một nẻo, hoặc đánh trống bỏ dùi”. Bác chỉ rõ: “người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc” [33, tr 699]. Cuối cùng Hồ Chí Minh đã kết luận: “lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [32, tr 700]. Có thể nói Hồ Chí Minh đã quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về công tác quần chúng, Người cho rằng: “…Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải của một hai người” [14, tr 18]. Đây là một tư tưởng lớn xuyên suốt cuộc đời Người. Hồ Chí Minh đã tỏ rõ quyết tâm của mình: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [14, tr 18]. Khi nói về nguyên nhân thắng lợi của cuộc cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả những thắng lợi 15 đó không phải là công lao riêng của Đảng ta. Đó là công lao chung của toàn thể đồng bào trong cả nước. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân…”. Người khẳng định: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được” [14, tr 18-19]. Hồ Chí Minh luôn luôn nhìn nhận và đánh giá đúng lực lượng to lớn của nhân dân. Người cho rằng, dù việc lớn hay việc nhỏ đều phải dựa vào dân để làm. Vì vậy, Người dặn: “Trong mọi việc đều phải dựa vào quần chúng….Lấy sức quần chúng mà vượt qua khó khăn.” [14, tr 20], dù trong chiến đấu giải phóng đất nước, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đất nước hay trong công cuộc xây dựng đất nước. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào một nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta, Hồ Chí Minh không chỉ tin tưởng, đánh giá đúng đắn mà còn nhìn nhận, xác định những lực lượng cách mạng to lớn của nhân dân nói chung, đó là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, văn kiện mang tính cương lĩnh đầu tiên, Hồ Chí Minh viết: “1. Đảng ta là Đảng tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục được đại bộ phận giai cấp của mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng. 2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa và phong kiến. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt…để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp” [14, tr 20]. Tất cả vì lợi ích của nhân dân là một vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người nói: “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác” [14, tr 21]. Người luôn luôn răn dạy cán bộ, đảng viên “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh”. “Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất cứ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân” [34, tr 33]. Lợi ích của nhân dân phải được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước. 16 Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật. Người chỉ thị: “Nghị quyết nào mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa”. Phải “dựa vào ý kiến dân chúng” mà sửa chữa đường lối, chủ trương, chính sách cán bộ và tổ chức của ta [14, tr 22]. Đối với Hồ Chí Minh, lợi ích chung luôn luôn gắn với lợi ích cụ thể. Người cho rằng, việc quan tâm lợi ích của quần chúng phải rất thiết thực, cụ thể, không thể chung chung được. Vì: “…nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực ( lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cục). Đối với nhân dân không thể lý luận suông, chính trị suông” [14, tr 23]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan tâm lợi ích của nhân dân cũng có nghĩa là phải luôn luôn chăm lo, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân về mọi mặt để nhân dân đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa, nhằm cải thiện và nâng cao đời sống, Người căn dặn: “Đảng ta phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. [14, tr 23]. Theo Người quan tâm, chăm lo lợi ích cho quần chúng nhân dân phải đi đôi với chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Đây là một vấn đề được Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước, đồng thời cũng tự mình thực hiện rất nghiêm túc. Người yêu cầu phải thực hiện tốt sáu điều sau: “Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi nhân dân; Tự mình phải làm gương mẫu cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, để nhân dân noi theo” [14, tr 24]. Hồ Chí Minh còn luôn luôn quan tâm đến vấn đề đoàn kết, vì đoàn kết là sức mạnh, vì thế, ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ 17 cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ có nhờ 5,7 người giết 2,3 anh vua; 9,10 anh quan mà được” [14, tr 25]. Dựa vào tinh thần đoàn kết của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tập hợp được lực lượng ngày càng đông đảo các giai cấp, các tầng lớp, các giới, các dân tộc, các tôn giáo…ở trong nước và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Biểu hiện cụ thể của sự đoàn kết ấy là khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng hùng mạnh thông qua các hình thức tập hợp là Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy liên minh công-nông-trí thức làm nòng cốt với tên gọi thay đổi theo từng thời kỳ cách mạng như: Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, Liên minh Dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam… Hồ Chí Minh đánh giá rất cao về dân chủ. Người cho rằng: Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng”. “Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến” và “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân, đưa cách mạng tiến lên”. Muốn củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng thì: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” [14, tr 27]. Hồ Chí Minh cho rằng: “Dân chủ là quý báu nhất của nhân dân”. Để làm cho nhân dân thực sự được hưởng dân chủ và biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định và làm rõ nội dung cốt lõi của dân chủ. Đó là, trước hết phải: “Giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào cho hợp lý, cho lợi dân…, phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự và “chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân..” [14, tr 28]. Hồ Chí Minh khẳng định: “Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường chuyên chính để cho chính quyền ta ngày càng thực sự là chính quyền của nhân dân, phục vụ nhân dân, chống lại kẻ thù của nhân dân”. [14, tr 30]. Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc rất cơ bản để xây dựng chính quyền dân chủ “vì dân và do dân”: - Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở do dân bầu cử và lập ra. 18 - Nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra, phê bình Chính phủ. “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. “Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của chúng ta” [14, tr 31]. Để duy trì và phát triển dân chủ cao độ, Hồ Chí Minh yêu cầu: - Xây dựng một tổ chức “Đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật sự dân chủ” vì “Đảng cũng ở trong xã hội”. “Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”. - Xây dựng các đoàn thể thực sự là sự tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh bực quyền lợi cho dân, liên lạc mật thiết giữa dân với Chính phủ - Phải “thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”. Vận dụng những luận điểm về phương thức công tác quần chúng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, Hồ Chí Minh rất coi trọng phương thức và tác phong công tác dân vận. Người thường xuyên giáo dục, nhắc nhở cán bộ, công chức Nhà nước phải đi sâu, đi sát quần chúng; liên hệ mật thiết với quần chúng’ “phải làm kiểu mẫu: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; tiếp thu sự phê bình trước quần chúng, nhưng không được theo đuôi quần chúng. Đặc biệt người nhấn mạnh phải thực hiện các vấn đề sau đây: - Cán bộ, đảng viên, công chức phải tự mình làm gương để quần chúng noi theo. - Phải “…nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân…phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng”, “ra lệnh, ra oai” [14, tr 32]. - Phải gần gũi quần chúng, kiên trì giải thích cho quần chúng hiểu rõ đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh căn dặn: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân là tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn đến mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết, cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rõ rằng: những việc đó là lợi ích của họ mà phải làm” [14, tr 32-33]. Người cũng dạy: “Muốn thật sự gần gũi với quần chúng thì phải cùng ăn, cùng 19 ở, cùng làm, mới biết được sinh hoạt của quần chúng như thế nào, mới biết khó khăn, biết chí khí của quần chúng như thế nào” [14, tr 33]. - Cách tổ chức và làm việc…cũng phải phù hợp với quần chúng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh thì phải có tổ chức rất bền vững mới thành công”. Người cũng căn dặn: “…cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện tuyên truyền khẩu hiệu, viết báo…của chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: Từ trong quần chúng mà ra, về sâu trong quần chúng” [14, tr 33]. Cụ thể hơn Người nói: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra, rồi báo sau, miễn là được việc” [14, tr 33-34]. - Theo Hồ Chí Minh, khi Đảng đã cầm quyền thì tất cả các cán bộ, các tổ chức trong hệ thống chính trị mà trước hết là cán bộ, công chức của chính quyền đều phải làm công tác dân vận. Người nói: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả các đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân ( Liên Việt, Việt Minh…) đều phải phụ trách dân vận.” [14, tr 34]. Như vậy, Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng truyền thống dân tộc, vận dụng sáng tạo những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về quần chúng nhân dân và công tác dân vận vào hoàn cảnh của đất nước. Nó là cơ sở tư tưởng, quan điểm chỉ đạo công tác dân vận của Đảng ta trong các thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa. 1.2.2 Những quan điểm của Đảng về công tác dân vận trong sự nghiệp đổi mới Vận dụng những tư tưởng của Hồ Chí Minh và các bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam do Đại hội lần VI của Đảng vào thời kỳ đổi mới, Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã ra Nghị quyết số 08B/NQ-HNTW “về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan