Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một vài kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng - an ni...

Tài liệu Một vài kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh trường thpt hoằng hóa 2

.DOC
30
151
54

Mô tả:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: "MỘT VÀI KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG – AN NINH CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA 2" 1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận: Mục tiêu của giáo dục là đào tạo thế hệ trẻ có tri thức, đạo đức, bản lĩnh sống để hòa nhập vào thời đại CNH – HĐH. Hiểu biết sâu sắc về quê hương đất nước và có trách nhiệm bảo vệ quê hương đất nước cả phần đất liền cũng như biển đảo. Khi nói về giáo dục, Đảng ta khẳng định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Trong phần kinh phí chi chung thì giáo dục được ưu tiên hàng đầu. Các trường THPT là cái nôi trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, đào tạo cả Đức – Trí – Thể - Mỹ. Trang bị cho học sinh đầy đủ hành trang trí tuệ để học sinh bước vào đời, trở thành công dân có ích cho quê hương, đất nước. Giáo dục quốc phòng – an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người mới XHCN có sự phát triển toàn diện. Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong chiến lược đào tạo 2 con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội dung giáo dục toàn diện trong nhà trường, góp phần hình thành nhân cách con người mới XHCN. Mặt khác, GDQP-AN còn trang bị kiến thức, ý thức xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương đất nước. Tuy nhiên, đối với giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh, công việc giảng dạy phải gắn liền với nghiên cứu. Đây là con đường ngắn nhất để không ngừng tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, nghiệp vụ, gọt sắc tư duy, góp phần tìm ra những giải pháp, biện pháp thích hợp để truyền đạt tri thức tới người học. 2. Cơ sở thực tiễn: Qua nhiều năm giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng – an ninh theo phương pháp mới, bản thân tôi nhận thấy trong một tiết dạy giáo viên phải chuyển tải nhiều kiến thức. Đồng thời phân chia thời gian học lý thuyết cũng như thực hành, phải hợp lý khoa học mới giải quyết được hết trọng tâm nội dung bài dạy. Ví dụ: Bài số 4 – lớp 11 “ Giới thiệu súng tiểu liên AK và súng trường CKC” Thời lượng theo PPCT 5 tiết (1LT; 4 TH). Hoặc bài số 5 tương ứng tỷ lệ 7 tiết ( 1LT; 6 TH ). Nếu người dạy không sử phương pháp tổng 3 quát, phương pháp phân nhóm hay phương pháp góc học tập thì sẽ khó khăn đến việc giải quyết và truyền tải một lượng kiến thức bài học tới người học. Bên cạnh đó việc sử dụng CNTT là điều rất cần thiết soạn giảng trên Máy chiếu, giúp người dạy hoàn thành được 50% công việc. Mặt khác, không để học sinh học phần lí thuyết cũng như thực hành một cách thờ ơ, xem thường và cũng tránh sự nhàm chán trong tập luyện đó là yếu tố chủ quan, đòi hỏi giáo viên phải vận dụng phát huy tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Đối với giáo viên Giáo dục quốc phòng-an ninh , công việc giảng dạy phải gắn liền với nghiên cứu và tự nghiên cứu, học hỏi, nghe các thông tin, thời sự.... Đây là con đường ngắn nhất để không ngừng tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư duy, góp phần tìm ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt tri thức tới người học. Cần lưu ý rằng, để phục vụ đắc lực cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy, hướng nghiên cứu của các giáo viên giáo dục quốc phòng-an ninh nên tập trung trực tiếp vào nội dung kiến thức môn học hay những yếu tố tham gia vào quá trình dạy và học như: Đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới nội dung chương trình học tập... Đổi mới mạnh mẽ sâu rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra, đánh giá: Giáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hoá hơn nữa quá trình học tập của học sinh, phải tạo ra được cơ chế buộc học sinh phải tham khảo tài liệu, chủ động nắm bắt nội dung môn học, nhằm hiểu sâu hơn nữa kiến thức. Đồng thời, cần 4 cải tiến phương pháp học tập của học sinh, bởi hoạt động của giáo viên trên lớp đã bao hàm hoạt động của học sinh; cũng như vậy, hoạt động học của học sinh luôn chứa đựng vai trò giảng dạy của giáo viên. Để dự báo năng lực học tập, tự giáo dục của học sinh và khích lệ bằng điểm thưởng cho những học sinh có tinh thần nghiên cứu bài học, điều đó phụ thuộc vào khả năng giảng dạy, điều khiển của giáo viên. Qua đó điều chỉnh, cải tiến phương pháp học tập của học sinh, phương pháp giảng dạy của thầy. Có như vậy, chúng ta mới thực sự biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Vậy tôi mạnh dạn viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một vài kinh nghiệm và giải pháp nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh cho học sinh trường THPT Hoằng Hóa 2.”. Riêng bản thân tôi, khả năng và năng lực chiều sâu còn hạn chế, đòi hỏi cần phải nỗ lực hơn nhiều. Một lần nữa, với lí do trên nên tôi chọn đề tài này, nhưng trong quá trình nghiên cứu, viết đề tài, tất sẽ không tránh khỏi những thiếu xót, bởi đây là một đề tài rất mới mẻ đối với bản thân. Rất mong bạn bè, đồng nghiệp… góp ý, tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài sáng kiến và kinh nghiệm năm học 2012-2013 và nếu thành công, đó sẽ là cơ sở để tôi có cơ hội tiếp tục nghiên cứu ở những chương , bài rộng hơn nữa. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 5 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới; Chỉ thị số 417/CT-TTg ngày 31/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ vế việc tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác GDQP-AN năm 2010 và những năm tiếp theo; Nghị định 116/2007-NĐ-CP về GDQPAN cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác làm cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN trong các trường THPT. Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực khả năng, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo cũng đã nêu : “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. 6 Năm học 2012-2013 Trường THPT Hoằng Hóa 2 tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung trọng tâm: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc cho học sinh ngồi nhầm lớp. Gắn kết với việc triển khai tổ chức thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/6/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Để đạt được mục tiêu đề ra là đảm bảo chất lượng giáo dục ổn định và phát triển vững chắc. Ngay từ đầu năm học Trường THPT Hoằng Hóa 2 đã chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và các bậc Phụ huynh hiểu rỏ mục đích, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang ở vào giai đoạn, mà việc đổi mới phương pháp giảng dạy, đang là một vấn đề cấp bách được đặt ra. Phải khuyến khích tự học phải vận dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo. Để thực hiện tốt chủ trương này thì cần phải đào tạo khả năng tự học cho học sinh. Nói đến giáo dục quốc phòng – an ninh. Trường THPT Hoằng Hóa 2 là một trong những đơn vị trong huyện có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện sân bãi đáp ứng số lượng tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh cho gần 1500 học sinh. Tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cho các em học sinh những tri 7 thức cơ bản của nền Giáo dục quốc phòng toàn dân, những hiểu biết về tổ chức QĐND Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt Nam, truyền thống đấu tranh dựng nước - giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là những kiến thức rất bổ ích, thiết thực với học sinh phổ thông trước ngưỡng cửa cuộc đời. Học sinh còn được làm quen với tác phong quân đội qua các bài học về điều lệnh, đội ngũ, các tư thế vận động cơ bản trong chiến đấu, băng bó, cứu thương....làm quen với các phương tiện chiến đấu như ném lựu đạn, cách bắn súng tiểu liên AK ... Qua học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh đã giáo dục cho học sinh lòng yêu nước - tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ thù.Toàn bộ chương trình học tập của từng khối được xây dựng theo chương trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đảm bảo dạy đủ môn, đủ tiết, đúng phân phối chương trình. Vì vậy các tiết học giáo dục quốc phòng – an ninh học sinh tham gia học đầy đủ tích cực sôi nổi và hào hứng. Giáo dục quốc phòng – an ninh trong trường THPT là môn học chính khóa, là bộ môn khoa học tổng hợp có phạm vi vô cùng rộng lớn và khá phức tạp, nên không thể đơn giản, sơ sài mà nó phải được coi là một hệ thống chương trình và phải được quán triệt trong tất cả các môn học trong mọi hoạt động của học sinh, ở mọi lúc, mọi nơi, có vậy mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng hiện tại và tương lai. 8 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: 2.1 Thuận lợi : - So với khu vực, trường Trung học phổ thông Hoằng Hóa 2 là một trường có bề dày về kết quả đào tạo học sinh và là trường đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia trong những năm tới, nên vấn đề chuyên môn giảng dạy luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm sâu sát. Trường có một đội ngũ sư phạm hùng hậu đều đạt chuẩn và trên chuẩn về kiến thức, có chuyên môn vững, nhiệt tình, tận tụy với công tác quản lý và giảng dạy. - Hội đồng sư phạm nhà trường về tuổi đời công tác được dàn trải qua nhiều thế hệ, và luôn có sự đoàn kết gắn bó mật thiết với nhau. - Đối với môn Giáo dục quốc phòng – An ninh. Nhà trường cùng các cấp lãnh đạo luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh đều được đào tạo vững về chuyên môn, nhiệt tình và tâm huyết với môn học. - Điều kiện sân bãi, phòng học, dụng cụ trang thiết bị cần thiết cho môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh tương đối đầy đủ. - Nền nếp, kỷ cương của nhà trường đối với học sinh chặt chẽ qua từng cấp, từng khâu nên đa phần các em chăm ngoan và có ý thức học tập tốt. 2.2. Khó khăn : 9 - Đội ngũ giáo viên giáo dục Quốc phòng – An ninh hoàn toàn là giáo viên được đào tạo từ chuyên ngành giáo dục thể chất. Đối với lĩnh vực Quốc phòng – An ninh, tuy được đào qua lớp giáo viên giáo dục Quốc phòng và được tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, cấp giấy chứng nhận đã học qua lớp Đào tạo ngắn hạn và được bồi dưỡng qua các chuyên đề thường xuyên hàng năm, nhưng do đây là một lĩnh vực khá mới mẻ và thời gian được lĩnh hội về chuyên môn còn hạn chế nên ít nhiều đã gặp phải khó khăn trong giảng dạy. - Đối với học sinh: Do khách quan các em được sinh ra và lớn lên trong thời bình và do yêu cầu về lượng kiến thức của các môn học, giờ học cộng thêm áp lực từ phía không ít phụ huynh phân luồng theo khối A, B. Nên đã tác động ít nhiều đến suy nghĩ và việc xác định nhiệm vụ học tập đối với bộ môn này. Đối với một phận nhỏ học sinh còn ngộ nhận và coi đây là môn học phụ dẫn đến ý thức học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh chưa cao. Dẫn đến tình trạng học sinh chưa trang bị đầy đủ sách giáo khoa về môn giáo dục quốc phòng – an ninh, còn mang tính đối phó nên làm cho việc giảng dạy theo phương pháp mới còn bị hạn chế nhất định. - Dụng cụ, trang thiết bị cho môn học tương đối đầy đủ từ nguồn được Sở Giáo dục – Đào tạo cấp và một số tự trang bị: Khu vực huấn luyện thực hành đã nâng cấp nhưng chưa được đảm bảo. Đặc biệt là thiếu phòng máy chiếu. Để đạt được kết quả tốt qua nội dung ngắm bắn giáo viên đã gặp khó khăn thực sự, nếu chỉ trang bị cho các em học sinh 10 về lý thuyết bắn, tư thế bắn, các yếu lĩnh của động tác bắn với thời lượng 1 tiết học lý thuyết thì hiệu quả thực sự chưa cao trong khi luyện tập, 2.3 CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 2.3.1. Một vài kinh nghiệm nâng cao chất lượng Giáo Dục Quốc Phòng – An Ninh: 2.3.1.1. Tuyển chọn VĐV thi đấu Hội thao GDQP-AN cấp tỉnh: Biện pháp thực hiện: Về thời gian hội thao cấp Tỉnh thực hiện 1 năm/1lần, cấp trường tổ chức hằng năm theo hướng dẫn và kế hoạch Hội thao năm học về GDQP-AN, thì Tổ trưởng chuyên môn bắt đầu lập kế hoạch, phân công giáo viên chịu trách nhiệm môn thi: Môn điều lệnh quan trọng nhất là chọn cho được một học sinh làm chỉ huy phải có dáng dấp quân đội, tiếng hô to, rỏ, mạnh dạn và dứt khoát, tốt nhất là chọn học sinh có giọng phổ thông, tránh giọng địa phương. Sau đó phân công trực tiếp cho em làm Tiểu đội trưởng của một tiểu đội trong lớp, giáo viên nào hướng dẫn lớp đó sẽ bồi dưỡng trực tiếp cho em đó. Song song thì các giáo viên còn lại cũng tự tìm kiếm một tiểu đội trưởng và huấn luyện cho em đó, rồi cuối cùng chọn ra một tiểu đội trưởng tham gia Hội thao. Tính Hiệu quả qua thực tế: Qua thực nghiệm năm học năm học 2010 – 2011. Học sinh: Lê Quang Mai Lê Đạt giải 3 cá nhân Tiểu đội trưởng. Năm học 2011 – 2012. HS: Lê Thị Út - giải nhất cá nhân Tiểu đội trưởng, Đạt cờ giải ba môn đọi ngũ. 11 Các môn còn lại sẽ chọn theo thành tích đạt được trong hội thao, số lượng chọn thì gấp đôi để sau khi tập luyện sẽ chọn VĐV chính thức được hoàn hảo hơn. Sau đó sẽ biên chế về các lớp, rồi giáo viên được phân công sẽ có kế hoạch tập luyện ở những giờ ngoại khóa (theo quy định kế hoạch tập luyện hội thao cấp tỉnh). 2.3.1.2. Tuyển chọn học sinh thi các môn thực hành: Biện pháp thực hiện: Thực hiện công văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục quốc phòng-an ninh năm học. Căn cứ hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục quốc phòng trong năm học của Sở GD&ĐT Thanh Hóa. Căn cứ kế hoạch tổ chức học tập môn học GDQP của nhà trường; Qua quá trình học tập nội dung môn học của học sinh; Hằng năm Sở Giáo dục và Đào tạo kết hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự tổ chức trọng tài thi đấu cho học sinh khối THPT. Theo kế hoạch của tổ bộ môn thì trong quá trình giảng dạy bài kĩ thuật tháo lắp súng tiểu liên AK, kĩ thuật băng bó cứu thương, kĩ thuật ném lựu đạn và môn chiến thuật. Tại lớp các giáo viên phải chọn cho mình một số học sinh có kết quả học tập tốt sau đó sàn lọc lại một lần nữa và việc đầu tiên là cho học sinh khám sức khỏe.Việc khám sức khỏe tập 12 trung chú ý vào huyết áp và tim mạch của các em. Những học sinh nào có vấn đề về huyết áp và tim mạch thì dứt khoát bị loại. Sau đó tiếp tục có kế hoạch, nội dung tập luyện. Thông qua việc khảo sát, tuyển chọn ra được những học sinh có độ nhanh nhẹ, khéo léo. Sau quá trình tập luyện theo đúng chế độ và trước khi đi tham gia thi một ngày. Tổ bộ môn sẽ phân công giáo viên trưởng đoàn, giáo dục về tâm lý khi tham gia thi đấu nhất là học sinh mới lần đầu thi đấu (yếu tố này rất quan trọng) rồi sau đó thực Điều quan trọng nhất là phải giáo dục cho các em thật kỉ lưởng, phải bình tỉnh, tự tin không cẩu thả. Nắm vững nguyên tắc khi tháo, lắp và để đúng quy định: 2.3.1.3. Dụng cụ sân bãi: Biện pháp thực hiện: Về sân bãi thì hàng năm Tổ bộ môn làm tờ trình xin nhà trường có kế hoạch tu bổ, đổ bồi thêm đất cát vào, không để động vũn khi mưa to, đảm bảo sân bãi đúng qui cách. Trang bị thêm dụng cụ tập, sách giáo khoa, tranh ảnh. Cụ thể: Giáo viên tham gia trực tiếp huấn luyện ngoài việc sử dụng cụ, thiết bị vốn có được ngành cấp, bổ sung mua các thiết bị phục vụ cho môn học, khuyết khích học sinh tự làm . 13 Ví dụ: Băng, gạc cá nhân dùng để thực hành băng; Môn chiến thuật học sinh tự làm cọc, dây làm hàng rào... 2.3.1.4. Kết hợp với Ban Giám Hiệu Nhà trường tổ chức học tập pháp luật, mít tin…: Biện pháp thực hiện: Để đổi mới hình thức, phương pháp GDQP-AN cho học sinh, nhân các ngày lễ lớn của đất nước, địa phương, Tổ trưởng chuyên môn đề nghị Ban giám hiệu nhà trường để phối kết hợp với Đoàn trường tổ chức Giáo dục pháp luật, cho học sinh tham gia mít tin, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; thi tìm hiểu ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam; ngày thành lập Công An nhân dân, ngày thành lập Tỉnh, thi về phòng chống ma túy, HIV… Qua đó đã nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, truyền thống của quê hương, đất nước, nâng cao nhận thức về quốc phòng, an ninh cho học sinh. 2.3.1.5. Học theo phương pháp thảo luận nhóm: Học nhóm là một hình thức học hợp tác nâng cao chất lượng của học sinh – các học sinh giao lưu với nhau và có được những kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt. Biện pháp thực hiện: 14 Theo cách này, học sinh được tạo cơ hội tự đặt câu hỏi, thảo luận, trình bày quan điểm, và thực hiện học hợp tác. Để có thể phát huy được những lợi ích của việc học nhóm, giáo viên phải cung cấp nền tảng cho học sinh. Do đó, giáo viên phải khơi gợi hứng thú học sinh bằng cách chọn những chủ đề thảo luận tương ứng với trình độ của học sinh, hoặc đặt câu hỏi và đưa ra vấn đề dẫn dắt học sinh đạt đến mức độ tư duy sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, quá trình cộng tác cũng phải được sắp xếp hợp lý về kế hoạch, nội dung và chương trình để đảm bảo tất cả các thành viên trong nhóm, chuẩn bị lượng kiến thức nhất định tham gia một cách tích cực, có hiệu quả. Chia lớp thành 4 nhóm, 10-11 thành viên/nhóm theo những tiêu chí như sau: Mỗi nhóm đều có những cán sự lớp "cứng”, là những thủ lĩnh nhóm đầu tiên. Chia các nhóm đồng đều theo tỷ lệ học lực: có bạn khá, có bạn chưa khá. Chia nhóm đồng đều theo tỷ lệ rèn luyện, tương tự học lực. Tỷ lệ nam nữ tương đương với tỷ lệ nam nữ của lớp 50:50. Xây dựng quy định cho nhóm. Với cách chia nhóm như thế này, các nhóm đồng đều nhau nên dễ dàng hơn trong quản lý, đặc biệt, có một số cán sự lớp ở mỗi nhóm là hạt nhân để phát triển nhóm. Tuy vậy, theo đánh giá khách quan của các Thầy, Cô giáo, kỹ năng làm việc nhóm của học sinh hầu như là không có. Tuy có được thầy cô giáo phổ biến nhưng không rõ ràng và đầy đủ vì còn hạn chế nhiều về thời gian và trình độ. Đây là một "khâu” quan trọng nếu muốn làm tốt sự thay đổi trong dạy và học. Nó cung cấp những kiến thức cơ 15 bản về kỹ năng làm việc, giao tiếp trong nhóm, là những viên gạch nền tảng đầu tiên để xây dựng nên thành công của thảo luận nhóm. Thủ lĩnh nhóm sẽ phải biết năng lực, thế mạnh của các thành viên. Nhận một đề tài, phân chia theo cách: - Ai viết đề cương? Làm bảng phân công công việc. Hầu hết là nhóm trưởng - Ai tìm tài liệu?- Ai xử lý tài liệu?- Ai viết bài?- Ai phản biện lại bài viết, tài liệu của nhóm?- Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khác- Ai thư ký? Chính sách thưởng phạt trong thảo luận. Thưởng cho những học sinh tham gia sôi nổi, nhiệt tình bằng cách đặt câu hỏi hay. Thông thường, câu hỏi được đưa lên cho nhóm trình bày và được chuyển cho giáo viên, giáo viên xem xét, chọn câu hỏi hay, chuyển cho nhóm thảo luận trả lời. Người hỏi tranh luận trực tiếp với người trả lời. Sau khi nghe câu trả lời, người đặt câu hỏi phải phản biện được, đúng ở đâu, sai ở đâu, góp ý gì cho câu trả lời hoàn thiện. Như thế yêu cầu người hỏi phải nắm vững câu hỏi, tham gia với tinh thần đóng góp, xây dựng tốt. Đây là một mô hình tốt, rất đáng học tập, thu hút được học sinh. Đối với những học sinh ôn luyện tham gia thi học sinh giỏi cấp tỉnh, việc áp dụng phương pháp học nhóm là vấn đề rất quan trọng. Học nhóm để các em có điều kiện trao đổi kiến thức và cũng cố lại trí nhớ ( thành lập kỹ năng bền vững ). 2.3.1.6. Kinh nghiệm về việc đổi mới phương pháp giảng dạy truyền thống 16 chuyển sang dạy bằng giáo án điện tử là cả một quá trình đổi mới tư duy: Biện pháp thực hiện: - Cần phải thống nhất về nhận thức và tư duy của đội ngũ giáo viên. Đây là vấn đề tưởng chừng đơn giản nhưng khi thực hiện thì có một số ý kiến cho rằng, soạn giáo án điện tử chỉ là chuyển giáo trình văn bản được sao từ file word sang các slide rồi đem chiếu lên cho học sinh xem. Đây là một quan niệm nhầm lẫn mà chúng ta cần loại bỏ. Vì để soạn được một giáo án điện tử đem lại hiệu quả cao cho người học thì người thầy phải bỏ ra rất nhiều công sức và tâm huyết. Tôi muốn nhấn mạnh là vất vả hơn nhiều khi dạy bằng phương pháp truyền thống. Việc chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thống sang giảng dạy bằng giáo án điện tử tôi mới bắt đầu thực hiện từ khi áp dụng chương trình cải cách giáo dục ban đầu giáo viên gần như tự mày mò, tìm hiểu, học hỏi đồng nghiệp, học lớp tin học do Sở Giáo dục, nhà trường tổ chức và cấp chứng chỉ. Từ thiết kế giáo án cho đến cách trình bày… chưa có một chuẩn thống nhất, vì vậy còn những khiếm khuyết và dẫn đến có những ý kiến, thậm chí cả phản đối dạy bằng giáo án điện tử. Tôi nghĩ rằng đổi mới ở lĩnh vực nào cũng vậy thôi, bước đầu sẽ có những khó khăn, nhưng chúng ta mạnh dạn làm, điều chỉnh dần dần và cộng với lòng đam mê nghề nghiệp thì chúng ta sẽ gặt hái được những thành công. 2.3.1.7. Kinh nghiệm về chuẩn bị và giảng dạy bằng giáo án điện tử: 17 Biện pháp thực hiện: - Về thiết kế bài giảng: Bài giảng điện tử cần được thiết kế sao cho có nội dung và hình thức trực quan, sinh động và lôi cuốn; vì vậy, phải lồng ghép thêm các tư liệu hình ảnh, các đoạn phim ngắn hay âm thanh có liên quan đến nội dung bài giảng; yếu tố thẩm mỹ cũng cần được coi trọng trong việc thiết kế bài giảng điện tử sao cho có màu sắc, hình thức đẹp nhưng không rối mắt do tạo quá nhiều hiệu ứng (chuyển trang, chạy chữ…) làm cho học sinh mất tập trung vào nội dung chính của bài giảng và mất thời gian vô ích. Các công đoạn thường theo một qui trình sau: Sau khi soạn nội dung (phần chữ cho các slide) cho bài giảng, chỉnh sửa và thu gọn cho phù hợp với nội dung các tiết học trong giáo án điện tử. Theo kinh nghiệm của tôi sẽ đưa lên slide những thông tin lẽ ra viết lên bảng (khi dạy bằng phương pháp truyền thống), chủ yếu là các đề mục và một số nội dung tóm tắt hay các trích dẫn… tuyệt đối không bê nguyên bài soạn vào slide. Và vì vậy, cũng xin nói thêm là sử dụng giáo án điện tử nhưng vẫn phải có bài soạn… Công việc đầu tiên khi thiết kế slide cho bài giảng điện tử là phải chọn màu nền, phông chữ, kiểu chữ và cỡ chữ cho bài giảng. Đây là khâu khá quan trọng, làm tốt khâu này sẽ giúp học sinh dù ngồi cuối lớp vẫn theo dõi được slide đồng thời chữ không quá lớn, 18 chiếm quá nhiều “diện tích” của mỗi slide; màu nền, màu chữ cũng cần hài hòa sao cho đảm bảo độ tương phản nhưng không quá lòe loẹt hay ảm đạm gây phản cảm. Do chưa có một chuẩn chung, do đó tôi phải thiết kế thử và giảng thử nhiều lần trên lớp, lấy ý kiến giáo viên trong tổ và của học sinh để chọn được một phương án phù hợp nhất. Nên cố gắng mô hình hóa nội dung bài giảng thành các sơ đồ, mô hình, đồ thị để chuyển các slide. Công việc này chiếm mất nhiều thời gian, công sức của giáo viên, nhưng bù lại việc truyền tải bài giảng đến học sinh sẽ rất trực quan, sinh động, giúp học sinh hưng phấn hơn khi tiếp thu bài giảng và do đó hiệu quả tiếp thu bài giảng sẽ cao hơn. Việc thiết kế kết cấu bài giảng cũng như sự tiện lợi khi giảng cũng cần được chú trọng. Tôi chọn giải pháp để tất cả các chương trình cùng một tệp Powerpoint và sử dụng tính năng Huperlink của Powerpoint để liên kết giữa các chương trong bài giảng và giửa các nội dung bài giảng với các tư liệu được sử dụng. Ví dụ: khi giáo viên đang giảng ở trang danh mục các chương, có thể chuyển ngay đến chương bất kỳ của bài giảng bằng cách nhắp chuột lên đầu mục chương đó trong danh sách. Hay có thể sử dụng các nút chức năng để chuyển đến phần tư liệu và quay về vị trí bài giảng ban đầu… Tóm lại, giáo viên có thể chuyển đến một vị trí tùy ý trong bài giảng chỉ bằng một vài lần nhắp chuột mà không phải lần tìm mất thời gian. 19 Các tư liệu sưu tầm được phải chọn lọc, phân loại, cắt ghép sao cho phù hợp với mỗi tiết, mỗi chương trình bài giảng. Thời lượng của tư liệu, nhất là phim tư liệu nên vừa đủ minh họa cho phần bài giảng tránh kéo dài không cần thiết làm loãng thông tin và ảnh hưởng đến thời gian của tiết học. Các phim tư liệu có thời lượng dài, bổ ích cho môn học được thu xếp cho học sinh xem vào một vài tiết học riêng. Yêu cầu học sinh thu hoạch, liên hệ với bài giảng. - Giáo viên trên lớp với giáo án điện tử: Với việc dạy học bằng giáo án điện tử giáo viên sẽ hạn chế tối đa việc viết bảng, thời gian, sức lực giáo viên tập trung cho bài giảng có sức lôi cuốn học sinh hơn.Tuy nhiên, giáo án điên tử chỉ là sự trợ giúp, còn chất lượng bài giảng tốt hay không phụ thuộc vào các yếu tố: Sự truyền đạt tri thức, trình độ của giáo viên và thái độ của người học. Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn GDQP-AN sẽ có rất nhiều phát kiến mới, giáo án điện tử bước đầu mang đến cho giáo viên và người học những kết quả thiết thực. 2.3.1.8. Vai trò của đội ngũ cán sự môn học: Biện pháp thực hiện: Chúng ta biết rằng không thể có ngay số em học sinh có năng lực làm cán sự lớp. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan