Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển n...

Tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam – chi nhánh sóc sơn – hà nội

.DOC
92
145
127

Mô tả:

1 LỜI CAM ĐOAN Tôi là Hoàng Sỹ Thắng, học viên cao học lớp khóa 6, chuyên ngành Tài chính – Ngân hàng, trường Đại học kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, khoá 2011 – 2013. Bản luận văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo: PGS.TS. Mai Văn Bạn. Tôi xin cam đoan công trình này được nghiên cứu một cách nghiêm túc, độc lập và các số liệu, tư liệu, kết quả có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm những vấn đề liên quan về nội dung công trình này. Hà Nội, ngày tháng năm 2013 Tác giả ký tên Hoàng Sỹ Thắng 2 MỤC LỤC 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHNo&PTNT VN Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam NHNo&PTNT VN- Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt chi nhánh Sóc Sơn Nam- chi nhánh Sóc Sơn CIC Trung tâm thông tin tín dụng DAĐT Dự án đầu tư DNNN Doanh nghiệp nhà nước NHTW Ngân hàng Trung Ương KTĐN Kinh tế đối ngoại NHNN Ngân hàng nhà nước NHTMCP Ngân hàng thương mại Cổ phần PGD Phòng giao dịch TSCĐ Tài sản cố định DPRR Dự phòng rủi ro 4 DANH MỤC BẢNG BIỂU 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài : Hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động truyền thống mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu cho các Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên tín dụng ngân hàng luôn hàm chứa nhiều rủi ro và nếu xẩy ra rủi ro nó có tác động rất lớn tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Đối với hầu hết các ngân hàng thương mại, dư nợ tín dụng thường chiếm tới khoảng 60% tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 60-70% tổng thu nhập của ngân hàng. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn hình thành và phát triển hơn 25 năm, tuy nhiên quy mô cơ cấu và địa bàn hoạt động tín dụng của Chi nhánh chưa tương xứng với bề dày lâu đời của mình. Tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn hiện nay cấp tín dụng chủ yếu là cho vay, tuy nhiên chất lượng tín dụng còn thấp. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, yêu cầu đặt ra là phải kiểm soát tăng trưởng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Với kinh nghiệm tích luỹ được từ thực tế công tác tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn, kết hợp với những kiến thức và lý luận được trang bị trong khoá học đào tạo Thạc sỹ tại Trường Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội, Tôi đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi Nhánh Sóc Sơn – Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ của mình. 2 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giải quyết những vấn đề sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. - Phân tính, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn, từ đó phát hiện những điểm còn hạn chế còn tồn tại về chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Sóc Sơn, tìm hiểu nguyên nhân. - Trên cơ sở tìm hiểu được nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong chất lượng tín dụng của Chi nhánh Sóc Sơn, đề xuất quan điểm và giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. - Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn, thời gian từ 2010 - 2012. 4. Phương pháp nghiên cứu Để nắm được một cách đầy đủ về thực trạng, người viết tiến hành thực hiện các cuộc khảo sát sau : - Khảo sát thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sóc Sơn để đánh giá đúng thực trạng tín dụng đã và đang thực hiện. Sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, so sánh để thực hiện luận văn. 3 - Thảo luận với một số nhà quản lý, kiểm soát viên nội bộ và cán bộ tín dụng làm việc lâu năm tại Hội sở và Phòng Giao dịch như: Ban Giám đốc, Trưởng phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ, Phó Trưởng phòng tín dụng, Giám đốc Phòng giao dịch…để đúc kết được những thông tin xác thực và trọng yếu. - Tổng hợp và phân tích các bài viết,các báo cáo từ các tạp chí của NHNN, chuyên đề nghiên cứu trao đổi của NHNN qua các năm, các tạp chí tài chính, kinh tế, các bài viết trên website của các Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro…: về tín dụng ngân hàng - Tổng hợp, hệ thống lại các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Quy chế… của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành và đang có hiệu lực thi hành; Các chỉ thị, Quy chế, Hướng dẫn thực hiện của Ngân hàng No&PTNT Việt nam đã ban hành và đang có hiệu lực thi hành. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được bố cục làm 03 chương: - Chương 1: Những cơ sở lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại - Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam -Chi nhánh Sóc Sơn trong thời gian qua. - Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam - Chi nhánh Sóc Sơn. 4 CHƯƠNG 1 NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái niệm và vai trò của tín dụng NHTM 1.1.1. Khái niệm về tín dụng Ngân hàng thương mại Tín dụng là một phạm trù kinh tế, bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả lãi và vốn sau một thời gian nhât định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ được duy trì trên cơ sở thoả thuận bình đẳng và cùng có lợi giữa người đi vay và người cho vay. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Bởi các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Vậy tín dụng Ngân hàng là gì ? “Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là Ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người cho vay vừa là người đi vay” Đây là hình thức tín dụng chủ yếu của nền kinh tế thị trường, nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời. NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội, vậy NHTM là gì: Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá 12 thông qua ngày 16/06/2010, tại khoản 2, điều 4: " Ngân hàng thương 5 mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận ". (cũng theo luật này thì Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán). Nhưng một vấn đề đặt ra là liệu những người thiếu vốn và những người thừa vốn có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày hàng giờ diễn ra không biết bao nhiêu là mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành nên: Một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía bên kia là những người có nhu cầu vay cho đằu tư và phát triển. Như vậy nảy sinh một vấn đề là làm thế nào để họ có thể tìm gặp đượcnhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiết kiện còn đang nằm phân tán trong xã hội. Do đó các NHTM với chức năng là trung gian tài chính,hoạt động như một chiếc cầu nối giữa khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội. Đồng thời với tư cách là trung gian tín dụng Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại tiên tiến. Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiện dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi đúng lúc cho người vay. 1.1.1.1 Khái niệm huy động vốn Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động ra đời sớm nhất của NHTM dưới hình thức ban đầu là nhận giữ hộ tiền. Ngày nay, hoạt động huy động vốn của NHTM được diễn ra duới nhiều hình thức khác nhau như 6 mở tài khoản tiền gửi thanh toán để ngân hàng thực hiện thanh toán hộ khách hàng, tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay các ngân hàng và TCTD khác, vay NHNN… Huy động vốn đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra nguồn vốn cho hoạt động của NHTM. Huy động vốn có các hình thức cơ bản sau: + Huy động vốn tiền gửi: Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi của dân cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán của tổ chức). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động vốn nợ của NHTM. + Huy động từ phát hành các công cụ nợ: chủ yếu là phát hành kỳ phiếu và trái phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn cho các NHTM. Trái phiếu phát hành để huy động vốn trung - dài hạn cho NHTM. Hình thức huy động thông qua các công cụ nợ này mang tính ổn định hơn, làm tăng khả năng huy động vốn của NHTM trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng nguồn vốn. + Huy động từ vay các NHTM: các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm điều hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ đảm bảo tốt khả năng thanh khoản của NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn giản và nhanh gọn có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý (hoặc NHTW) và khoản vay thường không có bảo đảm (nếu có thường là chứng khoán của kho bạc). 1.1.1.2 Khái niệm cho vay (cấp tín dụng) Hoạt động Tín dụng (Credit) được xuất phát từ tiếng Latinh là credo tức là tin tưởng, tín nhiệm. Trong thực tế hoạt động tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà mỗi cách hiểu có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính - tín dụng có thể được hiểu theo một số nghĩa như sau: - Xét theo góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể có thặng dư tiết 7 kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì hoạt động tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. - Trong một quan hệ tài chính cụ thể, hoạt động tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. - Xét trên góc độ quan hệ giữa bên cho vay và bên đi vay thì hoạt động tín dụng có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. - Nếu hoạt động tín dụng được xem xét như một chức năng của NHTM thì được hiểu như sau: Hoạt động Tín dụng là một hoạt động giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác nhau) và bên bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Bản chất hoạt động tín dụng là một hoạt động quan hệ về tài sản có hoàn trả và có một số đặc trưng cơ bản sau: + Tài sản trong quan hệ tín dụng Ngân hàng dưới hai hình thức là bằng tiền và bằng tài sản Bất động sản hay động sản. + Vì phải hoàn trả nên người cho vay phải có cơ sở tin tưởng rằng người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn (tín nhiệm hay tài sản ràng buộc nghĩa vụ của Người vay đối với người cho vay). + Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác người đi vay phải hoàn trả cả vốn gốc vay và lãi (đủ đảm bảo cho hoạt động của người cho vay bù đắp chi phí và có được mức lợi nhuận nhất định tương xứng với rủi ro mà NHTM có thể gánh chịu). Các nguyên tắc cơ bản trong cho vay của NHTM Nguyên tắc cho vay của NHTM đối với khách hàng bao gồm 2 nguyên tắc cơ bản sau: - Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Nghĩa là khách hàng 8 vay vốn phải sử dụng vốn vay vào những mục đích hợp pháp như trong giấy phép đăng ký kinh doanh, theo những đối tượng được cơ chế cho phép. Có như vậy vốn vay mới có cơ sở tạo ra hiệu quả, có điều kiện trả nợ ngân hàng. - Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn: Đảm bảo tính thanh khoản trong hoạt động là mục đích tối thượng của các NHTM, bởi lẽ vốn của NHTM cho vay có nguồn gốc chủ yếu là vốn huy động (đi vay). Vì vậy, ngân hàng phải hoàn trả vốn cho khách hàng cho mình vay đúng hạn. Hơn nữa ngân hàng cũng phải chi phí trong cho vay, nộp thuế và phát triển kinh doanh 1.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM. Lãi thu được từ hoạt động tín dụng bù đắp được chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, thuế và các khoản chi phí rủi ro đầu tư của ngân hàng. Hơn thế, thông qua hoạt động tín dụng, NHTM khẳng định vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế, đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. 1.1.2.1. Vai trò của huy động vốn - Vai trò đối với khách hàng Đối với khách hàng, hoạt động huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho những khoản tiền của họ được sinh lợi, tạo cơ hội cho họ gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Ngoài ra, nó cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi, giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng khác như dịch vụ thanh toán, tín dụng… - Vai trò đối với NHTM Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Bởi vì với đặc trưng hoạt động của NHTM, vốn không chỉ là phương tiện kinh 9 doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Chính vì vậy có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Thứ nhất: Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô hoạt động của các ngân hàng. Nguồn vốn khả dụng của ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, hoạt động bảo lãnh hay trong hoạt động thanh toán của ngân hàng. Nếu khả năng vốn của ngân hàng lớn thì ngân hàng có thể mở rộng qui mô khối lượng tín dụng, có thể tài trợ cho các dự án lớn (về qui mô tín dụng, về thời hạn tín dụng…) và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ của ngân hàng. Thứ hai: Nguồn vốn huy động giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh. Trong cơ cấu vốn của ngân hàng thì ngoài phần vốn tự có thì còn có vốn huy động, vốn vay và các nguồn vốn khác. Một ngân hàng không thể chỉ hoạt động với nguồn vốn tự có vì vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu vốn của ngân hàng. Nguồn vốn lớn làm tăng khả năng hoạt động của ngân hàng như chủ động đa dạng hoá các hình thức và phương thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro và tăng lợi nhuận, phục vụ cho mục tiêu cuối cùng của ngân hàng là an toàn và sinh lời. Thứ ba: Vốn huy động giúp ngân hàng nâng cao vị thế của mình. Để đảm bảo cho việc thu hút khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình thì ngân hàng phải tạo được niềm tin với khách hàng. Điều này được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng cao chỉ khi ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn. Mặt khác uy tín của ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng. 10 Ngân hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như ngân hàng có nguồn vốn lớn và ổn định- Điều này phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của ngân hàng. Thứ tư: Vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài việc phải có chiến lược cạnh tranh hợp lý thì yếu tố vế khả năng tài chính luôn giữ vai trò quyết định cuối cùng. Nếu ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn thì có thể chủ động mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian và thời hạn cho vay thậm chí trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn có thể phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, tham gia vào nhiều các hoạt động khác như liên doanh liên kết. đầu tư trên thị trường vốn, trên thị trường tiền tệ… Bằng chính những hoạt động này sẽ góp phần phân tán rủi ro, thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng… Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. - Vai trò đối với nền kinh tế Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ, lẻ và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các NHTM. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành đầu tư góp phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế. Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện để thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn 11 với việc huy động vốn của các NHTM. Tuy việc huy động vốn có thể thực hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước...nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua hệ thống NHTM vẫn là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất. 1.1.2.2. Vai trò của cho vay (Cấp tín dụng) - Vai trò đối với khách hàng Với tư cách là trung tâm tín dụng, các NHTM có vai trò rất quan trọng trong việc tích tụ và tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi nằm rải rác trong dân cư đáp ứng nhu cầu vốn cho các khách hàng trong nền kinh tế để thực hiện tái sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt, đối với Việt Nam hiện nay khi thị trường vốn chưa phát triển đầy đủ, nguồn vốn tín dụng ngân hàng luôn là chỗ dựa cho các doanh nghiệp khi cần vốn Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mang tính chất toàn cầu, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã chuyển từ giá cả sản phẩm sang chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Để đi vào cuộc tranh đua có tính chất toàn cầu này, giữa hàng nội với hàng nội, giữa hàng nội với hàng ngoại đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới công nghệ, bắt kịp tốc độ phát triển công nghệ của thế giới, đầu tư mở rộng sản xuất. Đối với các doanh nghiệp ở nước ta, đổi mới công nghệ là những đòi hỏi cần thiết để tồn tại và phát triển. Vấn đề quyết định công nghệ là vốn đầu tư do vậy cần có vai trò của các NHTM. NHTM có thể huy động nguồn vốn trung dài hạn để cho vay, tài trợ cho hoạt động đổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất cho doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh cho danh nghiệp. Khi doanh nghiệp muốn tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh hiệu quả, sử dụng tối ưu những đồng vốn của mình. Bởi, vốn của NHTM vận động vì mục đích lợi nhuận theo công 12 thức T-T’ và T’ luôn lớn hơn T do T=T’+ΔT, ΔT>0. Điều này chỉ ra rằng trong mối quan hệ này khách hàng vay vốn cũng buộc phải sử dụng tiền vay vì mục đích lợi nhuận, vì chỉ có sinh lợi mới tạo ra lợi nhuận cho bản thân mình và lợi tức cho ngân hàng. Do đó, tín dụng ngân hàng góp phần làm cho doanh nghiệp phải tự điều chỉnh hoạt động kinh doanh theo xu hướng hiệu quả, tiết kiệm chi phí, sử dụng những công nghệ tiên tiến, hiện đại, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Và khi các doanh nghiệp trong nước có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ thì quốc gia sẽ có khả năng cạnh tranh với các quốc gia khác trong cùng khu vực và thế giới, tạo tiếng nói có trọng lượng đối với thế giới. - Vai trò đối với nền kinh tế Tín dụng ngân hàng góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp chuyển đổi ngành nghề kinh doanh, từ ngành đang bị kìm hãm phát triển sang ngành sản xuất đang được ưu tiên, chú trọng phát triển. Đồng thời, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy những doanh nghiệp đang ở ngành sản xuất mũi nhọn cần chú trọng phát triển đầu tư mở rộng sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển của Nhà nước. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng đã thực hiện sự phân phối lại vốn giữa các ngành phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế quốc dân một cách hiệu quả, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tín dụng ngân hàng còn góp phần vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành kinh tế khác nhau một cách hợp lý. Chính sách tiền tệ là một công cụ quan trọng để Chính phủ điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Thông qua việc kiểm soát hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại bằng các công cụ như lãi suất, tỷ lệ chiết khấu, quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng…, Chính phủ có thể kiểm soát chặt chẽ luồng tiền trong 13 lưu thông, quyết định mức cung tiền phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua của đồng tiền. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng của các NHTM, Ngân hàng nhà nước điều tiết nền kinh tế. Đồng thời, vốn tín dụng là một kênh vốn quan trọng cho doanh nghiệp, cá nhân, hộ kinh doanh, đặc biệt ở những nước có hệ thống tài chính do hệ thống ngân hàng chi phối như ở nhiều nước ở Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…v.v.) và Việt Nam. 1.2 KHÁI NIỆM VÀ CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Khái niệm và các tiêu chí phản ánh chất lượng nguồn vốn huy động 1.2.1.1. Khái niệm Chất lượng luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất nào về chất lượng. Theo nhà kinh tế học của Mỹ Juran, chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng. Theo tiêu chuẩn ISO 9000-2000, chất lượng là toàn bộ các đặc tính của sản phẩm, hệ thống, quá trình đáp ứng yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan. Theo Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO, “ Chất lượng là tổng thể các đặc điểm và đặc tính của một sản phẩm hoặc dịch vụ có ảnh hưởng đến khả năng thoả mãn được những nhu cầu được nêu ra” (trích 1987/ISO8402). Là một tổ chức kinh tế trong nền kinh tế, các NHTM cũng rất quan tâm đến chất lượng hoạt động kinh doanh của mình, trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng tín dụng. Chất lượng huy động vốn là một phạm trù kinh tế 14 phản ánh các đặc tính của tín dụng, thể hiện mức độ đáp ứng yêu cầu của các khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu phát triển của ngân hàng trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Như vậy Chất lượng huy động vốn được hiểu gắn liền với nhiều góc độ xem xét, nhìn nhận trên nhiều phương diện khác nhau từ nguời khách hàng, NHTM, xã hội: - Khách hàng gửi tiền: thể hiện sự đáp ứng tốt về Lãi suất huy động, về tính thanh khoản khi khách hàng rút tiền gửi đến hạn, trước hạn. - Nền kinh tế: Thúc đẩy được sự tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ, cơ cấu ngành trong nền kinh tế và đảm bảo góp phần kiềm chế lạm phát và hỗ trợ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế khác của Nhà nước. - Ngân hàng Thương mại: trước hết ngân hàng có nguồn để đảm bảo được khả năng an toàn (đảm bảo thu hồi vốn vay đúng hạn đáp ứng tốt khả năng thanh khoản) và khả năng sinh lợi (đảm bảo thu hồi đủ lãi cho vay và đồng thời thu hút tốt hơn các dịch vụ khác cho Ngân hàng tạo nguồn thu nhập cao, ổn định) là mục tiêu quan trọng và mang tính tổng quát nhất. Ta có thể hiểu thêm cụ thể hơn trong các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của NHTM. Vậy có thể hiểu: Chất lượng huy động vốn là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh nguồn vốn tăng trưởng ổn định, đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh doanh của Ngân hàng góp phần đáp ứng vốn cho khách hàng kinh doanh có hiệu quả với một chi phí hợp lý, đồng thời với ngân hàng góp phần tồn tại và phát triển. Chất lượng huy động vốn được phản ánh cả chỉ tiêu định tính và định lượng 1.2.1.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng huy động vốn Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì quy mô vốn huy động tiền gửi là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì điều mà ngân 15 hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động được đo lường như sau: Tốc độ tăng trưởng nguồn = X 100 vốn huy động Chỉ tiêu này cho thấy tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động tại ngân hàng có ổn định hay không. Nếu nguồn vốn tăng trưởng ổn định trong thời gian dài sẽ tạo điều kiện cho việc cân đối vốn để phục vụ cho nhu cầu đầu tư và cho vay nhằm đạt mục tiêu sinh lời. Đây là chỉ tiêu mang tính định tính về chất lượng nguồn vốn. Có thể thấy hoạt động huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng, không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh hay cơ cấu vốn của ngân hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với ngân hàng, do mỗi nguồn vốn có những điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường. Chi phí huy động vốn là tất cả các khoản chi mà ngân hàng chi ra để phục vụ cho hoạt động huy động vốn. Nói cách khác là khoản tiền mà ngân 16 hàng phải bỏ ra để có được quyền sử dụng khoản vốn đó. Chi phí huy động càng cao có nghĩa là lãi suất huy động càng lớn, càng khuyến khích người gửi tiền vào nhưng nếu chi phí huy động quá cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Các ngân hàng luôn tìm cách để đạt được mục tiêu huy động càng nhiều vốn với chi phí thấp. Chính vì thế, việc xem xét chi phí trả lãi cho nguồn vốn huy động và sự biến động của chi phí này luôn được các ngân hàng quan tâm, là một việc làm thường xuyên trong công tác quản trị nguồn vốn huy động. Thành phần cơ bản của chi phí huy động vốn của các ngân hàng thể hiện ở khoản chi phí trả lãi (trả lãi cho tiền gửi và tiền vay), cùng với khoản chi phí không dưới dạng lãi suất (chi phí phi lãi) mà ngân hàng phải bỏ ra để huy động vốn. Chi phí huy động bình quân được tính như sau: Chi phí huy động bình quân Chi phí huy động vốn = Tổng nguồn vốn huy động Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, được tính bằng bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn. Chỉ tiêu huy động bình quân là chỉ tiêu phản ánh chi phí huy động vốn trung bình của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định, có nghĩa là để được quyền sử dụng một đồng vốn huy động thì ngân hàng phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí để trả cho người sở hữu khoản vốn đó. 1.2.2. Khái niệm và các tiêu chí phản ánh chất lượng cho vay 1.2.2.1. Khái niệm Chất lượng cho vay là khả năng đáp ứng vốn của NHTM cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách kịp thời đầy đủ và quy mô, loại hình góp phần sản xuất kinh doanh của khách hàng có hiệu quả, nền kinh tế phát triển và ngân hàng tồn tại, phát triển. Chất lượng cho vay (cấp tín dụng) được đo bằng chỉ tiêu định tính và
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan