Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một vài kinh nghiệm lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính trong giảng dạy môn s...

Tài liệu Một vài kinh nghiệm lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính trong giảng dạy môn sinh học lớp 11

.DOC
21
1700
104

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO CAI TRUNG TÂM GDTX VĂN BÀN  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT VÀI KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP KIẾN THỨC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC LỚP 11 Người thực hiện: Lê Thị Thu Hằng Đơn vị công tác: Trung tâm GDTX Văn Bàn. Năm học: 2013 - 2014 MỤC LỤC I. Lí do chọn đề tài ................................................................Trang 2 II. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp ....................Trang 4 III. Nội dung: 1. Cơ sở lí luận ..................................................................Trang 7 2. Nội dung biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài..Trang 9 IV. Kết quả ………………………………………………… Trang 18 V. Kết luận.............................................................................Trang 18 VI. Tài liệu tham khảo...........................................................Trang 19 2 Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP KIẾN THỨC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC LỚP 11 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Theo qui luật tự nhiên, mọi sinh vật không ngừng phát triển và thay đổi. Con người cũng vậy. Kể từ khi chào đời, cơ thể ngày ngày lớn lên, trí tuệ ngày càng thêm sâu sắc. Có một khoảng thời gian đặc biệt mà các em có những bước phát triển nhảy vọt về cả thể chất lẫn tâm hồn, giai đoạn này kéo dài trong vài năm, biến các cô bé, cậu bé trở thành những cô gái, chàng trai. Đây là giai đoạn rất quan trọng đánh dấu sự hình thành giới tính và nhân cách của mỗi con người , và được gọi là “giai đoạn dậy thì ”. Sức khỏe sinh sản của các em lúc này đứng trước nhiều mối đe dọa nghiêm trọng . Nếu không được hướng dẫn, chăm sóc một cách đúng đắn, hai nguy cơ lớn nhất ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của các em là tình trạng có thai sớm và tình trạng nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó HIV/ AIDS là bệnh lây truyền qua đường tình dục rất nguy hiểm, nó không phải là bệnh riêng của người làm nghề mại dâm hay tiêm chích ma túy, mà nó có thể gõ cửa từng nhà, nếu ta không biết cách đề phòng. Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản phải bắt đầu bằng giáo dục từ gia đình, vai trò của cha mẹ, truyền thống, đạo đức, luật pháp của quốc gia, sau đó là kiến thức cơ bản về cơ thể học, sinh lý học, các thông tin về tình dục và sinh sản cơ bản. Muốn thực hiện được điều đó thì việc phổ biến các kiến thức chuyên môn về cơ thể học, sinh lý học, tâm lý học và các quan điểm về đời sống tình dục phải được trình bày một cách công khai. Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản hiện nay đã trở thành một nhu cầu cấp bách của xã hội. Trong nhà trường giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản chưa được đưa vào dạy một cách công khai, có bài bản; mới chỉ dừng ở mức lồng ghép vào một số tiết của một số môn học, chỉ có tính cung cấp cho học sinh thông tin về dân số và sức khỏe sinh sản, các biện pháp sinh hoạt tình dục an toàn để tránh lây nhiễm HIV. Còn ngoài xã hội, trong các cơ sở tôn giáo, trong các câu lạc bộ hôn nhân và gia đình chỉ nói một cách mơ hồ chưa giám trình bày một rõ ràng khoa học đó không phải là giáo dục giới tính đích thực. Trong các môn học có thể nói sinh học là môn dễ lồng ghép những kiến thức cơ bản về việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản giúp các em có ý thức bảo vệ cơ thể, sống lành mạnh. Trong các năm học qua để giáo dục học sinh có thức bảo vệ sức khỏe tốt, trong các tiết dạy có kiến thức liên quan tôi đã chú ý lồng ghép vấn đề này vào trong bài dạy, tôi nhận thấy đã đạt được một số hiệu quả nhất định với hy vọng góp phần nâng cao được ý thức cho học sinh tự bảo vệ cơ thể mình từ đó có ý thức bảo vệ bản thân và gia đình thông qua môn học. Với mong muốn giúp học sinh tích cực và chủ động trong việc tiếp thu chủ đề này, để các em có thể tự giải đáp những tò mò, 3 thắc mắc của bản thân đồng thời có những hành trang cần thiết cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân, tôi đã tìm hiểu thu thập thông tin, sử dụng một số phương pháp, phương tiện dạy học lồng ghép nhằm khai thác có hiệu quả nội dung giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh khi giảng dạy môn sinh lớp 11 Cơ bản. II . THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI: 1. Thực trạng về giáo dục giới tính, sinh sản sức khoẻ vị thành niên, tình dục an toàn trong nhà trường THPT: - Việc đưa giáo dục giới tính vào trường học là điều đã được thừa nhận. Nhưng hầu hết các trường THPT đều lúng túng khi đưa giáo dục giới tính vào giảng dạy. Các trường đều chọn giải pháp là lồng ghép hoặc ngoại khoá. Các giáo viên thiếu kiến thức chuyên môn, thiếu kĩ năng giảng dạy về vấn đề nhạy cảm này. Cũng chưa có trường nào xây dựng được chuẩn kiến thức chung về vấn đề này khi dạy lồng ghép. Nếu dạy thì cũng chỉ thiên về lí thuyết còn thực hành thì bỏ ngỏ. Về giáo cụ trực quan là không có, giáo viên không được tập huấn kĩ càng để giảng dạy về vấn đề giới tính. - Trách nhiệm này hiện nay có lẽ giáo viên sinh học được mong đợi nhiều nhất. Tuy nhiên dạy thế nào thì giáo viên phải tự biên tự diễn. Không có hướng dẫn cụ thể không ai kiểm tra, đánh giá công tác này. Hậu quả của việc này dẫn đến học sinh thu nhận một lượng kiến thức rời rạc, chắp vá. Bản thân các em đã nhận được kiến thức từ thông tin đại chúng, trong khi cần một người tổng hợp, đưa ra những kiến thức có tính cơ bản, tổng quát thì chúng ta chỉ có thể cung cấp cho các em kiến thức lồng ghép, không hệ thống, thiếu thực hành nặng về lý thuyết. Bởi vậy bài toán giáo dục giới tính trong trường THPT chưa có lời giải đáp thích đáng. - Giáo dục giới tính là giáo dục kĩ năng sống. Khi giáo dục kĩ năng sống đòi hỏi có những kĩ năng riêng thì mới đạt hiệu quả cao. Hầu hết các giáo viên THPT hiện nay chưa được đào tạo kĩ năng này một cách chuyên nghiệp. Điều này dẫn tới hậu quả là giáo viên né tránh hoặc khi giảng dạy không mang lại hứng thú cho học sinh. Đặc biệt các giáo viên trẻ thường bỏ qua khi mà chưa có qui định nào bắt buộc phải dạy giáo dục giới tính trong từng bài học cụ thể. - Các cấp lãnh đạo cũng chưa thật sát sao trong khâu quản lí theo dõi việc giáo dục giới tính trong quá trình giảng dạy. Chưa có tổng kết, đánh giá về hoạt động này trong nhà trường một cách chính xác, sát thực. Dạy lồng ghép chỉ là phương án tạm thời, rất cần thiết có những chương bài chi tiết, cụ thể, phù hợp về giáo dục giới tính. Rất cần thiết đào tạo một đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, được trang bị đầy đủ kĩ năng, kiến thức, nắm bắt được tâm lí học sinh để thực hiện các bài dạy giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn một cách hiệu quả. 2. Thực trạng về hiểu biết giới tính, sức khoẻ sinh sản vị thành niên, tình dục an toàn của học sinh tại trung tâm GDTX huyện Văn Bàn: - Tháng 11 năm 2013 vừa qua Trung tâm GDTX Văn Bàn tổ chức cho 10 lớp thi tìm hiểu kiến thức sinh sản vị thành niên, cùng đồng hành với học sinh trong suốt cuộc thi với vai trò hỗ trợ kiến thức và là thành viên của ban giám khảo, 4 tôi nhận thấy các em hầu như không được trang bị kiến thức về kĩ năng sống cũng như tình dục an toàn. Các tiểu phẩm tham gia thi đều kết thúc bằng việc thiếu hiểu biết về an toàn tình dục nên có thai ngoài ý muốn; khi có thai người mà các em cần đến để chia sẻ đầu tiên là bạn bè, chỉ có 1/ 10 tiểu phẩm là xuất hiện vai trò của giáo viên chủ nhiệm; 2/ 10 xuất hiện vai trò của mẹ nhưng chỉ là “la mắng”, từ thực tế này cho thấy vai trò giáo viên, gia đình trong việc giáo dục giới tính cho các em rất hạn chế, các em chưa tin tưởng để chia sẻ những vương mắc đầu đời về giới tính, an toàn tình dục. 3. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài: a. Thuận lợi: - So với các bộ môn khác môn sinh là bộ môn có nhiều kiến thức liên quan tới giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản. - Ứng dụng CNTT trong giảng dạy cho phép cặp nhật nhiều thông tin cũng như hình ảnh minh họa cho bài dạy. - Bản thân tôi là một giáo viên nữ, lớn tuổi, có gia đình nên việc giảng dạy kiến thức sinh sản dễ dàng tự nhiên, học sinh tin tưởng lắng nghe và tiếp thu khá hiệu quả. b. Khó khăn: - Hiện nay, trong chương trình đào tạo của Việt Nam, vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Chưa có môn giáo dục giới tính được đưa vào nội dung giảng dạy. Vấn đề này được lồng ghép vào một số nội dung của môt số bài trong môn sinh học, môn giáo dục công dân, môn địa lí. Tuy nhiên, những nội dung đó vẫn còn chung chung, chưa đáp ứng được nhu cầu hiểu biết và sự cần thiết phải nắm vững các kiến thức về giới tính của học sinh. - Thái độ của các em khi nói đến những vấn đề liên quan đến giới tính còn khá dè dặt, các em chưa hề mạnh dạn trong quá trình tìm hiểu hay tiếp thu những kiến thức đó. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên chuyên trách về những vấn đề này chưa trường nào có. Các hoạt động giáo dục của nhà trường chỉ dùng lại ở một số buổi nói chuyện, ngoại khóa về một số vấn đề sức khoẻ giới tính, phòng chống HIV/AIDS... Hầu hết các giáo viên giảng dạy các bộ môn khi đề cập đến việc dạy các kiến thức về giới tính cho học sinh còn cảm thấy ngượng, nên việc truyền đạt kiến thức cho học sinh còn có phần hạn chế. - Xã hội hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này nên hay không nên đưa chương trình giáo dục sức khoẻ giới tính vào chương trình giáo dục PTTH. Vấn đề lớn được đặt ra ở đây là làm thế nào để lấp lỗ hổng trong công tác giáo dục giới tính cho các em đang ở giai đoạn vị thành niên. Theo ý kiến của cá nhân tôi, việc cần thiết phải trang bị cho các em các kiến thức về vấn đề giới tính là không cần phải bàn cãi. Tuy nhiên, không nên quá tham lam để đưa quá nhiều nội dung giáo dục giới tính trong một tiết học, chỉ nên làm sao việc giáo dục giới tính diễn ra một cách nhẹ nhàng và đều đặn qua các tiết học. 5 4. Số liệu thống kê: Tiến hành khảo sát kiến thức cơ bản vê sức khỏe sinh sản vị thành niên trước khi thực hiện đề tài ở 4 lớp 11A (1, 2, 3,4) tại Trung tâm GDTX Văn Bàn với 10 câu hỏi sau: Câu 1: Vị thành niên gồm các giai đoạn nào sau đây: a. Từ khi sinh ra đến tuổi dây thì. b. 3 giai đoạn: từ 10 – 13 tuổi; từ 14 – 16 tuổi; từ 17 – 19 tuổi c. Cả 2 ý trên đều đúng. Câu 2: Giai đoạn từ 16 tuổi đến 19 tuổi cấu tạo sinh lí có đặc điểm: a. Cơ thể trưởng thành, con gái hầu hết có kinh, con trai “chín về sinh dục”. b. Lớn nhanh. c. Hình thành các đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp, có kinh (ở nữ), sinh tinh (ở nam). Câu 3: Nếu quan hệ tình dục có giao hợp ở tuổi vị thành niên sẽ: a. Không gây hậu quả vì cơ quan sinh dục chưa phát triển đầy đủ. b. Có thai vì ở nữ trứng đã chín và rụng; ở nam đã hình thành tinh trùng. c. Cả 2 ý trên đều đúng. Câu 4: Tình yêu là gì? a. Là tình bạn thân thiết giữa một người nam và một người nữ. b. Là tình thương mến sâu sắc, sự hòa hợp giữa hai người khác giới. c. Là tình cảm giữa hai người không phân biệt giới tính. Câu 5: Điểm khác biệt giữa tình bạn cùng giới và khác giới là: a.Tình bạn giữa bạn nam và bạn nữ. b. Có sự chân thành tin cậy, đồng cảm sâu sắc. c.Có một khoảng cách tế nhị, không dễ biểu lộ thân mật gần gũi, Câu 6: Thế nào là tình dục an toàn? a.Thỏa mãn nhu cầu sinh lý. b. Đảm bảo không nhiễm các bệnh lây lan qua đường tình dục, không gây tổn thương cơ quan sinh dục. c. Cả hai đều đúng. Câu 7: Chu kỳ kinh nguyệt của một người phụ nữ: a.Thay đổi từ 21 đến 35 ngày. b. Chính xác 28 ngày. c.Có một chu kỳ. Câu 8: Bạn hãy cho biết, HIV không lây qua con đường nào sau đây? a.Đường tình dục. b. Giao tiếp thông thường ( ôm hôn, bắt tay…). c. Lây từ mẹ nhiễm HIV sang con. Câu 9: Bạn hãy cho biết, ở nước ta hiện nay tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất nằm trong độ tuổi nào? a.Dưới 20 tuổi. b. Từ 20- 29 tuổi. c.Từ 30- 39 tuổi Câu 10: Tác hại của việc mang thai ở tuổi vị thành niên: a.Ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm sinh li 6 b. Ảnh hưởng tới kinh tế xã hội, tương lai của bản thân. c. Cả 2 ý trên đều đúng. Kết quả khảo sát: (tính theo tỷ lệ %) Câu 1 Đúng 38,2 Sai 61,8 2 43,1 56,9 3 39,3 60,7 4 11,6 88,4 5 29,1 70,9 6 39 61 7 47,7 52,2 8 88,7 11,3 9 72,8 27,2 10 59,4 40,6 III . NỘI DUNG ĐỀ TÀI: 1 . Cơ sở lí luận: 1.1 Những kiến thức cơ bản về giáo dục giới tính cần cung cấp cho học sinh ở trường THPT và Trung tâm GDTX: - Giáo dục những hiểu biết về tâm lý, sinh lý, vệ sinh tuổi dậy thì, những biến đổi và khác biệt về tính cách em trai em gái do các hooc môn từ các tuyến sinh dục gây ra. - Giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành niên với cha mẹ, anh em trong gia đình. - Hiểu biết sâu sắc các giá trị của tình bạn, tình yêu, hiểu biết những thất bại tâm lý và các nguy hại lâu dài phải gánh chịu nếu vượt qua trái cấm. - Giáo dục bạn trai biết tự trọng, tôn trọng bảo vệ bạn gái, có bản lĩnh, biết tự kiềm chế để chứng minh cho một tình yêu lành mạnh nếu nó chớm nở. - Giáo dục kỹ năng phòng vệ trước các áp lực nội tại đến từ hai phía, đặc biệt giáo dục kỹ năng phòng vệ cho các em gái, và rất nhiều nội dung khác xoay quanh tâm lý giới tính tuổi mới lớn giúp các em tự tin, tự chủ, tự hoàn thiện nhân cách, tự nhận thức để thay đổi hành vi, vững vàng nói "không" trước cám dỗ của bản năng ở độ tuổi phát dục. 1.2 Một số bài dạy có thể lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính trong chương trình sinh học ở trường THPT và Trung tâm GDTX: Lớp 10 STT Chương, bài Kiến thức về giới tính 1 Sinh đôi cùng trứng Bài 18. Chu kì tế bào và quá trình nguy ên phân 2 Bài 19. Giảm phân Quá trình hình thành trứng, tinh trùng 7 Đa dạng di truyền người 3 Bài 30. Sự nhân lên của virut trong HIV và bệnh truyền nhiễm qua đường tế bào chủ tình dục- Tình dục an toàn 4 Bài 32. Bệnh truyền nhiễm và miễn dịch Tình dục an toàn Lớp 11 STT Chương, bài Kiến thức về giới tính 1 Bài 38, 39. Các nhân tố ảnh hưởng Dậy thì và các yếu tố ảnh hưởng đến đến sinh trưởng và phát triển ở sức khoẻ sinh sản động vật Hooc môn giới tính Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản 2 Bài 40. Thực hành Xem phim về sinh trưởng và phát triển ở động vật 3 Bài 45. Sinh sản hữu tính ở động Thụ tinh vật 4 Bài 46. Cơ chế điều hoà sinh sản Hooc môn sinh sản- điều hoà sinh sản Phòng tránh thai Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh tinh và sinh trứng 5 Bài 47. Điều khiển sinh sản ở động Các biện pháp phòng tránh thai và dân vật và sinh đẻ có kế hoạch ở người số kế hoạch hoá Xem phim về quá trình phát triển của thai nhi Quá trình thụ tinh Lớp 12 STT Chương, bài Kiến thức về giới tính 1 Chương I. Cơ chế di truyền và biếnCác bệnh di truyền dị 2 Chương II. Tính qui luật di truyền Sự di truyền một số tính trạng ở người 3 Chương III. Di truyền học quần thểGiao phối cận huyết và luật hôn nhân gia đình 4 Chương V. Di truyền học người Di truyền học người 5 Phần VI. Tiến hoá Bảo vệ vốn gen loài người 8 1.3 Phương pháp tổ chức dạy học: Giáo dục giới tính là vấn đề nhạy cảm, đòi hỏi sự khéo léo của người giáo viên. Một số yêu cầu cần đạt được trong dạy học: - Nội dung kiến thức khoa học chính xác, phù hợp với lứa tuổi, không né tránh gây những hiểu biết sai lầm của học sinh. - Phương pháp dạy học đa dạng, sinh động, lôi cuốn. - Khuyến khích việc tự tìm hiểu, nghiên cứu của học sinh. - Kích thích tối đa tính tích cực, bạo dạn nhưng nghiêm túc của học sinh. Giáo viên sử dụng thuật ngữ chính xác nhưng khéo léo làm giảm tính căng thẳng trong tiết học. - Kết hợp giữa kiến thức khoa học với kiến thức xã hội, tình yêu, hôn nhân và gia đình. 2 . Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài: Bài 38: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SINH TRUỞNG VÀ PHÁT TRIỂN Ở ĐỘNG VẬT I. Kiến thức giáo dục giới tính: - Thế nào là giai đoạn dậy thì. - Những thay đổi về cấu tạo cơ thể, tâm sinh lí ở giai đoạn dậy thì? Nguyên nhân của sự thay đổi này. II. Vận dụng vào tiết dạy: Hoạt động 1: Tìm hiểu ảnh hưởng của các hoocmôn sinh trưởng và phát triển ở động vật có xương sống. Hoạt động của giáo viên, học sinh Nội dung kiến thức GV: - Tranh vẽ H 38.1 - Sử dụng phiếu học tập. HS: Các nhóm thảo luận và phát biểu vai trò của các hoocmon - Nhóm 1: Hooc môn sinh trưởng - Nhóm 2: Tirôxin - Nhóm 3: Ơstrogen - Nhóm 4: Testosteron GV: Thế nào là dậy thì? Tuổi dậy thì là mốc đánh dấu sự trưởng thành về mặt sinh học của cơ thể. Chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn đầu từ 10 – 13 tuổi; giai đoạn giữa từ 14 – 16 tuổi; giai đoạn cuối từ 17 – 19 tuổi. GV: Tuổi dậy thì trung bình của người Việt Nam? Đối với người Việt Nam, trẻ em nữ dậy thì hoàn toàn vào khoảng 12 -14 tuổi, đánh dấu bằng lần có kinh nguyệt đầu tiên; trẻ em nam dậy thì hoàn toàn 9 vào khoảng 14 -16 tuổi đánh dấu bằng lần xuất tinh không chủ định đầu tiên. GV: Những thay đổi về cấu tạo giải phẫu? Ở tuổi dậy thì, dưới tác dụng của tuyến yên và tuyến sinh dục, cơ thể diễn ra hàng loạt những biến đổi về hình thể, về sinh lí và tâm lí. Các cơ quan sinh dục ngoài phát triển, kích thích cơ thể tăng nhanh, trung bình mỗi trung bình mỗi năm chiều cao tăng thêm 4 - 8 cm, khối lượng cơ thể tăng thêm 4 - 8 kg. Hệ cơ cũng phát triển mạnh nhưng tốc độ chậm hơn so với hệ xương, làm cho trẻ em thường gầy, cao, chân tay lèo khèo, động tác vụng về thiếu chính xác. Có một số trường hợp, khối lượng cơ thể tăng rất nhanh và béo bệu. Hệ mao mạch dưới da phát triển làm cho da trở nên hồng hào hơn, nhất là các em nữ, lông mọc ở mu và nách, tuyến mồ hôi và tuyến nhờn phát triển mạnh làm cho lông, tóc được mượt mà. Nhiều khi tuyến nhờn không thải ra ngoài kịp, ứ đặc lại tạo thành trứng cá, nhất là ở trẻ nam. GV: Những thay đổi trong cấu tạo cơ quan sinh dục của nam? Ở nam, da bìu bắt đầu thẫm màu và nhăn lại, tinh hoàn to lên, các ống sinh tăng kích thước và bắt đầu sinh sản tinh trùng gây xuất tinh. Ở giai đoạn đầu chất lượng tinh trùng còn kém nên khả năng thụ thai không cao và nếu có thụ thai thì chất lượng thai chưa tốt. Cơ phát triển mạnh, vai rộng, chậu hông hẹp, tầm vóc cao to, thanh quản nở rộng làm cho giọng nói trở nên vang và trầm. GV: Những thay đổi trong cấu tạo cơ quan sinh dục của nữ? Ở nữ, biến đổi căn bản là sự phát triển của tử cung và 2 buồng trứng, các nang trứng phát triển mạnh và hình thành các trứng chín và rụng gây hiện tượng kinh nguyệt. Trong thời gian đầu, chu kì kinh nguyệt không đều và độ dài của chu kỳ, về số ngày hành kinh và lượng máu chảy. Hiện tượng không đều trong chu kỳ kinh nguyệt thường kéo dài khoảng một năm nên các em khó tính chính xác ngày rụng trứng để dự đoán khả năng có thể thụ thai. Vú và mông to lên, xương chậu phát triển theo chiều rộng, mô mỡ dưới da phát triển và dày tạo nên dáng mềm mại. Thanh quản phát triển kiểu nữ giới làm cho giọng thanh và cao. - Không nên quá lo lắng với những thay đổi của cơ thể ở tuổi dậy thì. - Có ý thức giữ gìn, vệ sinh thân thể nhất là các em nữ. - Lưu ý trong các mối quan hệ ở gia đình, nhà trường, xã hội; đặc biệt là với bạn khác giới. - Tình dục an toàn. 10 GV: Những thay đổi về tâm lý? Tình trạng không cân xứng trong quá trình phát triển của hệ tim mạch đã ảnh hưởng đến sự tuần hoàn não, có thể gây ra thiểu năng tuần hoàn não nhất thời nên thường kém tập trung, kém nhạy cảm và trí nhớ chưa tốt. Hoạt động thần kinh cũng có sự thiếu cân xứng, quá trình hưng phấn thường mạnh hơn quá trình ức chế nên trẻ em thường nóng tính khả năng kềm chế kém, phản ứng thường bộp chộp, thiếu chính xác, cảm xúc thường thay đổi đột ngột. Xuất hiện trạng thái mơ mộng và sự quan tâm đến bạn bè khác giới nảy sinh những suy nghĩ về giới tính, về quan hệ tình dục. Các em có thể dễ bị kích thích về quan hệ nam, nữ có tâm lý “muốn làm người lớn”, thích sống độc lập. Bởi vậy, người lớn thường có ấn tượng là các em bướng bỉnh và không biết vâng lời GV: Nguyên nhân những thay đổi ở giai đoạn này? Do các hoocmon sinh dục, các hoocmon này có tác dụng kích thích sự phát triển giới tính ở thai nhi. Ở giai đoạn trước tuổi dậy thì, hàm lượng các hoocmon này còn thấp, nhưng đến tuổi dậy thì hàm lượng tăng cao kích thích sự chuyển hóa và hoàn thiện của các tế bào sinh dục, làm phát triển các đặc điểm sinh dục phụ. Bài 39: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SINH TRUỞNG VÀ PHÁT TRIỂN Ở ĐỘNG VẬT( Tiếp theo) I. Kiến thức giáo dục giới tính: - Ảnh hưởng của thức ăn , một số chất độc hại đối với sức khỏe của tuổi dậy thì. - Một số biện pháp cải thiện chất lượng dân số. II. Vận dụng vào tiết dạy: Hoạt động 1: Tìm hiểu ảnh hưởng nhân tố bên ngoài đến sinh trưởng và phát triển ở động vật. Hoạt động của giáo viên, học sinh Nội dung kiến thức GV: Hãy cho biết ảnh hưởng của : thức ăn, nhiệt độ, ánh sáng, các chất độc hại tới sinh trưởng phát triển của ĐV HS: Sử dụng phiếu học tập, thảo luận 11 nhóm: +Nhóm 1: Ảnh hưởng của thức ăn +Nhóm 2: Ảnh hưởng của nhiết độ +Nhóm 3: Ảnh hưởng của ánh sáng +Nhóm 4:Ảnh hưởng của các chất độc hại đối với con người GV: Vì sao tuổi dậy thì cần nhiều dinh dưỡng? Vì ở lứa tuổi này, các chất dinh dưỡng đóng vai trò tối cần thiết trong việc tăng cường thể lực, trí lực và ảnh hưởng cả đối nhân xử thế. Trong giai đoạn phát triển vượt bậc này, cần rất nhiều năng lượng, nhất là từ những chất thật bổ dưỡng. Ảnh hưởng từ bạn bè, sách báo và sự thay đổi nội tiết có thể khiến các em có những quan niệm sai lầm trong chuyện ăn uống. - Một số thông tin thêm về các chất gây độc hại đối với cơ thể: + Khói thuốc lá chứa 7.000 chất độc gây hại cho sức khỏe + Nghiện ma tuý ảnh hưởng đến sức khoẻ của người nghiện, có thể dẫn đến nhiễm độc mãn tính cho cơ thể, gây ra rối loạn ở từng bộ phận, đến suy nhược toàn thân . Ma tuý làm cho người nghiện thay đổi trạng thái tâm lý, sa sút về tinh thần, thay đổi nhân cách. Các chất ma tuý đã tạo cho thần kinh con người luôn trong trạng thái bị kích thích, bị “cột chặt” thân phận với ma tuý. Khi đã dùng ma tuý với liều cao thường xuyên, có thể người nghiện đã bị đầu độc hệ thần kinh, tiêu hoá bị rối loại nên con người phản ứng chậm chạp, trở thành thẩn thờ, cơ thể hao mòn, gầy yếu, có lúc bị kích thích cao độ có thể dẫn tới các hành động liều lĩnh, gây ra phạm tội. + Một số chứng bệnh do bia rượu gây ra: Bệnh thận, rối loạn trao đổi chất, bệnh về dinh dưỡng, ngộ độc, thoái hóa não, teo não, ung thư miệng, họng, 10 lời khuyên dành cho dinh dưỡng tuổi dậy thì: - Tạo cho thói quen ăn uống tốt, khoa học. - Hạn chế ăn quà vặt, thực phẩm thức ăn nhanh. - Biết tìm hiểu những thực phẩm nào có lợi cho sự phát triển của chúng, và ngược lại những thực phẩm nào có hại. - Ăn nhiều chất sắt hơn. - Ăn thêm nhiều đạm, nhất là các em nam. - Bổ sung chất kẽm: Đối với nam, lượng kẽm cần bổ sung mỗi ngày là 33%, đối với nữ là 20%, so với thời kỳ trước dậy thì. - Ăn nhiều chất canxi: Cả nam và nữ đến độ dậy thì đều cần thêm chừng 33% hàm lượng canxi so với giai đoạn trước (tương đương 1200 miligram mỗi ngày, so với 800 miligram ở giai đoạn trước dậy thì). - Cung cấp thêm vitamin trong thực phẩm. - Lựa chọn các chất béo có lợi ăn nhiều cá và giảm các món rán. - Tránh mắc ""hội chứng búp bê Barbie": giống như những người mẫu hoàn hảo trên các trang tạp chí. 12 thực quản, viêm dạ dày mãn tính, bệnh tim, các bệnh về gan ... Hoạt động 2: Tìm hiểu một số biện pháp cải thiện chất lượng dân số . Hoạt động của giáo viên, học sinh Nội dung kiến thức GV:Chất lượng dân số?Các biện pháp nâng cao chất lượng dân số? HS: Thảo luận, trả lời. - Chế độ dinh dưỡng hợp lí, tích cực Thông tin bổ sung:Theo chương trình tham gia luyện tập thể dục thể thao, tổng thể nâng cao thể lực và tầm vóc không sử dụng các chất độc hại đối người Việt Nam giai đoạn 2010-2030, với cơ thể. thì điều quan trọng là phải rèn luyện thể lực bằng các môn thể thao phát triển chiều cao và có chế độ dinh dưỡng hợp lý, đầy đủ chất để con người phát triển. THỰC HÀNH QUAN SÁT SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN Ở MỘT SỐ ĐỘNG VẬT I. Kiến thức giáo dục giới tính: Xem phim về quá trình phát triển của thai nhi Quá trình thụ tinh Bài 45: SINH SẢN HỮU TÍNH Ở ĐỘNG VẬT I. Kiến thức giáo dục giới tính: - Cơ chế thụ tinh, quan niệm về tình dục an toàn. II. Vận dụng vào tiết dạy: Hoạt động 3: Tìm hiểu các hình thức thụ tinh ở động vật Hoạt động của giáo viên, học sinh GV: - Thụ tinh là gì? Tại sao hợp tử có bộ NST lưỡng bội? - Tại sao từ một tế bào (hợp tử) lại có thể phát triển thành một cơ thể mới? - Tại sao thụ tinh trong tiến hóa hơn thụ tinh ngoài? HS: tham khảo phần III SGK trang 177 GV: Điều kiện xảy ra sự thụ tinh? Kết quả của thụ? Nội dung kiến thức 13 GV: điều kiện để xảy ra quá trình thụ thai ở người? Ở tuổi vị thành niên có thể mang thai không? Có trứng rụng; tinh trùng gặp được trứng ở 1/3 ngoài của ống dẫn trứng; hợp tử di chuyển được về tử cung; màng tử cung đủ dày để thể làm tổ GV: Hậu quả của TD không an toàn? Mắc các bệnh lây nhiễm qua đường TD hiện nay người ta đã tìm thấy khoảng hơn 20 loại bệnh lây qua đường TD như: HIV/AIDS, lậu, giang mai, sùi mào gà, mụn rộp sinh dục, hạ cam, trùng roi âm đạo, nhiễm nấm sinh dục, chlamydia… Khoảng một nửa số người khi nhiễm không có triệu chứng gì hoặc có triệu chứng không rõ ràng, có thể tự “biến mất” (nhưng không có nghĩa là khỏi bệnh). GV: Các biện pháp đảm bảo TD an toàn? Sử dụng bao cao su: tránh khỏi các bệnh lây truyền qua đường TD và mang thai sớm. Sống chung thủy: chỉ nên có quan hệ TD với người mà mình biết chắc người đó chỉ có quan hệ TD với mình bạn và điều quan trọng là người đó phải không bị mắc các bệnh lây truyền qua đường TD. Đề cao lối sống chung thủy một vợ một chồng. Kiểm tra sức khỏe định kỳ: từ 6 tháng đến 1 năm ở cả người nam và nữ đều nên tiến hành kiểm tra sức khỏe tổng quát. + Nếu quan hệ tình dục có giao hợp ở tuổi vị thành niên sẽ có thai vì ở nữ trứng đã chín và rụng; ở nam đã hình thành tinh trùng. + Tình dục an toàn là: - Không dẫn đến mang thai ngoài ý muốn và lây nhiễm các bệnh qua đường TD như: lậu, giang mai, HIV/AIDS... - Là những hình thức quan hệ TD có thể giúp hạn chế nguy cơ bị lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường TD, điều này có nghĩa là không có sự tiếp xúc cơ thể với máu, chất dịch âm đạo và tinh dịch từ người này sang người khác. - Là những việc làm hướng tới bảo vệ cơ thể, tinh thần cũng như khám phá ra bản năng và nhu cầu của mình. Bài 46: CƠ CHẾ ĐIỀU HÒA SINH SẢN I. Kiến thức giáo dục giới tính: - Hooc mônsinh sản, cơ chế điều hoà sinh sản, các yếu tố ảnh hưởng đến sinh tinh và sinh trứng  phòng tránh có thai và phá thai ở tuổi vị thành niên. II. Vận dụng vào tiết dạy: 14 Họat động 1: Tìm hiểu tác động của hoocmon trong cơ chế điều hòa sinh tinh, sinh trứng. Hoạt động của giáo viên, học sinh GV: Ứng dụng công nghệ thông tin kết hợp với giảng giải cơ chế điều hòa sinh tinh, sinh trứng? GV: chu kì kinh nguyệt GV: Hậu quả của việc mang thai ở vị thành niên? Việc mang thai ở tuổi vị thành niên chưa có gia đình có nhiều tác hại, không chỉ hại riêng bản thân mà cho toàn xã hội. - Mang thai ở độ tuổi vị thành niên ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ vì ở tuổi VTN, cơ thể chưa phát triển đầy đủ cả về sinh – tâm lý. Chính vì vậy, nếu VTN để đẻ, nguy cơ tử vong mẹ và con vẫn còn cao. Và có nguy cơ cao về vô sinh, con trí tuệ kém, dị tật… và còn nhiều hậu quả nghiêm trọng khác nữa. - Về mặt kinh tế – xã hội: khi có thai phải ngưng việc học hành, khó khăn về kinh tế, không kiếm được việc làm, dẫn VTN đi vào con đường bế tắc. Mặt khác, sinh con ở vị thành niên còn làm tăng nhanh dân số. GV: Hậu quả của việc nạo phá thai ở vị thành niên? Hậu quả về mặt sinh học: - Những biến chứng có thể gặp trong nạo phá thai đó là băng huyết, thủng tử cung và nhiễm trùng kéo dài có thể phải cắt bỏ tử cung, nếu được thực hiện an toàn không có những tai biến cấp thời thì cũng gây hậu quả lâu dài về sau, trong đó có thể kể là những trường hợp sinh khó do nhau bám thấp, nhau tiền đạo vô sinh ….nếu lạm dụng việc nạo hút thai. - Một điều cần phải nói thêm, là nạo phá thai ở lứa tuổi vị thành niên tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ. Vì ở lứa tuổi các em, cơ quan sinh dục chưa phát triển đầy đủ nên thường có biến chứng nhiều hơn, thêm vào đó là các em thường lo sợ người lớn biết nên tìm đến những cơ sở tư nhân, thậm chí là cơ sở bất hợp pháp không có chức năng và không đủ điều kiện để thực hiện thủ thuật , kết quả là tỷ Nội dung kiến thức + Hậu quả của việc mang thai ở vị thành niên: - Ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ vì ở tuổi VTN, cơ thể chưa phát triển đầy đủ cả về sinh – tâm lý, nguy cơ tử vong mẹ và con vẫn còn cao, con trí tuệ kém, dị tật… - Về mặt kinh tế – xã hội: phải ngưng việc học hành, khó khăn về kinh tế, làm tăng nhanh dân số. + Hậu quả của việc nạo phá thai ở vị thành niên: - Bị các biến chứng sớm như: băng huyết, trường hợp nặng có thể dẫn đến shock có khi phải truyền máu, sót nhau. - Tổn thương cơ quan sinh sản: rách cổ tử cung, thủng cổ tử cung. Nhiễm trùng ở vùng chậu hay nhiễm trùng toàn thân dẫn đến nhiễm trùng huyết. - Ảnh hưởng về tâm lý, gây ra hội chứng stress với các biểu hiện sau: khó ngủ hay mất ngủ, ngủ thường gặp ác mộng. Khó tập trung trong công việc, dễ nóng giận hay giật mình. Giảm ham muốn tình dục về sau, nhất là luôn có mặc cảm tộilỗi. 15 lệ tai biến cao, thậm chí có nhiều trường hợp tử vong. Có nhiều em, do quá lo sợ nên sau khi nạo phá thai tại những nơi này và có biến chứng cũng không dám trình báo, cho đến khi quá nặng phải vào bệnh viện thì phải cắt bỏ tử cung. Cần nói thêm ở lứa tuổi vị thành niên nếu các em nữ mang thai và sinh con thì các nguy cơ như sinh non, biến chứng lúc sinh và con chậm phát triển tâm thần cao hơn gấp nhiều lần so với phụ nữ trưởng thành. Trẻ em sinh ra từ các bà mẹ tuổi vị thành niên cũng tử vong trong năm đầu đời nhiều hơn 40% so với trẻ sinh từ các bà mẹ lứa tuổi hai mươi. Hậu quả vê tâm lý và xã hội: Về mặt tâm lý, dù là người có tính vô tư thì trong một phút giây nào đó của cuộc đời, những “bà mẹ trẻ này” không thể không chạnh lòng khi nghĩ đến đứa con mà mình đã từng đang tâm bỏ đi. Thêm vào đó, nếu những người xung quanh biết được thì còn nhiều nỗi khổ tâm mà cô gái gánh chịu khi hàng ngày phải nghe những “lời ra tiếng vào”. Thực tế cho thấy các trường hợp mang thai khi còn quá trẻ, do chưa có đủ kiến thức nên thường các cô chỉ phát hiện có thai khi thai đã rất lớn, không thể bỏ được. Chắc chúng ta cũng hình dung ra được những đau đớn trong tâm hồn của những người mà xã hội gọi là... “không chồng mà chửa” Cũng có người cho rằng quan hệ tình dục sớm nhưng an toàn ( phòng tránh thai, phòng tránh bệnh ) thì “không có vấn đề gì”. Đúng là không có vấn đề về thai, về bệnh, nhưng còn nhiều vấn đề khác chưa được nghĩ đến. Đó có thể là sự tổn thương cơ quan sinh dục nữ ( do còn non yếu ), là khả năng nhiễm trùng phụ khoa tăng lên ( do tăng trầy xước, nhất là khi không đảm bảo vệ sinh ). Ngoài ra còn phải kể đến sự tổn thương cảm xúc của các em. Do chưa hiểu biết đầy đủ, chưa được chuẩn bị tâm lý và trong hoàn cảnh lén lút nên thay vì có được cảm xúc hạnh phúc tràn đầy như ở những người trưởng thành đã lập 16 gia đình, các em thường chỉ cảm thấy những thích thú ngắn ngủi và sau đó là những lo sợ, bất an kéo dài. Phòng tránh thai: Vị thành niên, thanh niên chưa lập gia đình phải hạn chế việc quan hệ tình dục, trong đó phải đặc biệt tránh cả những hoàn cảnh “nguy cơ” có thể dẫn đến quan hệ “bất ngờ” như ở nơi thanh vắng chỉ có 2 người, nhất là khi có uống rượu bia. Thứ hai là nếu nam giới có những cảm xúc không kiềm chế được thì người nữ phải kiên quyết từ chối, không chiều theo lời nài ép của bạn và cảm xúc của mình. Thà mất lòng một chút còn hơn là phải trả giá cho sự nông nổi của mình. Việc từ chối “chung đụng” không đồng nghĩa với không yêu thương mà còn là yếu tố quan trọng bảo vệ tình yêu. Thứ ba là nếu đã “lỡ”, khi đó người nữ cần uống thuốc viên ngừa thai sau giao hợp càng sớm càng tốt trong vòng 72 giờ, uống 2 viên, viên sau cách viên đầu 12 giờ. Nên nhớ đây là thuốc chỉ dùng trong trường hợp “khẩn cấp” và không được lạm dụng như một loại thuốc ngừa thai vì có thể gây rong kinh, rong huyết. Còn nếu “việc lỡ ấy” đã qua 72 giờ thì người nữ phải hết sức chú tâm theo dõi kinh nguyệt để phát hiện sớm những dấu hiệu có thai như mất kinh, căng tức đầu vú v.v... và sớm có biện pháp giải quyết phù hợp. GV: Kiềm chế tình dục ở tuổi vị thành niên như thế nào? - Tham gia các hoạt động cộng đồng: Sự tham gia các hoạt động sẽ hỗ trợ cho hành vi kiềm chế vì giúp phát triển cảm giác về giá trị của bản thân (đã hoàn thành được việc gì đó cho người khác, từ đó tăng lòng tự tin) và cảm giác được cộng đồng chấp nhận - Xác định những mục tiêu của cuộc đời: Khi đã biết đặt ra cho mình những mục tiêu trong đời sống,các bạn trẻ sẽ hiểu rằng thai nghén không mong muốn, mắc bệnh lây lan qua đường tình dục hay kết hôn sớm sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc thực hiện những + Một số biện pháp phòng tránh quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên: - Tham gia các hoạt động cộng đồng - Xác định những mục tiêu của cuộc đời - Xây dựng một gia đình yêu thương và hoà thuận - Rèn luyện tính cách cương nghị và các kỹ năng quyết đoán - Kết bạn với những người cùng chí hướng Tránh những hoàn cảnh cám dỗ - Không uống rượu và thử dùng các loại ma túy. - Lựa chọn những phương tiện giải trí có tính giáo dục. 17 mục tiêu đó. - Xây dựng một gia đình yêu thương và hoà thuận: Kết bạn trong tuổi vị thành niên dù quan trọng nhưng không thể thay thế được vai trò giáo dục của gia đình. Gia đình với vai trò tích cực của cha mẹ và các thành viên khác tạo ra không khí đầm ấm, tin cậy, củng cố các giá trị và niềm tin. - Rèn luyện tính cách cương nghị và các kỹ năng quyết đoán: Lứa tuổi vị thành niên rất cần có tính cách cương nghị, bảo vệ và biểu lộ niềm tin của mình, không cả nể trước những sự nài ép, rủ rê mà mình không muốn, dám thẳng thắn khước từ. Cần có mối quan hệ tốt với những người lớn đáng tin cậy. - Kết bạn với những người cùng chí hướng: Nhất là với những người cũng lựa chọn hành vi kiềm chế như mình vì tuổi vị thành niên vốn có nhiều xúc cảm tình dục, những người bạn ấy sẽ hỗ trợ cho quyết định lựa chọn của mình. - Tránh những hoàn cảnh cám dỗ: Có rất nhiều cơ hội cám dỗ trong đời sống như tiếp bạn khác giới trong phòng riêng, nhảy trong các cuộc vui, thử xem phim kích dục vì tò mò... Cần giúp bạn trẻ vị thành niên nhận biết trước những hoàn cảnh đó để tránh tham gia. - Không uống rượu và thử dùng các loại ma túy: vì những loại này làm suy giảm chức năng suy xét lý trí của não, làm cho các bạn khó giữ vững được ý chí của mình sau khi đã sử dụng chúng. - Lựa chọn những phương tiện giải trí có tính giáo dục: Có nhiều loại sách báo, phim ảnh... đã tô hồng, lãng mạn hóa tình yêu, không mô tả trung thực hậu quả của những lối sống buông thả. IV . KẾT QUẢ: Sau khi thực hiện việc lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính vào các tiết dạy, tôi tiến hành khảo sát lại kiến thức ở 4 lớp 11 (A1,2,3,4), với 10 câu hỏi cũ, thu được kết quả như sau: Câu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 18 Đúng 81,4 Sai 18,6 83,7 16,3 87 13 61,9 38,1 79 21 85,2 14,8 84,7 15,3 98,5 1,5 91,4 8,6 88,5 11.5 Như vậy nhận thức của các em về giới và an toàn tình dục tương đối tốt, các em có khả năng tự bảo vệ bản thân, kĩ năng sống được nâng lên. V . KẾT LUẬN: Một số quan điểm lo ngại rằng nếu cung cấp cho trẻ vị thành niên những thông tin và giúp chúng phòng ngừa có thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ vô tình thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và bừa bãi. Tuy nhiên, thực tế giáo dục giới tính ở nhiều nước cho thấy hoàn toàn ngược lại. Tổ chức y tế thế giới đã khảo sát 19 chương trình giáo dục giới tính trường học ở nhiều nước, tất cả đều cho thấy trẻ vị thành niên có hoạt động tình dục trễ hơn, giảm hoạt động tình dục, biết cách sử dụng các biện pháp ngừa thai một cách hiệu quả, và hoàn toàn không thúc đẩy trẻ có hoạt động tình dục sớm và nhiều hơn. Nên thực hiện giáo dục giới tính trước khi trẻ bước vào tuổi hoạt động tình dục. Các bước tích cực này sẽ giúp khuyến khích trẻ không hoạt động tình dục sớm và biết cách sinh hoạt tình dục một cách an toàn, giảm thiểu thai ngoài ý muốn ở các em. Để thật sự giúp đỡ thiếu niên ngăn ngừa có thai ngoài ý muốn, cần phải tạo điều kiện cho trẻ hiểu biết về tình dục, về nguy cơ có thai, cách thức ngăn ngừa có thai ngoài ý muốn, và biết những nơi có thể tham vấn về tình dục trước khi chúng bắt đầu sinh hoạt tình dục. Giáo dục giới tính giúp trẻ vị thành niên có một quan điểm tích cực về tình dục, đồng thời cung cấp các thông tin và kỹ năng để trẻ vị thành niên có được thái độ và hành vi đúng, hiểu biết và có trách nhiệm về những quyết định của mình. Việc chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên sẽ hướng các em đến những suy nghĩ, đánh giá, lựa chọn đúng đắn trong tình bạn, tình yêu để tiến đến hôn nhân khi cơ thể đã hoàn toàn trưởng thành, có đủ điều kiện về sức khỏe, vật chất, được chuẩn bị về tinh thần cho việc sinh con và nuôi con trong điều kiện tốt nhất. Chính điều này sẽ là nền tảng để xây dựng nên những gia đình hạnh phúc, đóng góp vào sự ổn định và phồn vinh của xã hội. Trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót vậy rất mong sự quan tâm đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn. VI . TÀI LIỆU THAM KHẢO : - Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn sinh học( Bộ giáo dục – Vũ Đức Lưu chủ biên). - Tài liệu những điều giáo viên cần biết để giáo dục kỹ năng sống và sức khỏe sinh sản vị thành niên – Tổng cục dân số năm 2009. - Sách giáo khoa sinh học 11 nâng cao. - Các thông tin trên mạng CNTT Văn Bàn, ngày 25 tháng 5 Năm 2014 Người viết đề tài 19 Lê Thị Thu Hằng CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BÁO CÁOTÓM TẮT HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: MỘT VÀI KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP KIẾN THỨC GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH LỚP 11 1. Tình trạng giải pháp đã biết: - Việc đưa giáo dục giới tính vào trong giảng dạy đôi khi còn lúng túng. Khi giảng dạy chủ yếu chọn lồng ghép hoặc ngoại khóa, không có giáo cụ trực quan, giáo viên không được tập huấn kỹ để giảng dạy về vấn đề giới tính. - Thái độ học tập của học sinh khi nói đến vấn đề liên quan đến giới tính còn khá dè dặt, chưa mạnh dạn trong quá trình tìm hiểu hay tiếp thu những kiến thức đó. - Các hoạt động giáo dục của nhà trường chỉ dừng lại ở một số buổi ngoại khóa với các câu hỏi về một số vấn đề sức khỏe giới tính, phòng chống HIV/ AIDS… giáo viên giảng dạy các bộ môn khi đề cập đến việc giảng dạy kiến thức về giới tính còn cảm thấy ngượng nên việc truyền đạt kiến thức để học sinh hiểu kỹ còn hạn chế. 2. nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến: - Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản hiện nay đã trở thành nhu cầu cấp bách của xã hội.trong nhà trương giáo dục giới tính chưa được đưa vào dạy một cách công khai, có bài bản, mới chỉ dừng ở mức độ lồng ghép vào một số tiết ở môn học, chỉ cung cấp cho học sinh thông tin về dân số và sức khỏe sinh sản, các biện pháp sinh hoạt tình dục an toàn để tránh lây nhiễm HIV. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất