Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ MOTIF LI TÁN TRONG THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở VIỆT...

Tài liệu MOTIF LI TÁN TRONG THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM

.PDF
142
437
99

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Bùi Thị Hạnh MOTIF LI TÁN TRONG THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Bùi Thị Hạnh MOTIF LI TÁN TRONG THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ QUỐC HÙNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2013 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy Hồ Quốc Hùng, người đã trực tiếp hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin bày tỏ lòng biết ơn đến phòng Khoa học Công nghệ – sau đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, quý thầy cô trong Khoa Ngữ văn, gia đình, bạn bè, đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Luận văn không tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn. TP. Hồ Chí Minh, tháng 9/2013 Bùi Thị Hạnh 1 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1 MỤC LỤC .................................................................................................................... 2 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 4 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 7 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 8 5. Đóng góp của luận văn ................................................................................................... 9 6. Kết cấu của luận văn ...................................................................................................... 9 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÍ THUYẾT ................................ 11 1.1. Một số vấn đề về lí thuyết motif và type .................................................................. 11 1.1.1. Lí thuyết về motif .................................................................................................. 11 1.1.2. Lí thuyết về type .................................................................................................... 13 1.1.3. Mối quan hệ giữa motif và type ............................................................................ 14 1.2. Lí thuyết về quá trình tộc người ............................................................................... 15 1.2.1. Tiêu chí xác định tộc người ................................................................................... 15 1.2.2. Quá trình tộc người ............................................................................................... 20 1.2.3. Li tán -một trong những xu hướng tất yếu của quá trình tộc người ...................... 21 1.3. Thần thoại, truyền thuyết các tộc người thiểu số trong mối quan hệ quá trình tộc người................................................................................................................................... 23 1.4. Các tiêuchí để xác định motif li tántrong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số .................................................................................................................... 30 CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH TƯ LIỆU,PHÂN LOẠIVÀ MÔ TẢ MOTIF LI TÁN TRONG THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM ...................................................................................................... 33 2.1. Tình hình tư liệu ........................................................................................................ 33 2.2. Phân loại tư liệu ......................................................................................................... 39 2.3. Các dạng thức của motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số ở Việt Nam ................................................................................................ 43 2.3.1. Các dạngthứccủa motif li tán trong thần thoại ...................................................... 44 2.3.2. Các dạng thức của motif li tán trong truyền thuyết ............................................... 55 2 CHƯƠNG 3: MOTIF LI TÁN TRONG CẤU TẠO CỐT TRUYỆN THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM ............................................................................................................................ 72 3.1. Motif li tán với vai trò là motif chi tiết..................................................................... 73 3.1.1. Motif li tán trong các kiểu truyện .......................................................................... 74 3.1.2. Vai trò của motif đối với cốt truyện ...................................................................... 89 3.2. Motif li tán với vai trò là motif chủ đề ..................................................................... 93 3.2.1. Kiểu truyện ............................................................................................................ 93 3.2.2. Kiểu nhân vật ...................................................................................................... 101 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 111 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 118 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở các dân tộc ít người, thể loại thần thoại, truyền thuyết còn lưu giữ kí ức về quá khứ, nguồn gốc của dân tộc khá sâu. Trên thực tế, qua khảo sát tư liệu, chúng tôi thấy rằng motif li tán nằm rải rác ở cả hai thể loại. Hiện tượng li tán là một trong những vấn đề liên quan đến quá trình hình thành tộc người của các dân tộc. Hiện tượng này lưu trong thần thoại, truyền thuyết trở thành motif mang đặc điểm tư duy, đặc điểm văn hóa của mỗi dân tộc sáng tạo ra nó. Bởi thế, motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số, ngoài những đặc điểm giống với motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của người Việt cũng như các dân tộc khác trên thế giới sẽ có những điểm khác biệt do điều kiện xã hội, đời sống văn hóa, tâm linh,...Ở một góc độ khác, chính kiểu tư duy này, thông qua motif li tán đã góp phần tạo nên những đặc trưng về cấu tạo của một nhóm thần thoại, truyền thuyết mà luận văn muốn tìm hiểu. Motif li tán là motif có tần số xuất hiện không nhỏ trong thần thoại, truyền thuyết vàcó liên quan đến một số type quen thuộc khác như nguồn gốc vũ trụ và muôn loài, hồng thủy,...Vậy nó có cấu trúc ra sao? Phải chăng motif li tán là một nhánh của những motif nguồn gốc tộc người hay ngược lại? Motif này trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số có gì khác biệt với motif li tán trong truyện cổ dân gian của người Việt? Nó gắn bó như thế nào với đời sống văn hóa, lịch sử, cách phản ánh đời sống, tư duy nói chung của các tộc người thiểu số? Với mong muốn trả lời cho những câu hỏi này, luận văn chọn đề tài nghiên cứu là Motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số ở Việt Nam làm mục tiêu khoa học cho luận văn. 2. Lịch sử vấn đề Di dân là một trong những xu hướng chủ yếu của quá trình tộc người trên thế giới và ở nước ta. Đó là một phạm trù thuộc ngành dân tộc học mà nay được gọi là nhân học văn hóa khá phổ biến. Quá trình đó chỉ còn lưu lại trong kí ức và khúc xạ thế nào qua thần thoại và truyền thuyết các tộc người thiểu số Việt Nam? Vấn đề này đã được đề cập ở nhiều góc độ 4 khác nhau trong một số công trình nghiên cứu văn học dân gian. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi tổng hợp được các tài liệu cùng những nhận định sau: Với công trình Rừng người Thượng – vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam (Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2008, Lưu Đình Trân dịch), Henri Maitre trong nghiên cứu về “Truyền thuyết của người Mọi về nguồn gốc thế giới và sự phân tán các bộ lạc” (Người Mọi - là cách gọi miệt thị của Henri Maitre đối với các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên - chúng tôi xin gọi là tộc người, ở đây là tộc người thiểu số, trừ trường hợp trích dẫn nguyên văn) đã đặt ra câu hỏi về tộc người thiểu số như: họ từ đâu tới, tổ quốc nguyên thủy của họ ở đâu? Tác giả nhận định: “Có một số truyền thuyết còn giữ được những kí ức lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác về những sự kiện mang tính sáng thế thường thấy ở nhiều nơi rất khác nhau trên thế giới; ở một số bộ lạc Mọi, người ta có biết đến chuyện nạn hồng thủy, tháp Baben, sự phân tán của các chủng tộc được kể theo cách riêng của họ, lắp các sự kiện và các nhân vật vào khung cảnh nguyên sơ của họ” (trang 157). Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã dẫn chứng những truyện liên quan đến nguồn gốc cũng như sự li tán của các tộc người thiểu số: Ba Na, Giai Rai, XơĐăng,... Với bài viết Thần thoại và truyền thuyết các dân tộc ít người, một bộ phận của nền văn học dân gian Việt Nam thống nhất mà đa dạng đăng trên Tạp chí Văn học, Hà Nội, 1977, số 6 (In lại trong: “Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam Nhận định và tra cứu, tập 23, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2010), Võ Quang Nhơn đã nhận định các nhóm dân tộc ở Việt Nam đều cùng một nguồn gốc. Từ một nguồn gốc chung đó, do sự vận động của lịch sử mà những nhóm dân tộc anh em đã li tán ra hoặc hòa hợp lại, tùy vào từng hoàn cảnh. Tác giả khẳng định: “Nếu thần thoại Việt - Mường quan niệm các dân tộc anh em do bố mẹ chủ động chia ra, dẫn đi ăn ở các nơi thì thần thoại Ba Na quan niệm việc các dân tộc phân tán là do các lực lượng siêu nhiên ở bên ngoài (Trời) gây ra”. Đồng thời tác giả kết luận: “Thần thoại về nguồn gốc các dân tộc ở Việt Nam gặp nhau và giống nhau ở điểm cơ bản (cùng một nguồn gốc) và chỉ khác nhau ở tiểu tiết (cách quan niệm, suy đoán về nguyên nhân phân tán)” (trang 782). Vấn đề này được tác giả tái khẳng định trong Nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam, tập 2 (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1997) khi nghiên cứu về “Thần thoại các dân tộc ít người Việt Nam” (trang 84) và đi sâu làm rõ hơn các luận điểm trên thông qua một số truyện có liên quan. 5 Với công trình Lịch sử văn học Việt Nam – Văn học dân gian, phần I, in lần thứ 5 (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1978), tác giả Bùi Văn Nguyên khi nhận định về ý niệm các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều là anh em một nhà cũng đã đề cập đến sự li tán và khẳng định quá trình ấy chính là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt của các tộc người sau này. Tác giả viết: “Thần thoại của các dân tộc anh em của chúng ta qua những hình ảnh tương tự hình ảnh một bọc trăm trứng trong thần thoại Kinh (và Mường) đã giải thích rằng các dân tộc vốn cùng cha mẹ, chỉ về sau phân tán đi các nơi mà dần dần có sự khác biệt” (trang 99-100). Với bài viết Từ những truyền thuyết Pakohđăng trênTạp chí sông Hương, Huế, 1987, số 34 với bài viết, khi làm rõ vấn đề nguồn gốc tộc danh nhóm Pa Cô (ngày nay các nhà dân tộc học cho rằng nhóm này thuộc tộc người Tà Ôi) cũng như tìm hiểu liệu đây có phải là tộc người bản địa trên vùng đất Bình Trị Thiên, tác giả Hồ Quốc Hùng đã nhận định: “Môtip cùng một hợp thể (cùng một dân tộc) chia ra từng nhóm nhỏ sau một sự kiện lịch sử, xã hội nào đấy của truyền thuyết trên, có dáng dấp như một số truyện các dân tộc phía nam Trường Sơn. Truyền thuyết Nguồn gốc các dân tộc Tây Nguyên kể rằng: sau nạn hồng thủy, con cháu của hai anh em Bok Sơgor lạc nhau, họ cùng nhau làm nhà ở chung. Khi nhà gần xong, bỗng trời đất gầm thét, mưa to bão lớn. Sau mấy hôm, họ không hiểu nhau nữa. Rồi buồn bực ôm nhau khóc, từ giã mỗi người đi một ngả”. Tác giả gián tiếp đề cập đến “tính bi kịch của nhân loại trước sự tan vỡ gia đình lớn (cùng huyết tộc)” (trang 83). Nói cách khác, đó là những truyền thuyết di dân - một dạng của truyền thuyết anh hùng ca. VớiBình giảng truyện dân gian khi bình giảng truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994 (dẫn theo [28, tr.142])), nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu khi so sánh với thần thoại “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường đã đưa ra một số nhận định về cội nguồn các tộc người cũng như biểu hiện tự hào với các sắc thái khác nhau. Khi khẳng định cuộc hôn phối của Lạc Long Quân và Âu Cơ phản ánh sự giao lưu, hòa huyết giữa các tộc người phương Nam - phương Bắc, miền biển - miền núi, tác giả đưa ra kết luận “việc chia con, tách đôi gia đình [...] phản ánh một bước phát triển mới của dân tộc. Hợp rồi phân, tụ rồi tán và ngược lại, đó là những quá trình phát triển tự nhiên mang tính phổ biến của các dân tộc ở các thời kì lịch sử. Xưa là thế mà nay cũng thế. Chỗ khác nhau là ở qui mô, trình độ và hình thức tổ chức thực hiện”. 6 Với công trìnhNghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam, tập 1(Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1997)Đặng Nghiêm Vạn khi đề cập đến “Huyền thoại về nạn hồng thủy và nguồn gốc các tộc người” đã khẳng định: “Huyền thoại về nguồn gốc các tộc người không chỉ có dạng kể trên mà còn nhiều dạng khác nhau giải thích địa điểm nơi quê hương ban đầu của tộc người, thời gian và con đường chuyển cư nửa hư, nửa thực với những chiến công và thất bại được khuếch đại theo qui luật của văn học bình dân [...]. Hoặc còn có các loại huyền thoại giải thích vì sao tộc người này ở núi cao? Tộc người kia ở ven biển, dọc sông” (trang 840). Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã đưa ra các dạng về nguồn gốc các tộc người. Với công trình Tìm hiểu truyện cổ Tây Nguyên – Trường hợp của Mạ và K’ho (Nxb Văn học, Hà Nội, 2006), Lê Hồng Phong khi tìm hiểu “Về nguồn gốc tộc người” cho rằng nạn lụt lớn hủy diệt loài người thứ nhất, loài người thứ hai được sinh ra sau nạn lụt đã đặt ra một số câu hỏi đối với trường hợp truyện cổ Mạ - Cơ Ho: Vì sao lụt? Ai báo tin? Nơi tránh lụt? Ai sống sót sau lụt? Cuộc hôn phối đó như thế nào? Kết quả sinh ra những tộc nào? Để lí giải, tác giả đưa ra một số bảng tóm tắt các truyện cổ có liên quan và đưa ra một số kết luận, một trong số những kết luận này khẳng định rằng: “Cả bảy dị bản đều nhắc tới ba người nữ [...] là Ka Grup, Ka Grum, Ka Grau [...]. Từ ba mẹ này đã thành ra (sinh ra hoặc lấy) ba tộc người hay ba nhóm tộc người cơ bản” (trang 45 – 46). Những nhóm đó gồm: Chăm (trưởng), Kon Chau (thứ), Việt (út). Tác giả cũng đề cập tới sự li tán của các nhóm người Chil, Lạch (thuộc nhóm Cơ Ho- Chil, Cơ Ho- Lạch) và Mạ: “Trong huyền thoại Chặt cây thầncó nói đến việc chia cây, mỗi người lấy một thứ rồi thành ra các tộc người” (trang 47). Nhìn chung các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến nguồn gốc của các tộc người thiểu số Việt Nam, coi li tán như một biểu hiện trong quá trình hình thành tộc người. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đề cập đến li tán như một motif hay nói cách khác, motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số Việt Nam chưa được đặt thành một vấn đề nghiên cứu hệ thống, riêng biệt và đặt ra vấn đề chuyển hóa hay tương tác về mặt thể loại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu khoa học này, luận văn chúng tôi tập trung khảo sát các tác phẩm thuộc thần thoại và truyền thuyết có chứa motif li tán của 53 tộc người thiểu số ở Việt 7 Nam và tiến hành phân loại để nghiên cứu cấu tạo của chúng.Luận văn còn đặt chúng trong mối quan hệ với cốt truyện thần thoại và truyền thuyết để so sánh cấu tạo motif này trong hai thể loại nhằm tìm ra nét đặc trưng của motif li tán ở mỗi thể loại cùng sự tương tác thể loại giữa chúng. Ngoài ra, vì li tán là một trong những xu hướng tất yếu của quá trình tộc người nên hiện tượng này sẽ được soi chiếu qua tư liệu của dân tộc học, nhân học văn hóa. Vì đây là hiện tượng phổ quát của quá trình hình thành tộc người nên bước đầu luận văn tìm hiểu một số biểu hiện của thần thoại và truyền thuyết Lào, Malaysia nhằm so sánh với thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số để rút ra những điểm tương đồng, dị biệt trong cách xây dựng cốt truyện, nhân vật cũng như tư duy thần thoại và truyền thuyết của các vùng, khu vực văn hóa tương cận. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp lịch sử - xã hội:chúng tôi sử dụng phương pháp này để tìm hiểu những cơ sở lịch sử, xã hội liên quan đến motif, thể loại. - Phương pháp mô hình hóa: từ nội dung của các thần thoại và truyền thuyết được khảo sát, người viết sẽ lập mô hình chung nhất cho từng nhóm truyện có kết cấu tương đồng. Từ những mô hình này, chúng ta có thể thấy được nội dung, vai trò, chức năng của motif li tán trong cốt truyện của thần thoại và truyền thuyết. - Phương pháp loại hình học: “Loại hình học trong khoa văn học dân gian là phương pháp nhận thức các hiện tượng và tác phẩm văn học dân gian thông qua việc khám phá các yếu tố cấu thành cũng như quá trình, những mối liên hệ biện chứng giữa chúng trong sự vận động của thời gian và không gian” [55, tr.196]. Luận văn áp dụng phương pháp trên nhằm đặt motif li tán trong mối liên quan với diễn biến cốt truyện trong thần thoại và truyền thuyết được khảo sát, từ đó thấy được chức năng của motif li tán trong kết cấu cốt truyện thần thoại và truyền thuyết. - Phương pháp thống kê: đây là phương pháp thông qua những con số để khẳng định, chứng minh cho một kết luận một quan điểm mà chúng tôi đưa ra. - Phương pháp phân loại: Là phương pháp nhóm những đối tượng có chung những đặc điểm thành từng nhóm riêng. Chúng tôi sử dụng phương pháp này để phân chia motif li tán thành các nhóm dựa trên một số tiêu chí nhất định. 8 - Phương pháp so sánh: Là phương pháp nhằm chỉ ra những tương đồng và khác biệt giữa hai nhóm, hai đối tượng nào đó. Chúng tôi dùng phương pháp so sánh để đưa ra một số nhận xét so sánh về những tương đồng và dị biệt về biểu hiện giữa motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số với truyện cổ dân gian của người Việt và một số nước trong khu vực Châu Á. - Phương pháp dân tộc học: Là phương pháp đắc dụng trong nghiên cứu văn học dân gian. V.Ia.Propp khẳng định “tách ra khỏi dân tộc học thì không thể nghiên cứu folklore một cách duy vật được”. Chúng tôi sử dụng phương pháp này làm cơ sở để có thể lí giải xu hướng li tán, một xu hướng tất yếu trong quá trình tộc người của nhân loại. Dựa vào đặc điểm dân tộc học của quá trình tộc người, luận văn làm sáng tỏ một số nội dung, đặc trưng của motif này trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số. 5. Đóng góp của luận văn Thực hiện đề tài Motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số ở Việt Nam chúng tôi muốn đạt những mục đích sau: - Làm rõ các dạng thức li tán trong hai thể loại thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số. - Làm rõ cấu tạo motif li tán trong hai thể loại thần thoại và truyền thuyết ở hai bình diện trong mối quan hệ với cốt truyện: + Motif li tán với vai trò là motif chi tiết + Motif li tán với vai trò là motif chủ đề Khám phá các lớp văn hóa, chủ yếu là quan niệm về li tán ẩn sau motif li tán trong hai thể loại. Tầng văn hóa này không chỉ biểu hiện trong sự chia tách tộc người gốc và hình thành nên các tộc người mới mà nó còn tham gia vào việc nhào nặn các yếu tố nghệ thuật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu,Kết luận,phần Nội dung của luận văn được triển khai thành ba chương với nhiệm vụ của từng chương như sau: Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÍ THUYẾT (25 trang) Trong chương này, chúng tôi trình bày một số lí thuyết có liên qua đến đề tài, tạo tiền đề cho sự triển khai hai chương sau. Chương 1 tập trung vào bốn vấn đề sau: thứ nhất là một 9 số vấn đề về lí thuyết motif và type;thứ hai là lí thuyết về quá trình tộc người;thứ ba là thần thoại, truyền thuyết các tộc người thiểu số trong mối quan hệ quá trình tộc người;thứ tư là các tiêu chí để xác định motif li tántrong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số. Chương 2. TÌNH HÌNH TƯ LIỆU VÀ PHÂN LOẠI MOTIF LI TÁN TRONG THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM (44 trang) Trong chương này, chúng tôikhảo sát tình hình tư liệu, phân loại và mô tả motif li tán nhằmlàm rõ biểu hiện của motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số ở Việt Nam. Chương 2 tập trung vào ba vấn đề sau: thứ nhất là tình hình tư liệu; thứ hai là phân loại tư liệu; thứ ba là mô tả các dạng thức của motif li tán trong thần thoại và truyền thuyết của các tộc người thiểu số ở Việt Nam. Chương 3. MOTIF LI TÁN TRONG CẤU TẠO CỐT TRUYỆN THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM (42 trang) Ở chương này, đối với vai trò motif li tán là motif chi tiết, chúng tôi tiến hành mô hình hóa các kiểu truyện có chứa motif li tán đồng thời phân tích vai trò, vị trí của nó đối với cốt truyện thần thoại, truyền thuyết. Đối với vai trò motif li tán là motif chủ đề, trên cơ sở lí thuyết về type chúng tôi tập trung phân tích về cốt truyện, hệ thống motif và kiểu nhân vật xuất hiện trong type. Ngoài ra luận văn còn có phần Phụ lục. Nội dung của phụ lụctrình bày danh mục các truyện theo các nhóm ngôn ngữ cụ thể, các kết quả thống kê, tóm tắt truyện được sử dụng trong chính văn và danh mục các tư liệu đã khảo sát. 10 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÍ THUYẾT 1.1. Một số vấn đề về lí thuyết motif và type Từ lâu đối với ngành văn học dân gian, các vấn đề về motif đã nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Trong phần này, chúng tôi sẽ làm rõ lí thuyết về motif và lí thuyết về một số vấn đề liên quan đến motif như type, mối quan hệ giữa chúng để có cái nhìn toàn diện nhất về motif. 1.1.1. Lí thuyết về motif Nghiên cứu truyện cổ dân gian nói chung, thần thoại và truyền thuyết nói riêng bằng motif có thể giúp người nghiên cứu khám phá được mạch ngầm liên hệ trong những tác phẩm thuộc cùng một kiểu truyện hay cùng chứa đựng những motif như nhau. Ngoài ra, ý nghĩa của nó được thể hiện như thế nào cũng là một bước cơ bản trong công việc của người nghiên cứu. Trên thế giới, việc nghiên cứu các truyện kể dân gian bằng motif, type diễn ra khá sôi động và phổ biến. Đầu thế kỉ XX, với tư cách là một phạm trù của nghiên cứu văn học, motif đã được A.N.Vexelopxki (1838-1906) và V.Ia.Propp (1895- 1970) khảo sát. Kế đến, chúng ta được tiếp nhận thành tựu của các học giả khác khi nghiên cứu về type, motif như: S.Thompson (1885-1976), A.Aarne (1867-1925),... Ở Việt Nam cũng có rất nhiều công trình đã áp dụng lí thuyết về type, motif và gặt hái được những thành công nhất định như: Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif (Nguyễn Tấn Đắc), Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo bảng mục lục tra cứu típ và mô típ truyện cổ dân gian của Antti và Stith Thompson (Nguyễn Thị Hiền), Nét khác biệt ở một số motif trong type truyện người con riêng của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc (Nguyễn Thị Minh Thu), Mô típ “trừng phạt” trong kiểu truyện người em (Khảo sát qua truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam) (Nguyễn Thị Ngọc Lan),... Theo Từ điển văn học (bộ mới)thìmotif “(phiên âm từ tiếng Pháp motif, tiếng Đức motive, đều bắt nguồn từ tiếng Latinh moveo- chuyển động; giới nghiên cứu Trung Quốc phiên âm là mẫu đề)”. Thuật ngữ này “có thể chuyển thành các từ khuôn, dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật dân gian” [21, tr.197]. 11 Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết (dẫn theo [59, tr.57]) thuật ngữ motif bắt nguồn từ gốc La - tinh Môreo- chỉ một yếu tố của cấu trúc âm nhạc. Ngày nay, trong ngôn ngữ âm nhạc, motif được hiểu như âm điệu, điệp khúc tức những câu hay đoạn được lặp lại nhiều lần. Ở nghệ thuật dân gian, hình phác họa tức các hình mẫu thường lặp lại hay kết hợp với những hình mẫu khác thành một kiểu cách đặc biệt chính là motif. Lĩnh vực mà motif được nghiên cứu nhiều và cẩn trọng nhất là truyện kể dân gian như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích,... Trong văn học dân gian, motif được hiểu là chi tiết nhỏ nhất tạo nên một cốt truyện, là công thức để triển khai cốt truyện ấy. Chính vì đặc điểm này mà motif rất linh động. Nó có khả năng lắp ghép hoặc tách khỏi cốt truyện này và nhập vào một truyện khác. Motif trong truyện kể dân gian có khi là những khái niệm khá đơn giản. Nó có thể là những tạo vật khác thường như các vị thần, yêu tinh, con vật biết nói,...hay thế giới thần tiên, nơi mà ở đó tồn tại ma thuật, phép thuật, những hiện tượng tự nhiên khác thường. “Motif có thể là sản phẩm của trí tưởng tượng non trẻ, thơ ngây của loài người ở trước thời kì tư duy khoa học” [46, tr.50]. Motif có thể là những mẩu kể đơn giản, ngắn gây ấn tượng và sự thích thú cho người nghe. Dù thuật ngữ motif được dùng không chặt chẽ, nghĩa là nó có thể được đưa vào bất kì yếu tố nào trong truyện kể dân gian nhưng để trở thành một phần thực sự của cốt truyện thì yếu tố đó nhất định phải có cái riêng, khác thường làm cho người ta nhớ và lặp đi lặp lại nó. Một con nhím thông thường không phải là một motif. Một con nhím biết nói, biết nạn lụt sắp xảy ra và biết chỉ cách cho người ta tránh nạn ấy là một motif. Một quả bầu thông thường không phải là motif, một quả bầu cứu người thoát khỏi nạn đại hồng thủy và sinh ra các dân tộc là một motif. Cục thịt, bọc trứng bình thường không phải là motif, mà cục thịt, bọc trứng sinh ra người trong thần thoại của nhiều dân tộc là motif. Ở đây “mô típ còn là sự khái quát hóa nghệ thuật nguyên sơ, phản ánh những ấn tượng quan trọng nhất và có tính lặp lại mà con người tiếp nhận được trong quá trình quan sát, nhận thức cuộc sống” [70, tr.107-115]. Như vậy, chúng ta có thể hiểu motif : Thứ nhất là những chi tiết nhỏ nhất tạo nên một cốt truyện. Thứ hai là sự lặp đi lặp lại nhiều lần trong truyện. Thứ ba là mang tính chất khác lạ, bất thường, đặc biệt. 12 Nghiên cứu motif đóng vai trò rất quan trọng đối với người muốn tìm hiểu các nền văn hóa. Kết quả của sự nghiên cứu này sẽ chỉ ra mối quan hệ quốc tế của motif. Khi bóc tách các lớp văn hóa trong truyện kể, nhiều trường hợp chúng ta nhận ra ở đây sự giống nhau bởi tính logic trong quá trình tư duy của nhân loại qua các thời kì lịch sử để từ đó tìm được con đường dẫn dắt từ truyện này đến truyện kia. 1.1.2. Lí thuyết về type Theo Từ điển Văn học (bộ mới) “Tập hợp những truyện có cùng chủ đề và cốt truyện tương tự như nhau, được gọi là kiểu truyện” [24, tr.1841]. Theo Nguyễn Tấn Đắc “Type chỉ một tập hợp những truyện có cùng cốt kể thuộc cùng một kiểu truyện, hay một đơn vị truyện” [16, tr.136]. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu dùng khá nhiều thuật ngữ chỉ nội hàm khái niệm type: dạng thức, típ truyện, dạng truyện. Những thuật ngữ này, xét cho cùng được dùng để chỉ những truyện có các yếu tố tương tự nhau trong nòng cốt của cốt truyện. Như đã nói, motif chính là phần tử đơn vị cấu tạo lên cốt truyện. Motif nhỏ hơn type. Nói cách khác, type là đơn vị lớn hơn motif, một type có thể chứa nhiều motif. Trong trường hợp truyện có một motif thì motif đó được xem như type. Trong truyện kể dân gian, type là những cốt kể độc lập. Vì thế, truyện nào được kể với một cốt kể độc lập, dù đơn giản chỉ với một motif hay phức tạp khi chứa đựng rất nhiều motif đều được coi là type. Nghiên cứu type truyện trong văn học dân gian tức là nghiên cứu những truyện có chung một chủ đề, cốt truyện. Các truyện có chung các motif, tất nhiên các motif này không hoàn toàn trùng khớp nhau trong tất cả các truyện, làm thành một type truyện và mỗi type truyện có một hệ thống motif đặc trưng với quan niệm nghệ thuật và ý nghĩa phản ánh riêng. Để lập ra một kiểu truyện, cách thức duy nhất là nghiên cứu các dị bản của kiểu truyện đó. Trong quá trình phân tích, khi phát hiện nhiều truyện có những chỗ tương tự nhau thì xếp chúng vào cùng một loại, nghiên cứu những điểm giống nhau đồng thời ghi giữ những điểm giống nhau ấy. Tiếp theo, người nghiên cứu tập hợp tất cả các dị bản có những đặc điểm đó lại để trình bày nội dung kiểu truyện đó một cách hoàn hảo nhất. Như vậy, nghiên cứu type giúp chúng ta nghiên cứu một cách có hệ thống các cốt kể với tư cách là từng đơn vị truyện chứ không phải từng mẩu truyện. Có thể thấy số lượng type truyện của một quốc gia, một tộc người,...ít hơn, ổn định hơn số lượng của các mẩu truyện. Nghiên cứu type cũng giúp ta xem xét truyện kể dân gian ở dạng cốt kể (type, 13 truyện) với các dạng dị bản của nó. Thêm nữa, type giúp người nghiên cứu đối sánh giữa các kho truyện kể ở cấp độ kiểu truyện hay truyện - đơn vị. Trong luận văn, chúng tôi vận dụng type để nghiên cứu truyện kể dân gian ở dạng cốt kể (type, truyện). Vì điều này phù hợp với sự so sánh motif li tán của các tộc người thiểu số ở Việt Nam với vai trò là motif chủ đề (cũng chính là type) cũng như sự tương tác thể loại ở thần thoại và truyền thuyết. 1.1.3. Mối quan hệ giữa motif và type Motif là yếu tố bất biến, có khả năng di chuyển hay bảo lưu trong truyện kể dân gian nói chung, trong thần thoại, truyền thuyết nói riêng. Chẳng hạn, motif “lũ lụt” trong Kinh sáng thế ở Phương Tây với truyệnNạnhồng thủy ở Việt Nam. Sự lặp lại của motif trong truyện kể của những dân tộc khác nhau trên thế giới có thể là sự tương đồng về các điều kiện lịch sử xã hội hoặc là kết quả của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Motif là yếu tố nhỏ nhất cấu thành type. Những truyện thần thoại, truyền thuyết có cùng motif giống nhau sẽ thuộc về một type. Tên của type có thể đặt bằng cách gọi ra tên của motif đặc trưng trong truyện. Type, motif là một trong những phần tử đơn vị không chỉ mang tính đặc trưng mà còn mang tính bền vững của truyện kể dân gian. Vì type là những cốt kể (narratives) có khả năng tồn tại độc lập trong kho truyện kể dân gian nên dẫu đơn giản với một motif hay phức tạp với rất nhiều motif, bất cứ truyện nào được kể với một cốt kể độc lập đều được xem là một type. Trong trường hợp truyện chỉ có một motif đơn lẻ, nghĩa là cốt truyện chỉ gồm một motif thì type và motif đồng nhất. Song nếu cốt truyện thuộc về một type nào đó mà di chuyển vào một cốt truyện phức tạp hơn để trở thành một phần trong cốt truyện ấy thì nó trở thành motif chứ không còn là type nữa. Như vậy, giữa motif và type có thể chuyển hóa qua lại cho nhau. Dựa vào mối quan hệ biện chứng trên, có thể phân chia motif thành hai loại: motif chi tiết và motif chủ đề. Nếu motif này đóng vai trò tình tiết, chi tiết trong cốt truyện và tham gia lắp ghép vào nhiều type khác nhau thì đó là motif chi tiết; còn nếu từ motif này có thể phát triển thành một cốt kể và tạo ra những cốt kể tương tự nhau hình thành nên type thì đó là motif chủ đề. 14 1.2. Lí thuyết về quá trình tộc người Trong mục này, chúng tôi tập trung giới thuyết về tộc người, tiêu chí xác định tộc người, quá trình tộc người để tạo tiền đề cho việc triển khai hai chương sau. Chúng tôi đi sâu làm rõ bốn vấn đề sau: Một là lí thuyết về tộc người Hai là tiêu chí xác định tộc người Ba là quá trình tộc người Bốn là li tán – một trong những xu hướng tất yếu của quá trình tộc người 1.2.1. Tiêu chí xác định tộc người Xác định tộc người là nhiệm vụ của ngành dân tộc học. Tuy nhiên để có cái nhìn thấu đáo về hiện tượng li tán trong văn học dân gian, chúng tôi căn cứ vào những tiêu chí xác định tộc người của ngành khoa học trên.Trước tiên, cần có sự hiểu biết chính xác về tộc người. “Tộc người là một tập đoàn người người ổn định hoặc tương đối ổn định được hình thành trong lịch sử, dựa trên những mối liên hệ chung về ngôn ngữ, sinh hoạt văn hóa và ý thức tự giác dân tộc thể hiện bằng một tộc danh chung”(dẫn theo [61, tr.71]). Theo cách hiểu này, Việt Nam có 54 tộc người bao gồm tộc người Kinh là tộc người đa số và 53 tộc người thiểu số khác. Trên cơ sở này, giới nghiên cứu đưa ra ba tiêu chí là đặc trưng cơ bản để phân biệt các tộc người với nhau: ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc người. Tộc người còn tồn tại cho đến chừng nào những yếu tố này được đảm bảo và ngược lại. Như vậy, khi xác định một tộc người, người ta căn cứ vào những điểm sau: 1.2.1.1. Có chung tiếng nói Dù ở bất cứ nơi đâu người ta cũng dễ dàng nhận ra nhau khi họ cùng tộc người bởi “ngôn ngữ là hệ thống dấu hiệu đặc biệt, được dùng làm phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và phương tiện tư duy của con người” [15, tr.7]. Có thể nói “ngôn ngữ còn, dân tộc còn, tộc người còn” [73, tr.53]. Ngôn ngữ là dấu hiệu cơ bản để người ta xem xét sự tồn tại của một dân tộc và để phân biệt các tộc người khác nhau. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản, phục vụ cho mọi lĩnh vực xã hội từ sản xuất đến các hình thái văn hóa tinh thần. Vì vậy, khi xác định tiêu chí tộc người, ngôn ngữ thường được đặt ở vị trí đầu tiên.Ngôn ngữ là một hệ thống, có vốn từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm nhất định. Trong giao tiếp, nó là hàng 15 rào ngăn cách những người thuộc các thành phần tộc người khác nhau. Ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc cố kết nội bộ cộng đồng tộc người thể hiện thành phần và tình cảm tộc người. Đối với các thành viên trong một tộc người, tiếng mẹ đẻ vừa là phương tiện giao tiếp vừa là phương tiện chuyển tải nền văn hóa độc đáo của tộc người, tình cảm và giá trị tộc người. “Với hơn 6000 ngàn ngôn ngữ và hàng vạn phương ngữ hay thổ ngữ và hơn 500 văn tự, phần lớn kho tàng văn hóa phi vật thể các tộc người được lưu giữ qua quá trình lịch sử” [73, tr.54]. Ngôn ngữ là hành trang được truyền miệng, được gia tăng qua các thế hệ và là phương tiện để phát triển những hình thái văn hóa tinh thần như văn học, nghệ thuật, giáo dục. Tiếng mẹ đẻ do chính dân tộc đó sáng tạo ra, được mọi người tiếp thu, sử dụng từ thuở thơ ấu nên có khả năng biểu hiện những nét tế vi nhất trong tâm hồn của con người. Ngôn ngữ mẹ đẻ là huyết tủy của tộc người. Tình yêu mãnh liệt đối với ngôn ngữ mẹ đẻ được nảy sinh và phát triển mạnh mẽ khi kẻ thù dùng bạo lực đồng hóa ngôn ngữ của họ. Người ta bảo vệ ngôn ngữ tộc người ngay từ khi nó chưa có chữ viết và cả khi có chữ viết. Bảo vệ ngôn ngữ là bảo vệ tính dân tộc của mình, mất ngôn ngữ chính là nguyên nhân làm mất tộc người đó. Cho nên tiếng mẹ đẻ được coi là đặc trưng tộc người và là tiêu chuẩn hàng đầu để xác định thành phần tộc người. Khi xem ngôn ngữ là đặc trưng tộc người và là tiêu chuẩn để xác định thành phần tộc người, người nghiên cứu cần lưu ý có tình trạng một tộc người nói hai hoặc nhiều thứ tiếng. Vì vậy, ngôn ngữ là một trong những tiêu chí cơ bản nhưng không phải là tiêu chuẩn duy nhất để xác định tộc người. Chúng ta cần chú ý đến những đặc trưng khác nữa. Trong thực tế, có nhiều dân tộc vốn là những tộc người độc lập có thể nói chung một thứ tiếng. Chẳng hạn, tộc người Cao Lan - Sán Chỉ, tiếng nói nhóm Cao Lan thuộc ngôn ngữ Tày - Thái, còn tiếng Sán Chỉ lại thuộc ngôn ngữ Hán. Trình bày những vấn đề trên để thấy rằng, trong thần thoại, truyền thuyết kể về li tán thường thấy chi tiết các nhóm người sau bị tách ra do hoạn nạn khi gặp lại không còn nhận ra nhau do tiếng nói khác nhau. 1.2.1.2. Có chung những đặc điểm sinh hoạt văn hóa Văn hóa là một tiêu chí quan trọng để xác định tộc người. Văn hóa tộc người bao gồm tổng thể những yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể giúp phân biệt các tộc người với nhau. Đây chính là cơ sở của sự phát triển ý thức tự giác tộc người. Văn hóa tộc người là tổng thể những yếu tố văn hóa mang tính đặc trưng và đặc thù tộc người, có vai trò cố kết tộc người 16 giúp khu biệt giữa các tộc người. Tổng thể những đặc điểm sinh hoạt tộc người làm thành truyền thống tộc người. Những truyền thống này là sự kết tinh của cả một quá trình lâu dài trong lịch sử gắn chặt với hoàn cảnh kinh tế, xã hội, môi trường tự nhiên, địa lí trong đời sống của từng tộc người. Những yếu tố này sau khi xuất hiện tồn tại bền vững, được duy trì lâu dài ngay cả khi hoàn cảnh sống của tộc người đã bị biến đổi. Các thành tố văn hóa vật thể như: làng, bản, nhà cửa, công cụ sản xuất,...cùng với các thành tố văn hóa phi vật thể như: tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, các nghi lễ đời người làm nên diện mạo văn hóa tộc người truyền thống. Các thành tố này đi sâu vào tâm thức cộng đồng, được các tộc người nâng niu, trân trọng, gìn giữ và chọn làm biểu tượng cho tộc người. Mỗi tộc người có đặc trưng sinh hoạt văn hóa riêng, đặc trưng này dùng để phân biệt các tộc người với nhau. Những đặc trưng này thường được các nhà nghiên cứu phân tích bằng phương pháp so sánh để khẳng định một cách cụ thể. Tuy là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu công phu nhưng đối với các thành viên của tộc người, không phải điều nào cũng có thể chấp nhận. Đối với họ, đôi khi sự phân biệt mang tính tộc người là những dấu hiệu giản đơn, dễ nhận biết trong cuộc sống. Chẳng hạn, người Tày ăn cơm nhưng người H’mông lại ăn ngô, giọng nói, những điều cấm kị,... Vì thế, đối với một tộc người, tiêu chí xác định về văn hóa là những đặc trưng trong lối sống văn hóa tộc người, không hẳn là tổng thể sinh hoạt văn hóa hay sinh hoạt văn hóa diễn ra thường ngày. Những đặc trưng này bền vững, tồn tại song hành cùng những chặng đường lịch sử tộc người, tạo nên tính cách văn hóa của tộc người. Như vậy, đặc thù văn hóa tộc người là dấu hiệu cơ bản của một tộc người, dùng để phân biệt tộc người này với tộc người kia. Thật khó để tồn tại thành một tộc người riêng biệt nếu đặc điểm văn hóa tộc người bị mất đi. Thậm chí, như đã khẳng định, dù ngôn ngữ được coi là nhân tố chủ yếu để xác định tộc người cũng cần liên kết chặt chẽ với văn hóa tộc người nói ngôn ngữ đó vì văn hóa tinh thần thể hiện sâu sắc qua tiếng mẹ đẻ. Từ những vấn đề này cho thấy ở nhóm truyện thần thoại, truyền thuyết của các tộc người thiểu số vốn cùng một nguồn gốc nhưng khi nhận của cải cùng những dụng cụ lao động khác nhau họ chia tách nhau, dần tạo nên các tộc người mới với những đặc trưng riêng mang bản sắc riêng. 17 1.2.1.3. Có cùng ý thức tự giác, tự nhận cùng một tộc người Nếu xem sự hình thành và tồn tại của một tộc người trong lịch sử là một hiện tượng xã hội thì ý thức tộc người là yếu tố rất quan trọng khi xác định một tộc người. Ý thức tự giác tộc người chính là ý thức tự xem mình thuộc về một tộc người nhất định. Ý thức này được thể hiện qua hàng loạt yếu tố: dùng một tên gọi tộc người chung, có ý niệm chung về nguồn gốc lịch sử, huyền thoại về tổ tiên và vận mệnh lịch sử tộc người. Ý thức này biểu hiện qua sự cùng nhau tuân thủ những phong tục, tập quán, lối sống của tộc người, kiêng cữ,... Ý thức tự giác tộc người bền vững và ít thay đổi. Điều đó thể hiện trước tiên ởtên gọi (tộc danh). Đúng như Ph.Ăngghen khẳng định: “Tên gọi là một đặc tính của dân tộc” [51, tr.141]. Khi tộc người được hình thành người ta thường có nhu cầu tự đặt tên gọi cho mình hoặc do tộc người khác gán cho. Nó phải nhận được sự đồng thuận của chính thành viên trong tộc người. Trong thực tế, tên tự gọi của tộc người không nhiều bằng tên các tộc người khác đặt cho họ. Dường như “tên gọi của bộ lạc phần nhiều được đặt ra một cách ngẫu nhiên hơn là được chọn lựa một cách có ý thức. Trong quá trình chung sống, thông thường các bộ lạc đã nhận tên gọi từ những bộ lạc láng giềng đặt cho mình” [51, tr.147]. Khi tính chất của tộc người thay đổi sẽ nảy sinh nhu cầu có một tên gọi phù hợp với tộc người mới là một thực tế. Tộc danh của tộc người có thể do tộc người tự đặt cho mình. Chẳng hạn, Mảng là tên tự gọi với ý nghĩa là người du cư,người Bru -Vân Kiều nghĩa là người ở rừng, người Tày tự gọi mình với tên gọi này để chỉ bản thân là những người làm ruộng. Tên gọi là sự thể hiện lòng tự hào tộc người, có vai trò củng cố thêm ý thức tộc người. Những người trong cùng một tộc người đều có ý thức về nguồn gốc lịch sử của mình, vì thế, dù cư trú biệt lập nhưng hết thảy đều hoài niệm về lai lịch gốc của mình. Ý thức tự giác tộc người thể hiện rõ nét trong tinh thần tộc người, kí ức về nguồn gốc và lịch sử của dân tộc qua huyền thoại, lịch sử, “những câu chuyện gắn liền với sự thiên di, chuyển cư, những sự kiện lịch sử: chiến tranh, loạn lạc, dịch bệnh,...” [73, tr.69]. Người Tày ở các tỉnh miền núi phía Bắc “còn lưu lại nhiều truyện cổ về nguồn gốc dân tộc mình: Nạn hồng thủy, Báo Luông Slao Cải, hayPú Lương Quân, Cẩu Chủa Cheng Vùa (Chín chúa tranh vua), Nùng Trí Cao” [17, tr.484], người Dao nhớ về nguồn gốc của mình qua truyện Bàn Hồ, người Việt qua truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hồng Bàng tự hào mình là con cháu vua Hùng và luôn tưởng nhớ đến tổ tiên thời lập quốc. Các tộc người 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan