Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả bồi dương chuyên đề chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc t...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả bồi dương chuyên đề chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh ninh bình trong giai đoạn hiện nay luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

.DOC
93
194
52

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH ------------------- PHẠM THÀNH TRUNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG CHUYÊN ĐỀ “CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ” CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ SỞ TỈNH NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PPDH BỘ MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS, GVC. ĐINH TRUNG THÀNH NghÖ An, 2011 2 DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Cụm từ viết tắt CNXH UBND HNKTQT UBQG-HTKTQT CNH HĐH NXB Diễn giải Chủ nghĩa xã hội Ủy ban nhân dân tỉnh Hội nhập kinh tế quốc tế Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế Công nghiệp hóa Hiện đại hóa Nhà xuất bản 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1 Trang 3 Sự cần thiết của việc bồi dưỡng chuyên đề ”Chủ động, tích cực Hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ 12 1.1 cơ sở của tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ hội nhập............. Một số vấn đề chung về công tác bồi dưỡng chuyên đề 12 1.2 Hội nhập kinh tế cho cán bộ cơ sở trong thời kỳ hội nhập... Thực trạng công tác bồi dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ Chương 2 cơ sở ở tỉnh Ninh Bình............................................... Quan điểm, phương hướng và một số giải pháp nâng 30 cao hiệu quả bồi dưỡng chuyên đề ”Chủ động, tích cực Hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở 2.1 tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay........................... Một số quan điểm cơ bản trong công tác bồi dưỡng 50 chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc 2.2 tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình……….. Phương hướng cơ bản của công tác bồi dưỡng chuyên 50 đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho 2.3 đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình………………… Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả bồi 52 dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực HNKTQT” cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình trong bối cảnh hiện nay... Kết luận và kiến nghị.................................................................... Danh mục các tài liệu tham khảo………………………………… Phụ lục………………………………………………………………. 55 73 77 80 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở vừa hồng vừa chuyên, để lãnh đạo quản lý đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, đưa nước ta từng bước tiến lên CNXH là một vấn đề có tính chiến lược trước mắt cũng như lâu dài. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở là vấn đề bức xúc đặt ra với các cơ sở đào tạo hiện nay. Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thể hiện trực tiếp và cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở xã, phường, thị trấn, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Thời kỳ đổi mới, hội nhập của đất nước đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế xã hội. Song trước những triển vọng và điều kiện mới trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đặt ra yêu cầu các ngành, các cấp, đặc biệt là cán bộ cơ sở nhận thức đầy đủ cả về bản chất, nội dung, yêu cầu và lộ trình hội nhập để vận dụng một cách chủ động, linh hoạt và tích cực, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ của từng ngành, địa phương... Bồi dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở nhằm quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; biến tư tưởng, lý luận thành niềm tin và hành động tự giác, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng, tổ chức và trong xã hội. 2 Cùng với cả nước, Ninh Bình đang trong thời kỳ hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, đội ngũ cán bộ cơ sở trong bộ máy hành chính nhà nước tạo thành một nguồn lực lớn phục vụ cho quá trình tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ cơ sở có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý và thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cần được trang bị kiến thức mới để đương đầu với những thay đổi của thời cuộc, trong thời kỳ chuyển tiếp này cần phải có sự chuẩn bị, chọn lọc chu đáo để có một đội ngũ cán bộ trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nắm vững đường lối cách mạng của Đảng; vững vàng, đủ phẩm chất và bản lĩnh chính trị, có năng lực về lý luận, pháp luật, chuyên môn, có nghiệp vụ hành chính và khả năng thực tiễn để thực hiện công cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ cơ sở của Ninh Bình được đào tạo trong cơ chế trước đây bộc lộ nhiều hạn chế về trình độ lý luận chính trị, còn thiếu chuyên môn cần thiết, nhất là về Nhà nước, pháp luật và kỹ thuật, nghiệp vụ hành chính nhà nước để quản lý một nền kinh tế mở, nhất là trong điều kiện quan hệ quốc tế ngày càng phát triển, không chỉ như vậy, còn có một bộ phận hay mắc những khuyết điểm, sai lầm, bệnh quan liêu, mệnh lệnh, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, chấp hành luật pháp và kỷ cương không nghiêm, không tôn trọng lợi ích chung của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, đến nay việc lựa chọn, xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế các cấp ở tỉnh Ninh Bình đã có những bước tiến triển đáng ghi nhận. Ninh Bình đã dần dần trẻ hóa được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, kinh tế nhất là ở cấp cơ sở, thay đổi được một số cán bộ lãnh đạo, quản lý năng lực yếu kém, có khuyết điểm và giảm sút ý chí chiến đấu, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, bổ nhiệm được một số cán bộ có 3 phẩm chất, năng lực và tín nhiệm thay thế. Tuy nhiên, xem xét một cách nghiêm túc trên tổng thể từ vĩ mô đến vi mô, từ tỉnh đến địa phương và cơ sở vẫn thấy còn nhiều thiếu sót tồn tại, biểu hiện ở nhiều mặt. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế có đổi mới nhiều, nhưng chưa mạnh, trình độ lý luận, chuyên môn của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý còn yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi cao của cách mạng đặt ra. Nhằm nâng cao chất lượng, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu vấn đề “Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay” có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ cán bộ song, cho đến nay chưa có công trình cụ thể đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và đề ra giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng kiến thức HNKTQT cho cán bộ cơ sở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nhằm đảm bảo chỉ tiêu cả về số lượng và hiệu quả trong nội dung đào tạo nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ cơ sở theo kịp được yêu cầu của thời kỳ hội nhập. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn HNKTQT là chủ trương xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta. Phát triển tư tưởng đổi mới của Đại hội VI (1986), trong Cương lĩnh của mình, Đại hội VII (1991) chỉ rõ: "Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên xã hội chủ nghĩa... Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình". Chính sách kinh tế đối ngoại cũng được xác định 4 là: "Đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi" [7; 35]. Đại hội VIII (1996) phát triển thêm một bước: "Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực,..." [9; 54]. Đại hội IX (2001) của Đảng khẳng định thêm một lần nữa: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế...", "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường" [12; 38]. Đại hội X (2006) nhấn mạnh: "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...", "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích của đất nước làm mục tiêu cao nhất" [15; 52]. Ngoài ra, còn có các Nghị quyết khác rất cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị về công tác đối ngoại và về HNKTQT. - Quán triệt quan điểm của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo trung ương đã ban hành nhiều chỉ thị về việc trang bị những thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế và WTO cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bởi đây là cán bộ của những cơ quan trực tiếp tham mưu, giúp việc cho các lãnh đạo của Đảng, Chính quyền trong công tác hoạch định chính sách, pháp luật trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; đồng thời đóng vai trò quan 5 trọng trong việc triển khai đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Ngày 13/11/2008 Ban Tuyên giáo trung ương đã ban hành hướng dẫn Những nội dung cần chú ý khi giảng chương trình bồi dưỡng chuyên đề "Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" Kèm theo Hướng dẫn số 58 - HD/BTGTW. Cũng đã có một số công trình khoa học của các tác giả, các nhà khoa học đề cập tới tiến trình hội nhập và những tác động của nó tới công tác lãnh đạo, công tác cán bộ. Tiêu biểu cho các công trình đó, có thể kể đến: “Hội nhập quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng ta”, Hà Đăng, Tạp chí Cộng sản, Số 2+3 (122 +123) năm 2007; “Công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới”, Chu Thái Thành, Tạp chí Cộng sản, Số 1 (122) năm 2007; “Về đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”, Nguyễn Đức, Ban Tổ chức Trung ương, Tạp chí Cộng sản số 18/2008. Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức Hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình hiện nay đang là sự đòi hỏi cấp bách. Yêu cầu đổi mới tuyên truyền, phổ biến kiến thức Hội nhập kinh tế quốc tế là thường xuyên đưa cái mới vào quá trình giáo dục để tạo ra sự phát triển mới, để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục mà vẫn giữ được ổn định. Xuất phát từ yêu cầu công tác cán bộ trong thời kỳ mới của đất nước, một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, như: Luận văn thạc sĩ: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Thanh Hoá" của Cầm Bá Tiến, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay" của Vũ Đình Chuyên, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2000; Nguyễn Thị Hồng Lê: "Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong 6 giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2004. Luận văn thạc sĩ Khoa học Giáo dục của Đặng Thị Mỹ Cẩm năm 2010: “Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ đảng viên ở đảng bộ khối doanh nghiệp Đồng Tháp”. Trong các công trình trên, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở; làm rõ bản chất, đặc trưng, tầm quan trọng của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ đảng viên khối doanh nghiệp, thực trạng trình độ lý luận chính trị cũng như công tác đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ này. Trong những năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này như: Nguyễn Khoa Điềm (2004), "Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới", Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương đã nêu tầm quan trọng của việc học tập của cán bộ, đảng viên, trong đó học tập lý luận chính trị có vị trí cực kỳ quan trọng; những nội dung của công tác giáo dục lý luận chính trị; đồng thời nêu ra một số giải pháp nhằm đảm bảo yêu cầu và nhiệm vụ của công tác giáo dục lý luận trong bối cảnh hội nhập. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ bản cả về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để nâng cao kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở cấp này cấp khác. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về thực trạng cũng như nêu ra những chủ trương, giải pháp để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng chuyên đề "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" 7 cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ở tỉnh Ninh Bình (tác giả nhấn mạnh). Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp đổi mới nói chung, từng bước khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ cơ sở vừa thiếu lại vừa yếu như hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc thành quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến luận văn. Quán triệt các nghị quyết của Đảng, tiếp thu một cách có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học của các tác giả, luận văn đi sâu nghiên cứu “Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng chuyên đề "Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích Trên cơ sở đánh giá thực trạng trình độ nhận thức về Hội nhập kinh tế quốc tế của đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình, mục đích của luận văn là đề ra các giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt mục đích trên, luận văn phải thực hiện được các nhiệm vụ sau: - Làm rõ vai trò của việc bồi dưỡng chuyên đề về Hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc nâng cao trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ cơ sở. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng nhận thức của đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình về vấn đề Hội nhập kinh tế quốc tế và những nguyên nhân của thực trạng đó. 8 - Đề xuất và lý giải được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao trình độ nhận thức chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Nội dung, phương pháp, bồi dưỡng chuyên đề “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” cho đội ngũ cán bộ cơ sở tỉnh Ninh Bình. 4.1. Phạm vi Trong mối liên hệ với chính trị, luận văn phân tích, làm rõ vai trò của việc bồi dưỡng, nâng cao nhận thức chuyên đề “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về công tác giáo dục lý luận chính trị, về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý. Luận văn được trình bày dưới góc độ Khoa học Giáo dục với các phương pháp sau: - Phương pháp điều tra, khảo sát thực trạng và nhu cầu giáo dục phổ biến, bồi dưỡng kiến thức Hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở của tỉnh Ninh Bình. - Phương pháp phỏng vấn, trao đổi, trò chuyện nắm bắt tâm tư nguyện vọng của cấp ủy Đảng, cán bộ làm công tác giáo dục phổ biến, bồi dưỡng kiến thức Hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở tỉnh Ninh Bình. - Phương pháp tìm hiểu và phân tích tài liệu. 9 - Phương pháp lịch sử cụ thể. - Phương pháp thống kê. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế đối với đội ngũ cán bộ quản lý cấp cơ sở của một tỉnh vùng Đông Bắc Bộ nước ta. Đồng thời đánh giá được thực trạng nhận thức về Hội nhập kinh tế quốc tế và năng lực thực tiễn của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, đề xuất với tỉnh một số giải pháp chủ yếu để từng bước nâng cao trình độ cả lý luận lẫn thực tiễn cho họ, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. 7. Giả thuyết khoa học Nếu luận văn được thông qua thì có thể làm tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng, trường chính trị… 8. Ý nghĩa của luận văn Những kết luận được rút ra qua nghiên cứu và những chủ trương, giải pháp trình bày trong luận văn sẽ góp phần nâng cao trình độ cả lý luận lẫn thực tiễn cho đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh Ninh Bình. Đồng thời đây cũng là tài liệu để tham khảo phục vụ cho việc hoạch định chiến lược, xây dựng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cho tỉnh Ninh Bình. 9. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài gồm 2 chương, 5 tiết. 10 NỘI DUNG Chương 1 SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG CHUYÊN ĐỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ CỦA TỈNH NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1. Một số vấn đề chung về công tác bồi dưỡng chuyên đề Hội nhập kinh tế cho cán bộ cơ sở trong giai đoạn hiện nay 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản của luận văn 1.1.1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây và cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Cách hiểu đó xoay quanh hai loại ý kiến: Loại ý kiến thứ nhất quan niệm HNKTQT là quá trình các quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết quốc tế song phương, đa phương và toàn cầu về các lĩnh vực thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác có liên quan nhằm đảm bảo tính tương thích giữa hệ thống kinh tế quốc gia với hệ thống kinh tế khu vực và toàn cầu dựa trên cơ sở những nguyên tắc và qui định thống nhất. Điều thấy rõ nhất về quá trình HNKTQT từ quan niệm này là việc thống nhất các chính sách, quy định pháp lý trong từng quốc gia với nguyên tắc, thông lệ quốc tế. Loại ý kiến thứ hai quan niệm HNKTQT là quá trình các quốc gia loại bỏ dần các rào cản để hoạt động thương mại, di chuyển các yếu tố sản xuất và thanh toán quốc tế diễn ra một cách thuận lợi. Quan niệm này hiểu quá trình hội nhập gắn với quá trình tự do hóa. 11 Mặc dù có những quan niệm khác nhau nhưng quan niệm tương đối phổ biến nhất hiện nay là: “HNKTQT là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó các thành viên chịu sự ràng buộc theo những qui định chung của cả khối. Nói một cách khái quát, HNKTQT là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại, đầu tư và hoạt động kinh tế đối ngoại khác” [23; 237]. Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói chung đều hoạt động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau: - Công bằng: các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của mình và chung cho mọi nước (nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các công ty các nước đối tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung); đồng thời không phân biệt chính sách thương mại giữa các công ty: mọi chế độ chính sách liên quan đến thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa. - Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm công cụ bảo hộ cho nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy phép, quota, hạn ngạch xuất nhập khâu... đều không được sử dụng, các biểu thuế này đều phải có lộ trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do hoá hoàn toàn (thuế suất bằng 0%). - Làm ăn hay thương lượng với nhau phải trên cơ sở có đi có lại: khi nền kinh tế thị trường của một nước thành viên bị bị hàng nhập khâu đe doạ thái quá hoặc bị những biện pháp phân biệt đối xử gây hại, thì nước đó có 12 quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn cấp cần thiết, được các nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi cua nền kinh tế trong nước. - Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư. Với các điều kiện và nguyên tắc trên, nước “đi sau” như nước ta có nhiều thuận lợi, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức, mà quan trọng hàng đầu là bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp việt nam, nhất là các doanh nghiệp mới “chân ướt chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Đây không chỉ đơn thuần là việc bảo hộ thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá. Không thể có hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá kinh tế, đây là một đặc điểm mới của xu thế toàn cầu hoá ngày nay. Vấn đề quan trọng trong việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do hoá như thế nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế để có thể phát huy được các thế mạnh của đất nước, tận dụng được những ưu thế của hợp tác quốc tế, tạo rá sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia, nâng cao vị thế của mình trong phân công lao động quốc tế. 1.1.1.2. Khái niệm bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế Bồi dưỡng: Bồi dưỡng có hai nghĩa: “1. Làm cho khỏe thêm, mạnh thêm; 2. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn: bồi dưỡng đạo đức, bồi dưỡng nghiệp vụ” [30; 354]. Bồi dưỡng là quá trình hoạt động làm tăng thêm kiến thức mới cho những người đang giữ chức vụ, đang thực thi công việc của một ngạch, bậc nhất định để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao. Khối lượng kiến thức, 13 kỹ năng được quy định tại các chương trình, tài liệu phải phù hợp với từng đối tượng cán bộ, công chức. Kết quả của các khoá bồi dưỡng, người học sẽ nhận được chứng chỉ ghi nhận kết quả như: bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên hoặc bồi dưỡng chuyên đề, công tác chuyên môn, tập huấn nghiệp vụ. Như vậy, bồi dưỡng cán bộ cơ sở là một phương tiện để đạt tới mục đích cuối cùng chứ bản thân nó không phải là mục đích cuối cùng. Công tác bồi dưỡng theo như thường hiểu, bao hàm nhiều hoạt động giáo dục và phát triển chứ không chỉ là một phần của chương trình học tập kiến thức, kỹ năng. Công tác bồi dưỡng là một bộ phận của chiến lược tổng thể quản lý nguồn nhân lực bao gồm lập kế hoạch và công tác quản lý cán bộ; các quy định nhiệm vụ cho công chức, lương bổng, các sáng kiến quản lý công việc và năng suất công tác; các mối quan hệ lao động trong cơ quan, tổ chức v.v. Bồi dưỡng Cán bộ công chức ở cơ sở giữ vai trò bổ trợ, tăng cường kiến thức, kỹ năng để người cán bộ cơ sở có đủ năng lực đáp ứng hoạt động quản lý, điều hành. Đào tạo và bồi dưỡng là hai khái niệm phản ánh cùng một mục tiêu là truyền kiến thức cho người công chức. Tuy vậy, hai thuật ngữ này có những tính chất, nội dung, phạm vi tồn tại và quy trình khác nhau. Quan niệm này mang tính thực tiễn của Việt Nam và cũng phù hợp với khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng trong Từ điển tiếng việt do Nxb Đà Nẵng phát hành năm 2004: đào tạo, bồi dưỡng là làm tăng năng lực và phẩm chất cho người được đào tạo, bồi dưỡng. Khái niệm bồi dưỡng được dùng với nghĩa là cập nhật, bổ túc thêm một số kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ bản, cung cấp thêm những kiến thức chuyên ngành, mang tính ứng dụng... 14 Bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế là việc nâng cao nhận thức và trang bị thêm cho lãnh đạo, cán bộ quản lý và các doanh nghiệp những kiến thức về công tác đối ngoại và tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước. 1.1.1.3. Khái niệm về cán bộ cơ sở Khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục năm gần đây để chỉ một lớp người là những chiến sỹ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc. Tên gọi cán bộ đã từng để lại dấu ấn đẹp trong lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo. Từ cán bộ được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc và được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ban đầu, từ này được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán bộ. Từ cán bộ dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở lên. Dần dần từ cán bộ được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kháng chiến thoát ly, để phân biệt với nhân dân. Trong từ điển Nhật – Việt, từ cán bộ cũng được dùng tương tự như ở Trung Quốc, có nghĩa là người ở hạng cao (trong một tổ chức đoàn thể), là yếu nhân. Ở Nhật hiện nay, từ cán bộ phần lớn được dùng trong quân đội để chỉ những người đóng vai trò quan trọng, còn để chỉ công chức hay viên chức thì họ dùng từ quan liêu (dùng để chỉ những người làm trong bộ máy nhà nước. Nghĩa của từ cán bộ ở Nhật trung thành nhiều hơn với từ gốc mà nó được dịch ra (Cadre). Trong tiếng Pháp cũng như tiếng Anh, từ này có nhiều nghĩa, tựu trung có hai nghĩa chủ yếu được chuyền vào từ cán bộ của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam. Nghĩa thứ nhất là cái khung (ảnh), cái khuôn. Nghĩa thứ hai là người nòng cốt, những người chỉ huy trong quân đội, trong một tổ chức làm thành một nòng cốt. 15 Cũng như hiện tượng chung của ngôn ngữ, từ cán bộ, khi du nhập vào nước ta đã được áp dụng theo thực tiễn tâm lý – văn hóa Việt Nam, nên đã biến đổi không còn nguyên như nghĩa gốc. Tuy nhiên, cái hàm nghĩa: bộ khung, người làm nòng cốt, người chỉ huy luôn được lưu giữ và nhận thức. Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, quân đội. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi như những người có mức lương từ cán sự (cũ) trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương thấp hơn cán sự một. Trong Từ điển Tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa: - Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, đảng và đoàn thể. - Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ. Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau: - Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa: một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hội viên; hai là, những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ chức đảng và đoàn thể. - Trong hệ thống nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phòng, vụ, cục, v.v…). 16 Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có khác nhau, nhưng về cơ bản, từ cán bộ bao hàm nghĩa chính của nó là bộ khung, là nòng cốt, là chỉ huy. Như vậy có thể quan niệm một cách chung nhất, cán bộ là khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức. Trong hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt gồm: bí thư, phó bí thư và các ủy viên ban thường vụ đảng ủy là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt Đảng ở cơ sở; chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch, phó chủ tịch UBND là những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt chính quyền cơ sở; người đứng đầu các đoàn thể chính trị - xã hội gồm mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh, hội nông dân là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt đoàn thể ở cơ sở. Như vậy, đội ngũ cán bộ cơ sở, ngoài những chức danh chuyên môn theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP của Chính phủ còn các chức danh khác đều thông qua bầu cử và làm việc có nhiệm kỳ. 1.1.2. Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về Hội nhập kinh tế quốc tế Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng quan tâm và dày công xây dựng Đảng thành một khối đại đoàn kết thống nhất vững mạnh, trong sạch. Người thường chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ trở thành những con người vừa hồng vừa chuyên. Người còn dạy “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém…”. Những tư tưởng của Người về công tác cán bộ vẫn luôn là 17 những giá trị thực tiễn, là bài học kinh nghiệm vô giá trong công cuộc dựng xây nhà nước pháp quyền hiện nay và mai sau. Bên cạnh đó, quan điểm nổi bật trong hội nhập và hợp tác quốc tế của Hồ Chí Minh là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, thể hiện tư tưởng hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi. Một lần trả lời các nhà báo, Hồ Chí Minh đã nói: Có thể rằng, chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác. Có thể rằng: chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện đất nước còn nghèo thì hội nhập, hợp tác quốc tế, sự giúp đỡ của các nước là một nguồn vốn quý cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta. Người không bao giờ nhầm lẫn giữa những giá trị văn minh của nhân loại với những xấu xa của chủ nghĩa tư bản thực dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ rằng, mọi thành tựu của khoa học kỹ thuật, mọi nguồn lực kinh tế, văn hóa đã được tạo ra đều là tài sản chung của văn minh nhân loại. Do đó, nước ta phải tích cực hội nhập thông qua các hình thức hợp tác quốc tế để khai thác tốt nhất mọi giá trị nguồn lực của nhân loại nhằm làm giàu và tăng cường sức mạnh cho dân tộc, giữ vững quyền độc lập tự do, mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào. Từ địa vị một nước thuộc địa mới giành độc lập, lại nghèo, trong hội nhập, hợp tác với các nước, bao giờ cũng tiềm ẩn nhiều điều bất lợi. Do vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi hợp tác, quan hệ quốc tế phải trên cơ sở thật thà và cùng có lợi, chống lại mọi thủ đoạn để dẫn tới sự can thiệp và thôn tính lẫn nhau. Người khẳng định: Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với công dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam sẽ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng