LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội Á Đông truyền thống, vai trò vị trí của người phụ nữ luôn
đánh giá thấp. Họ luôn bị những quy định ràng buộc chặt chẽ của xã hội phong
kiến trói buộc như "Tam tòng tứ đức", "Công - dung - ngôn hạnh"...người phụ
nữ luôn phải nín nhịn, chấp nhận địa vị hèn kém của mình trong gia đình và
ngoài xã hội. Ngày nay, khi hơn một nửa dân số thế giới là phụ nữ và phụ nữ
đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội nhưng bất chấp thực tế
này, trong nhiều nền văn hóa, phụ nữ không những không được đánh giá và đối
xử đúng với năng lực và vị trí thực tế của mình, mà còn là đối tượng của những
phân biệt trong đối xử.
Có thể nói những quan niệm tiêu cực về người phụ nữ không hề mất đi
mà được lưu truyền trong nhiều nền văn hóa, từ đời này sang đời khác, bất chấp
thực tế xã hội. Trong xã hội phong kiến Việt Nam, quyền của người phụ nữ
cũng bị hạn chế hơn nhiều so với quyền của nam giới. Phụ nữ bị hạn chế trong
sở hữu tài sản, trong giáo dục, ít có tiếng nói trong gia đình và xã hội; phụ nữ
mang gánh nặng công việc trong vai trò kép...
Nhằm đi sâu nghiên cứu về phụ nữ trong giai đoạn đoạn phong kiến Việt
Nam, em xin chọn đề tài: Một số vấn đề về quyền của người phụ nữ trong
pháp luật phong kiến Việt Nam. Do quá trình đào sâu nghiên cứu còn hạn chế
nên bài luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ
của thầy cô để bài của của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủ
và phong kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm,
đầu tư cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này
gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ,
Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật
(thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và
Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những bộ
luật cổ tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế
kỷ XI đến thế kỷ XIX).
Theo các cứ liệu lịch sử, trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Hình thư là bộ
luật quốc gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý. Toàn thư
chép: “Năm 1042, Lý Thái Tông sai quan trung thư san định lệnh, châm chước
những điều thời thế thông dụng, xếp thành môn loại, biên rõ điều mục, làm
thành riêng quyển Hình thư một triều đại, để cho người xem dễ biết. Sách làm
xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều lấy làm tiện”. Việc ban hành bộ luật
Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp ở Việt
Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc, nhưng nội dung của nó
còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại
Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy
mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3
quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những
quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại; quy định biện
pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội; quy định một số vấn
đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế… Theo đánh giá của
các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi,
địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công
cụ để ổn định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp...
Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ Thời Lý, nhà nước Việt Nam
dưới thời Trần tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226,
ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi, nhà Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục
bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông
đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu soạn ra bộ Quốc triều hình luật
(còn gọi là Hình thư) gồm một quyển để ban hành. Về nội dung, ngoài việc kế
thừa những quy định có từ thời Lý, bộ luật Hình thư của thời Trần đã có những
2
bổ sung và điều chỉnh nhất định, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ
tục tố tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành bộ Hình thư của nhà
Trần cũng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt
Nam.
Trong hai bộ luật trên địa vị của người phụ nữ không được đề cập đến.
Hai bộ này ra đời nhằm điều chỉnh bộ máy triều đình, hệ thống quan lại, quan hệ
vua – tôi, quan hệ xã hội và các hình phạt… Vì thế, người phụ nữ trong xã hội
thời bấy giờ có địa vị thấp hèn, họ không được tôn trọng, bảo vệ, phải chịu
nhiều ràng buộc, định kiến của tư tưởng Nho giáo, phong kiến lạc hậu. Theo
quan niệm phong kiến, Nho giáo xưa thì có sự khác biệt giá trị rõ ràng giữa con
trai và con gái “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, không coi con gái là thành
viên trong họ mạc “nữ nhi ngoại tộc”. Nho giáo có chủ trương trọng nam khinh
nữ “nam tôn nữ ty” ( đàn ông thì cao quý, đàn bà thì thấp hèn), “tam cương ngũ
thường”…Theo giáo lý của Nho giáo – Khổng giáo thì người đàn bà “suốt đời
là khẻ vị thành nhân phải sống dựa vào một người đàn ông làm chủ chốt, chứ
không bao giờ được độc lập”. Đây là một sự phụ thuộc trên mọi phương diện kể
cả đời sống vợ chồng, do vậy mối quan hệ vợ chồng trong xã hội Việt Nam đầu
thế kỷ XIX giống như mối quan hệ theo chiều dọc: giữa vua – tôi, cha – con.
Trong “Kinh Lễ” có dẫn người đàn ông có bảy lý do để bỏ vợ là: không có con,
đâm dật, không thờ cha mẹ, lắm mồm, trộm cắp, ghen tuông, có ác tật. Cứ như
những điều ghi trên thì người phụ nữ chịu thiệt thòi qua nhiều, người chồng
muốn bỏ vợ lúc nào cũng được vì anh ta có thể quá dễ khi tìm ra môt trong bảy
lý do để bỏ vợ như trong “ Thất xuất” đã ghi. Trong gia đình phong kiến, quyền
hành của anh trai trưởng trong gia đình rất lớn (quyền huynh thế phụ); người
phụ nữ phải kiêm đủ Tam tòng Tứ đức; quyền thừa kế gia sản của cha mẹ dành
cho con trai; việc truyền nghề tại các làng nghề thường không truyền cho con
dâu hay con gái; người con trai được học hành để thi cử, tiến thân bằng theo con
đường quan lộ nhưng người phụ nữ thì chỉ quanh quẩn với việc nhà... Người
nam giới có thể có quyền lấy năm, lấy bảy vợ lẽ nhưng người con gái phải thủ
tiết chỉ với một người chồng. Tiền của dù là hai vợ chồng làm ra hay của người
chồng hoặc người vợ làm ra, thì cũng gọi là của chồng cả.
Như vậy, dưới thời Lý, Trần người phụ nữ không được pháp luật bảo vệ
vì thế vẫn còn nhiều sự phân biệt đối xử giữa nam giới và nữ giới. Nhưng đến
thời Lê và sau đó dưới triều Nguyễn, quyền của người phụ nữ đã được cụ thể
3
hóa trong hai bộ luật Hồng Đức và Gia Long. Đấy chính là một bước tiến lớn
trong lịch sử lập pháp của Việt Nam thời kỳ phong kiến.
1. Quyền của người phụ nữ trong Bộ luật Hồng Đức
Trong xã hội truyền thống phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản,
Triều Tiên, Việt Nam... thân phận người phụ nữ luôn bị xem nhẹ, coi thường, bị
ràng buộc bởi đạo đức khắt khe, bị áp chế bởi luật lệ bất công. Nguyên nhân
chính là do hệ tư tưởng Nho giáo chi phối mọi mặt đời sống xã hội. Song, cũng
rất đặc biệt, ở Việt Nam, nhà Lê (1428-1788), một triều đại được đánh giá là có
ảnh hưởng sâu sắc nhất từ tư tưởng Nho giáo, đã ban hành bộ Quốc triều hình
luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức, trong đó, những quyền lợi của người phụ
nữ được đảm bảo, đặc biệt là hôn nhân và quyền thừa kế gia sản.
Tính đặc thù của "Quốc triều hình luật" thể hiện rõ trong hai chương "Hộ
hôn" và "Điền sản". Qua hai chương này, các nhà làm luật đã coi trọng cá nhân
và vai trò của người phụ nữ - điều mà các bộ luật trước và sau không mấy quan
tâm. Có 53/722 điều luật (7%) bàn về hôn nhân - gia đình; 30/722 điều luật (4%)
bàn về việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Những điều luật này ít
nhiều đã đề cập đến một số quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội và trong gia
đình. Người vợ, trên lý thuyết, bị đòi hỏi phải lệ thuộc vào chồng và không được
làm điều gì nếu không có sự chỉ đạo hay đồng ý của chồng. Nhưng trên thực tế,
địa vị của người vợ - chồng thay đổi nhiều tùy thuộc theo vị trí xã hội và kinh tế
của họ. Cũng giống như chồng, người phụ nữ Việt Nam xưa có tài sản riêng và
tham gia các hoạt động kinh tế. Đó là điều khác biệt với người phụ nữ Trung
Quốc. Trong lao động, người phụ nữ được trả công ngang bằng với người thợ
nam, "không có sự phân biệt về tiền công nhật cho lao động đàn ông với đàn
bà". Điều 23 trong Bộ luật Hồng Đức quy định tiền công nhật cho nô tỳ là 30
đồng. Việc trả công ngang bằng như thế rõ ràng cho thấy lao động của phụ nữ
được đánh giá cao và vị trí của người phụ nữ được tôn trọng trong xã hội. Trong
hôn nhân, người phụ nữ cũng có thể yêu cầu ly hôn (đâm đơn kiện).
1.1 Trong chương Hôn điền
Điều 322 Bộ luật Hồng Đức ghi: "Con gái thấy chồng chưa cưới có ác tật
có thể kêu quan mà trả đồ sính lễ", nếu "con rể lăng mạ cha mẹ vợ, đem thưa
quan, cho ly dị". Ngoài ra, Điều 314, 320 và 338 cũng có những quy định nhằm
nâng cao giá trị của người con gái: “Kết hôn mà không đủ sính lễ đến nhà cha
mẹ (người con gái) (nếu cha mẹ chết cả thì đem đến nhà người trưởng họ, hay
4
đến nhà của người trưởng làng để xin), mà thành hôn với nhau một cách cẩu
thả thì phải biếm một tư và theo lệ sang hèn, bắt phải nộp tiền tạ (xin lỗi) cho
cha mẹ ( nếu cha mẹ chết cả thì nộp cho trưởng họ hay người trưởng làng),
người con gái phải phạt 50 roi” (điều 314); quy định về sự tôn trọng quyền thủ
tiết của người vợ đối với chồng: “Tang chồng đã hết mà vợ muốn thủ tiết, nếu ai
không phải là ông bà cha mẹ mà ép gả cho người khác, thì xử biếm ba tư, bắt
phải li dị; người đàn bà phải trả về nhà chồng cũ” (Điều 320); bảo vệ con gái
nhà lương dân trước cường quyền: “Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con
gái kẻ lương dân, thì xử tội phạt, biếm hay đồ” (Điều 338).
Trong gia đình người vợ tương đối bình quyền với người chồng và do đó,
hôn nhân không được coi là sự chuyển giao hoàn toàn cô gái từ gia đình bên nội
của mình sang gia đình chồng như ở Trung Quốc. Không những thế, luật pháp
còn bảo vệ người phụ nữ. Họ được phép đến nhà đương chức xin ly hôn trong
trường hợp chồng không chăm nom, săn sóc vợ trong 5 tháng (1 năm - nếu vợ
đã có con). Nếu vợ đem đơn đến công đường thì bộ luật cho phép cưỡng bức ly
hôn. Nghĩa là, người chồng không làm tròn nghĩa vụ với vợ thì người vợ cũng
không buộc phải làm tròn bổn phận của mình. Quy định này không có trong bất
kỳ bộ luật nào của Trung Quốc cũng như các văn bản cổ luật trước hay sau triều
Lê. Ngay cả khi luật bắt buộc người chồng phải bỏ vợ ngoài ý muốn chủ quan,
Điều 310 quy định "Vợ, nàng dâu đã phạm vào điều "thất xuất" mà người
chồng ẩn nhẫn không bỏ thì phải tội biếm tùy theo nặng nhẹ". Tuy nhiên, sẽ
không thể ly hôn được nếu như khi phạm vào điều thất xuất người vợ đang ở
trong ba trường hợp (tam bất khứ): đã để tang nhà chồng 3 năm; khi lấy nhau
nghèo mà sau giàu có; khi lấy nhau có bà con mà khi bỏ lại không có bà con để
trở về. Đồng thời, khi hai bên vợ chồng đang có tang cha mẹ thì vấn đề ly hôn
cũng không được đặt ra. Khi ly hôn, con cái thường thuộc về chồng, nhưng nếu
muốn giữ con, người vợ có quyền đòi chia một nửa số con. Điều 167 - Hồng
Đức thiện chính thư - quy định rõ hình thức thuận tình ly hôn: Giấy ly hôn được
làm dưới hình thức hợp đồng, người vợ và người chồng mỗi bên giữ một bản
làm bằng chứng. Vậy là, bên cạnh sự ưng thuận của cha mẹ hay các bậc tôn
thuộc rất quan trọng thì sự ưng thuận của hai bên trai - gái cũng là một thành tố
được nhà lập pháp chú ý đến. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng sau khi ly
hôn hoàn toàn chấm dứt, hai bên đều có quyền kết hôn với người khác mà không
bị pháp luật ngăn cấm.
5
1.2 Trong chương Điền sản
Quyền lợi về kinh tế (quyền thừa kế hương hỏa) của người phụ nữ chỉ
được quan tâm trong các phần: Điền sản mới tăng thêm (ở các Điều 374, 375,
376); Bổ sung thêm về luật hương hỏa (ở các Điều 388, 391) và Châm chước bổ
sung về luật hương hỏa (Điều 387). Mặc dù nội dung chính của chương này vẫn
là bảo vệ quyền thừa kế của con trai trưởng, vợ cả với mục đích chính có lẽ là để
tránh sự tranh chấp tài sản giữa anh em khi cha mẹ qua đời, tuy nhiên cũng có
những quy định cụ thể cho con trai thứ, vợ và con gái cũng có quyền thừa kế
riêng.
Tìm hiểu bộ luật của nhà Lê trong chương này, đặc biệt là các Điều 374,
375, 376, chúng ta thấy tài sản gia đình gồm các loại sau: thứ nhất là tài sản gia
đình người con trai, thứ hai là tài sản của gia đình nhà cô gái cho trước khi về
nhà chồng (của hồi môn), thứ ba là của cải do hai vợ chồng cùng làm ra. Chính
vì vậy mà pháp luật nhà Lê có những quy định cụ thể về thừa kế đối với từng
loại tài sản. Điều 375 quy định “Vợ chồng không có con, hoặc ai chết trước
không có chúc thư, mà điền sản chia về chồng hay vợ cùng là để việc tế tự...,
người trong họ không được giữ phần điền sản về việc tế tự ấy nữa”. Có nghĩa là
một nửa tài sản của chồng hay vợ đã mất được chuyển giao cho gia đình của
người ấy, còn một nửa phần tài sản thì để lại cho người chồng hay người vợ làm
kế sinh tồn. Đối với tài sản của hai vợ chồng làm ra, luật cũng quy định rõ:
“...điền sản của hai vợ chồng làm ra thì chia làm hai, vợ chồng mỗi người được
một phần; phần của vợ được nhận làm của riêng, phần của chồng lại chia làm
3, cho vợ hai phần, để về việc tế tự và phần mộ một phần, hai phần cho vợ cũng
chỉ nuôi một đời mình, không được nhận làm của riêng, vợ chết hay cải giá thì
phần ấy lại để về việc tế tự và phần mộ của chồng...” (Điều 375). Sự phân chia
tài sản như trên cho thấy, khía cạnh quan trọng vị trí của người vợ trong gia đình
truyền thống Việt Nam. Nó đã chứng minh rằng, sở dĩ người vợ có được vị thế
cao trong gia đình vì những hoạt động kinh tế của chính mình, và người vợ được
bộ luật nhà Lê dành cho sự hợp thức trong pháp luật về quyền thừa kế tài sản.
Về quyền làm chủ tài sản, có một điều đặc biệt quan trọng quy định người
chồng không có quyền thừa kế tài sản của vợ, nếu người vợ mất đi mà không có
con: “Vợ chồng đã có con nếu một người chết trước, sau đó con cũng lại chết,
thì điền sản thuộc về chồng hay vợ. Nếu người trưởng họ chia không đúng phép,
thì bị xử phạt 50 roi, biếm một tư và mất phần chia (đúng phép nghĩa là điền
6
sản của vợ chia làm 3, để cho chồng hai phần, cho người họ (người thừa tự một
phần). Cha mẹ còn sống thì chia làm hai, thuộc về cha mẹ một phần, phần của
chồng chỉ để nuôi một đời, không được nhận làm của riêng, chồng chết thì phần
ấy thuộc về cha mẹ hay người thừa tự...” (Điều 376). Việc chuyển tài sản của
người vợ cho gia đình cha mẹ đẻ chứng tỏ người vợ không hoàn toàn bị phụ
thuộc vào quyền lực của người chồng. Khẳng định vai trò của người vợ trong
kinh tế gia đình đồng thời cho ta thấy cuộc hôn nhân của người phụ nữ Việt
Nam không phải là sự chuyển giao kiểm soát từ người cha sang người chồng chị
ta.
Một điều đặc biệt đáng lưu ý nữa trong việc thừa kế tài sản được quy định
trong bộ luật này là trong gia đình có sự chia đều tài sản của cha mẹ, động sản
cũng như bất động sản không phân biệt con gái hay con trai. Con gái cũng có
thừa kế hương hỏa để chăm lo việc thờ cúng tổ tiên: “Cha mẹ mất cả, có ruộng
đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em tự chia nhau, thì lấy một phần hai
mươi số ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho người con trai trưởng giữ,
còn thì chia nhau...” (Điều 388).
Quyền thừa kế của người con gái đã được chấp nhận, điều này khác biệt
hẳn so với xã hội Trung Quốc. Về mặt lịch sử, những người con gái Trung Quốc
thường bị loại ra khỏi việc phân chia gia sản, mà chỉ được một món hồi môn nhỏ
khi về nhà chồng. Ở Việt Nam thì khác, “người giữ hương hỏa không có con
trai trưởng thì dùng con gái trưởng, ruộng đất hương hỏa thì lấy một phần hai
mươi” (Điều 391).
Điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là nó có một bước tiến khá căn bản
trong việc cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vai trò của
người phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong
khu vực. Nó cho thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng
chết) và họ có quyền thừa kế như nam giới. Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm
nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam.
2. Quyền của người phụ nữ trong Hoàng Việt Luật lệ
Sau khi triều Lê suy yếu,Việt Nam rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài
suốt 3 thế kỷ, cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng
cố chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một
thời gian dài biến động, ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần
thần biên soạn một bộ luật mới. Năm 1815, bộ Hoàng Việt Luật lệ (còn gọi là
7
Bộ luật Gia Long) đã được ban hành. Trong bộ luật này, quyền lợi của người
phụ nữ được bảo vệ, đề cao, thể hiện như sau:
- Hoàng Việt Luật lệ đã lo xa hơn cho đời sống của các chị em nếu phải ly
dị, do đó có quy định ba trường hợp khiến cho chồng không thể bỏ vợ được trừ
khi người vợ ngoại tình là: vợ đã để tang cha mẹ chồng, vợ đã làm nên giàu có,
ngoài nhà chồng ra vợ không còn chỗ nào nương tựa nữa. Nếu vi phạm một
trong ba trường hợp ấy sẽ bị trừng trị đích đáng. Qua đó cho thấy bản luật rất tôn
trọng hiếu nghĩa của người phụ nữ.
- Trong bộ luật cũng đã quy định về việc trừng trị tội "quấy rối tình dục".
Điều 17 khoản 168 Hoàng Việt Luật lệ quy định "người nào dùng lời thô tục
dâm đãng làm cho người đàn bà đến xấu hổ mà tự tử thì phải xử đến hình giảo
giam hậu", Điều 12 còn nói thêm là "trong trường hợp không cố ý vẫn sẽ bị xử
hình trượng nhất bách lưu tam thiên lý". Đây chính là một hình thức thể hiện sự
bảo vệ nhân thân của người phụ nữ của Bộ luật Gia Long.
- Cấm quan lại lấy đàn bà, con gái ở địa phương nơi mình đang đương
chức. Tại các Điều 103 và 183 Hoàng Việt Luật lệ qui định như vậy nhằm tránh
sự lạm dụng quyền thế của các quan cưỡng bức con gái nhà lành hoặc gia đình
nhà gái lợi dụng hôn nhân để chi phối quan quyền.
- Cấm nhà quyền thế cưỡng đoạt, ức hiếp con gái nhà dân làm vợ. Điều
cấm này được ghi nhận rõ trong Điều 105.Nếu phạm vào tội này sẽ bị xử thắt
cổ. Đây là một quy định rất tiến bộ để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong
xã hội phong kiến.
- Pháp luật nghiêm cấm và có những hình phạt đối với những hành vi lừa
gạt để kết hôn, nhưng hình phạt đối với nhà trai nặng hơn nhà gái. Theo cách
giải thích của Bộ luật Gia Long, nhà trai nếu bị lừa gạt vẫn có thể cưới lại vợ
khác, còn nhà gái nếu bị phỉnh gạt thì đã thất thân (mất
đời con gái). Bộ luật Gia Long xử rất nặng tội gian dâm, đặc biệt là tội cưỡng
dâm đối với trẻ em gái (Điều 404 và Điều 1, quyển 18). Việc nghiêm cấm và
trừng phạt nặng đối với các tội thông dâm, cưỡng dâm phần nào gián tiếp bảo
vệ thân thể và nhân phẩm của người phụ nữ.
Bên cạnh những điểm tiến bộ, Bộ luật Hồng Đức và Hoàng Việt luật lệ
vẫn còn tòn tại những tư tưởng phong kiến lạc hậu đã ăn sâu hàng nghìn năm đè
nặng trách nhiệm, nghĩa vụ lên vai người phụ nữ. Đó chính là nghĩa vụ tòng phu
và nghĩa vụ chung thủy của người vợ.
8
Nghĩa vụ tòng phu là khái niệm suy rộng từ nghĩa vụ theo chồng, hết lòng
vì chồng, gia đình chồng của người vợ trong gia đình. Về nghĩa vụ này cả hai bộ
luật đều quy định song Bộ luật Hồng Đức không có một điều khoản cụ thể nào
về nghĩa vụ này. Còn trong Hoàng Việt luật lệ lại quy định rất tỉ mỉ về nghĩa vụ
này. Nghĩa vụ tòng phu của người vợ là: người vợ có nghĩa vụ để tang cha mẹ
chồng; thờ phụng tổ tiên nhà chồng; tôn trọng trật tự thê thiếp; không được xâm
hại bề trên, tôn trưởng bên chồng…(Điều 284, Điều 289, Điều 290).
Nghĩa vụ chung thủy cũng chỉ đặt ra chủ yếu đối với người vợ. Người vợ
phải tuyệt đối chung thuỷ nếu không sẽ bị coi là một trong bảy duyên cớ (thất
xuất) để người chồng bắt ly hôn và phải chịu hình phạt nghiêm khắc (Điều 401
BLHĐ); chồng có quyền gả bán nếu vợ mắc tội thông gian (Điều 332 HVLL).
Tuy nhiên, để giữ gìn sự hoà thuận trong gia đình, người chồng cũng phải chung
thuỷ với người vợ. Các nhà làm luật ở hai triều đại đã quy định người chồng
không được gả bán người vợ cho gian phu, người chồng không được gian dâm,
thông dâm với vợ người khác (Điều 401, 405 BLHĐ, Điều 254 HVLL)…
Nhưng thiệt thòi ở chỗ là người vợ không được ly dị trong các trường hợp này.
Việc quy định về chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và tài sản của vợ
chồng nói riêng trong pháp luật phong kiến chưa rõ ràng mà mới chỉ dự liệu
trong một số trường hợp riêng rẽ. Bộ luật Hồng Đức không có một chế định nào
đề cập đến vấn đề tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân mà chỉ dự liệu
một số trường hợp khi vợ hoặc chồng chết ( Điều 374- Điều 376). Hoàng Việt
Luật lệ do sao chéo y nguyên luật lệ nhà Thanh nên không có một điều khoản cụ
thể nào về tài sản vợ chồng. Song qua nghiên cứu thì chế độ tài sản của vợ
chồng trong cổ luật là chế độ cộng đồng pháp định. Đây là chế độ duy nhất được
áp dụng cho mọi quan hệ hôn nhân. Chế độ tài sản vợ chồng ước định không
được thừa nhận trên cả phương diện tục lệ và pháp lí, là do việc thỏa thuận chỉ
đặt ra khi hai bên có địa vị pháp lí bình đẳng với nhau, nhưng người vợ trong
pháp luật phong kiến gọi là “vô năng lực về mặt pháp lí” thì không thể có vị thế
bình đẳng để thỏa thuận với người chồng. Về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản
chung cổ luật Việt Nam quy định tài sản trong gia đình thuộc quyền quản lí
người chồng. Điều đó thể hiện các thân thuộc trong gia đình có nghĩa vụ phục
tùng sự phán quyết của người gia trưởng. Tuy nhiên theo pháp luật nhà Lê,
người vợ cũng tham gia vào việc quản lí tài sản chung và các hành vi quan trọng
như mua bán, cầm cố tài sản là “điền sản” thì phải có chữ kí của cả hai vợ
9
chồng. Trong Hoàng Việt Luật lệ, người vợ hoàn toàn vô năng lực và đặt dưới
sự quản lí của người chồng. Vì vậy so với pháp luật thời Lê thì pháp luật thời
Nguyễn là một bước lùi trong việc quy định quan hệ tài sản giữa vợ, chồng.
KẾT LUẬN
Là những bộ luật được ban hành trong thời phong kiến, các bộ luật cổ của
Việt Nam cũng phản ánh rất rõ nét bản chất bảo vệ giai cấp bóc lột và thống trị.
Mặc dù, vào cuối thế kỷ XIX đã có những sự thay đổi đáng kể thể hiện sự bình
đẳng và phần nào khẳng định địa vị của người phụ nữ nhưng phần lớn các quy
định của các bộ luật phong kiến còn thấy rất nhiều quy định mang tính bất công,
nó bảo vệ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng; quy định khắt khe đối với người
phụ nữ…Mặc dù những quy định đó đã không còn được ghi nhận trong pháp
luật đương đại, nhưng dấu ấn mà nó để lại vẫn còn hiện hữu trong một bộ phận
cán bộ và nhân dân, làm cản trở sự phát triển của xã hội đương thời.
10
- Xem thêm -