Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện...

Tài liệu Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta luận văn ths. luật

.PDF
133
236
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƯƠNG THÚY HÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƯƠNG THÚY HÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2012 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU Chương 1: 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN 6 CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân 6 1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố 6 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động thực hành quyền công tố 16 1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp 19 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật quy định về hoạt động thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 23 1.3 Những quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố ở một số nước 30 1.3.1. Một số quốc gia theo hệ thống án lệ 31 1.3.2. Một số quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa 33 1.3.3. Một số quốc gia khu vực châu Á- Thái Bình Dương 36 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH 44 SỰ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành 44 quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân 2.1.1. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) 44 2.1.2. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 45 2.1.3. Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 49 2.1.4. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 49 2.1.5. Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 62 2.1.6. Một số ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp luật thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay 64 Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội 65 2.2.1. Vài nét về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thành phố Hà Nội 65 2.2.2. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội 67 Những tồn tại, hạn chế của hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và những nguyên nhân của nó 76 Chương 3: 84 2.2. 2.3. NHỮNG QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Những quan điểm cơ bản nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện 84 3.2. Những phương hướng nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp 89 3.2.1. Đổi mới và nâng cao chất lượng của bộ máy tổ chức cán bộ và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện 89 3.2.2. Quán triệt và nắm vững các đường lối chính sách và yêu cầu đổi mới trong thực hành quyền công tố, nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên cấp huyện 92 3.2.3. Nâng cao trách nhiệm và năng lực thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện 94 3.2.4. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố 98 3.2.5. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện 102 3.2.6. Tăng cường sự phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp huyện với các phòng ban, đơn vị khác trong công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm 103 3.2.7. Hoàn thiện hệ thống pháp luật - cơ sở pháp lý của hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát và tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn luật 105 3.2.8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc cải cách tư pháp 108 3.2.9. Tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên cấp huyện 109 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện 112 KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118 3.3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống các cơ quan cấu thành bộ máy nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ. Xác định được tầm quan trọng của hệ thống cơ quan này, thời gian qua, cùng với việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có VKSND. Đây là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng được thể hiện trong nhiều văn kiện: Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà mục tiêu là "xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…" [13], trong đó có yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp. Cho đến thời điểm hiện nay, qua triển khai thực hiện các nghị quyết trên của Đảng, đã có nhiều hội nghị tổng kết xác định công tác tư pháp đã đạt được những kết quả khả quan, có nhiều chuyển biến tích cực trong công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân: Đã khắc phục một bước trong việc lạm dụng bắt khẩn cấp, bắt oan, sai; tỷ lệ bắt, giam, giữ đưa ra truy tố đạt cao; công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt, đã và đang giải quyết được nhiều vụ án tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng, xử lý nghiêm minh,... Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cần được nghiên cứu làm rõ và tìm ra cách khắc phục nguyên nhân 1 nhằm đẩy mạnh tiến trình cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của công cuộc đổi mới. Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND là một dạng thực hành quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Không có cỏ nhân, cơ quan nhà nước nào có thể thay thế VKSND trong việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà, trong việc thực hiện quyền kiểm sát hoạt động điều tra, kiểm sát hoạt động xét xử…Đây là một chức năng mà VKSND đã đảm đương từ nhiều năm, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc, chưa đạt được sự thống nhất cao trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả việc thực hiện chức năng của VKSND. Do đó, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề trên không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác tư pháp nói chung, công tác kiểm sát nói riêng, hoàn thành nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao phó, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp. Để góp phần vào việc cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động của VKSND, đồng thời làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn thông qua hoạt động của VKSND ở cấp huyện, đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này, tác giả chọn đề tài "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là các chức năng hiến định của VKSND. Để thực hiện các chức năng nhiệm vụ đặt ra cho VKSND, pháp luật đã quy định cụ thể thẩm quyền của VKSND các cấp trong từng giai đoạn để thực hiện chức năng hiến định này. Các quy định 2 về thẩm quyền của VKSND các cấp không nằm trong một bộ luật cụ thể mà được thể hiện xuyên suốt trong hệ thống pháp luật, nhằm mục đích tạo điều kiện cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở từng mối quan hệ pháp luật trong từng giai đoạn tố tụng khác nhau. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả với các ý kiến và quan điểm khác nhau về vấn đề này đã được công bố. Đáng chú ý là các công trình sau: - "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra", của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005. - Luận án tiến sĩ Luật học "Quyền công tố ở Việt Nam", của Lê Thị Tuyết Hoa, 2002. - Luận văn thạc sĩ Luật học: "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh", của Trần Văn Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. - Luận văn thạc sĩ Luật học: "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội", của Hà Thị Minh Hạnh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2007. - Luận văn thạc sĩ Luật học: "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân", của Phan Thị Thuý Lan, Học viện Hành chính quốc gia, 2007. - Đề tài khoa học cấp Nhà nước: "Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam", của Bộ Tư pháp, 2005. Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả khác đã được đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề của VKSNDTC qua các năm, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ… Các công trình nghiên cứu, bài viết trước đây chỉ đề cập đến tình hình cải cách hệ thống tư pháp nói chung hoặc đi sâu vào từng vấn đề nghiệp vụ 3 chuyên ngành mà chưa tổng hợp nghiên cứu những căn cứ pháp lý, chức năng nhiệm vụ của toàn bộ quá trình tố tụng từ khi có dấu hiệu tội phạm đến khi xét xử xong, để từ đó phát hiện và kiến nghị đổi mới theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Vì vậy, việc nghiên cứu "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta" nhằm phát hiện những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, bất cập, đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND, đặc biệt đối với VKSND cấp huyện là vấn đề cần thiết và cấp bách trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn tập trung nghiên cứu và góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận chức năng của VKSND, thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố ở VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác này theo yêu cầu của cải cách tư pháp. 3.2. Nhiệm vụ Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Những quy định của pháp luật thực định về thực hành quyền công tố, thực trạng áp dụng những quy định đó trong hoạt động thực hành quyền công tố ở VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Trên cơ sở đó, đánh giá chất lượng của công tác này, những kết quả đã đạt được, những vấn đề thiếu sót, tồn tại và làm rõ nguyên nhân của chúng, đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4 Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền công tố, chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2005 đến 2010. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung, về cải cách tư pháp nói riêng, chính sách pháp luật Đảng và Nhà nước ta trong tố tụng hình sự, luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn,… 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn góp phần nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp huyện, thực tiễn của chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện trên một địa bàn có vị trí quan trọng về nhiều mặt là Thủ đô Hà Nội, đánh giá các kết quả cũng như các thiếu sót, tồn tại và đề ra các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng của việc thực hiện chức năng này của VKSND cấp huyện. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay. 5 Chương 3: Những quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÕ CỦA HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là chức năng hiến định của VKSND trong giai đoạn hiện nay và cũng là một nhiệm vụ mà VKSND vốn đảm nhiệm đã từ nhiều năm, ngay từ khi tổ chức tiền thân của nó là Viện công tố ra đời. Mặc dù vậy, cho đến nay, trong khoa học pháp lý nói chung, trong khoa học kiểm sát nói riêng và ngay cả trong thực tiễn hoạt động của VKSND vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao về các vấn đề này cả trên phương diện khái niệm, nội dung, đối tượng và phạm vi của thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng như mối quan hệ giữa chúng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến nhận thức mà còn tác động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể trong hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung, cơ quan VKSND nói riêng. Để góp phần từng bước nâng cao hiệu quả và dần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác kiểm sát, điều không thể thiếu được là cần phải làm rõ từ trong nhận thức về các vấn đề cơ bản có liên quan đến các hoạt động chức năng này: Khái niệm thế nào là quyền công tố, thực hành quyền công tố, thế nào là kiểm sát các hoạt động tư pháp, đối tượng, nội dung, phạm vi cũng như mối quan hệ của chúng. 1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố 1.1.1.1. Quyền công tố a) Khái niệm quyền công tố 7 Quyền công tố là một hoạt động tố tụng vì lợi ích công cộng đối với người phạm tội đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Cùng với thời gian, đến nay, quyền công tố đã trở thành một chế định pháp lý độc lập được thừa nhận chung trong luật tố tụng hình sự ở đa số các nước văn minh trên thế giới. Ở nước ta, về mặt lập pháp, thuật ngữ quyền công tố được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1980 khi đề cập đến chức năng, nhiệm vụ của VKSND (tại cụm từ "thực hành quyền công tố"). Từ đó đến nay, trong khoa học và trong thực tiễn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về khái niệm cũng như các vấn đề có liên quan: đối tượng, phạm vi, nội dung, chủ thể thực hành của quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố nhưng chưa có quan điểm nào được các cơ quan có thẩm quyền chính thức công nhận và cũng chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn một cách chính thức về các vấn đề này. Theo Từ điển tiếng Việt thì "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án". Như vậy, theo từ điển tiếng Việt thì "công tố" được hiểu với các nội dung khác nhau bao gồm: Điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án. Trong giới nghiên cứu khoa học, về khái niệm thế nào là quyền công tố có thể kể đến một số quan điểm như sau: Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND đều là thực hành quyền công tố. Những người theo quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND. Theo họ, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKSND mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND. Theo tác giả, quan điểm này đã đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND và như vậy là không chính xác. Bởi vì, thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật là hai chức năng 8 hoàn toàn độc lập của VKSND. Mặc dù trong quá trình thực hiện, hai chức năng này có thể có những nội dung đan xen nhau, có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau nhưng không phải trong mọi công tác thực hiện chức năng của VKSND, trong mọi hoạt động thực hiện chức năng của Kiểm sát viên đều bao hàm cả hai chức năng đó, có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật. Vì vậy, không thể phủ nhận tính độc lập của hai chức năng này về cả nội dung lẫn phạm vi áp dụng và vì vậy không thể đồng nhất chúng. Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Toà án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Ở Việt Nam, quyền này được giao cho VKSND. Quan điểm này có thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng dạy của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát. Theo quan điểm này thì đầu tiên quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, về sau nó được mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác và cho đến nay thì quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Theo tác giả, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng khác của VKSND trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp (giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…). Quan điểm thứ ba: Là quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực hình sự, là quyền của Nhà nước nhân danh công quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà hình sự sơ thẩm (duy trì quyền công tố). Ở Việt Nam, quyền này được Nhà 9 nước giao cho VKSND. Theo quan điểm này thì chỉ có duy nhất một chủ thể có quyền công tố - đó là VKSND, việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là TTHS và cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm. Theo tác giả, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá thu hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố. Không những vậy, còn không phản ánh được bản chất của quyền công tố và hơn thế nữa còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố bởi vì truy tố và buộc tội chỉ là một trong số các quyền năng, là một số hoạt động cụ thể trong số những hoạt động của VKSND ở giai đoạn xét xử sơ thẩm trong TTHS khi thực hành quyền công tố. Ngoài các quyền năng đó ra, VKSND còn có nhiều quyền năng khác nữa khi thực hành quyền công tố cả ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự và ở các giai đoạn khác. Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Theo quan điểm này thì chủ thể thực hành quyền công tố không chỉ có VKSND mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác (Cơ quan điều tra, Toà án, Thi hành án). Và như vậy, quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc TTHS, đã nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản (buộc tội, gỡ tội, xét xử…). Quan điểm thứ năm: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKSND truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó, quyết định truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà. Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm; quyền công tố 10 chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là TTHS. Ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất VKSND, không có cơ quan nào có thể thay thế được. Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của VKSND trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài TTHS; hoặc là quá thu hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố… Với nhận thức của mình, tác giả ủng hộ quan điểm thứ năm nêu trên với khái niệm quyền công tố bởi các lý do sau: Thứ nhất, tác giả nhận thấy quan điểm này phù hợp với quan điểm truyền thống nghiên cứu lịch sử nhà nước - pháp luật về quyền công tố: "Quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự xem xét là tội phạm xâm hại trật tự chung của toàn xã hội". Thứ hai, quan điểm này cũng phù hợp với các quy định của pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ khác nhau về quyền công tố, cụ thể: - Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ đều khẳng định "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố…". - Khi nói về vai trò, nhiệm vụ của VKSND, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố, bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc VKSND phải trông nom, đảm bảo tốt. 11 - Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp" [10]. - Tại báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật của Quốc hội (số 729 ngày 14/3/2002) về dự án Luật tổ chức VKSND khẳng định: "Hoạt động công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án đến truy tố bị can và tranh tụng tại phiên toà" [47]. - Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi bổ sung - Điều 137) và các văn bản pháp luật của Nhà nước ta (Điều 1, Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002, Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)) quy định: "Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố" [40]. - Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân quán triệt những nội dung cơ bản của Luật tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác trọng tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị được tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng VKSNDTC đã khẳng định: Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Từ các ý kiến, tư tưởng chỉ đạo nêu trên, có thể thấy thực hành quyền công tố là việc truy cứu người có hành vi phạm tội ra trước Toà án; quyền công tố ở nước ta được giao cho chủ thể duy nhất là VKSND; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và có ở tất cả các giai đoạn từ khi khởi tố, điều tra đến truy tố và xét xử hình sự. Các công tác khác như giải quyết án dân sự, giam giữ cải tạo, giải quyết án hành chính, kinh tế lao động, thi hành án…của VKSND là hoạt động thuộc lĩnh vực kiểm sát các hoạt động tư pháp khác. Từ những ý kiến phân tích như trên có thể đưa ra khái niệm: Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho VKSND thực hiện các quyền 12 năng theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. b) Đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố Như đã phân tích trên, do hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố nên hệ quả cũng có nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố: * Đối tượng của quyền công tố - Những người có quan điểm đồng nhất quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật thì cho rằng đối tượng của quyền công tố là sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, của những người thực hành tố tụng và người tham gia tố tụng. - Với quan điểm "quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật thống trị ra trước Toà án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ trât tự pháp luật" thì đối tượng của quyền công tố là tất cả các hành vi vi phạm pháp luật. Tức là đối tượng của quyền công tố rất rộng và không cụ thể bởi lẽ các hành vi vi phạm pháp luật thì rất đa dạng, phong phú và không chỉ có trong lĩnh vực TTHS mà còn có cả trong lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Theo tác giả, vì chức năng duy nhất của quyền công tố là chức năng buộc tội nhân danh Nhà nước, và vì chỉ có lĩnh vực TTHS là lĩnh vực duy nhất liên quan đến việc truy tố và buộc tội đối với người phạm tội, các lĩnh vực tư pháp khác là các lĩnh vực chỉ liên quan đến các vi phạm, tranh chấp khác cho nên quyền công tố chỉ có duy nhất trong lĩnh vực TTHS, không thể có trong các lĩnh vực tư pháp khác. Với quan điểm tán đồng với quan điểm thứ năm như đã nêu trên, tác giả cho rằng đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. * Nội dung của quyền công tố 13 Về nội dung của quyền công tố, cũng còn tồn tại những quan điểm rất khác nhau song xuất phát từ quan điểm về bản chất của quyền công tố là sự buộc tội nhân danh Nhà nước, đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội, tác giả thống nhất với quan điểm nội dung của quyền công tố là sự buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người đã thực hiện tội phạm. * Phạm vi của quyền công tố Do hiện đang tồn tại những quan điểm khác nhau về quyền công tố nên cũng có các cách lý giải khác nhau về phạm vi của quyền công tố (cả phạm vi về không gian lẫn phạm vi về thời gian). Về phạm vi không gian: Phần lớn các quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ có duy nhất trong lĩnh vực hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có quan điểm cho rằng quyền công tố được thực hiện không chỉ trong lĩnh vực hình sự mà còn trong các lĩnh vực hoạt động tư pháp khác (tố tụng dân sự, kinh tế, lao động…). Theo quan điểm của tác giả, vì bản chất của quyền công tố là buộc tội cho nên quyền công tố không thể có trong các lĩnh vực khác không liên quan đến sự buộc tội như trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động…Và vì vậy, tác giả có quan điểm rằng quyền công tố chỉ có trong duy nhất lĩnh vực có liên quan đến tội phạm và sự buộc tội - đó là lĩnh vực TTHS. Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công tố): Vấn đề này cũng tồn tại nhiều quan điểm: - Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có quyết định truy tố của VKSND và kết thức khi Kiểm sát viên thực hiện xong việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm. Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ có ở duy nhất một giai đoạn của TTHS đó là giai đoạn xét xử sơ thẩm mà không có ở các giai đoạn khác kể cả giai đoạn điều tra. Theo họ, giai đoạn điều tra chỉ là giai đoạn thu thập các tài liệu chứng cứ để phục vụ cho việc đưa vụ án ra Toà. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan