Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, YÊU CẦU VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI CÓ ĐƯ...

Tài liệu MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, YÊU CẦU VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI CÓ ĐƯƠNG SỰ HOẶC TÀI SẢN Ở NƯỚC NGOÀI HOẶC CẦN PHẢI ỦY THÁC CHO CƠ QUAN LÃNH SỰ VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI, CHO TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI

.DOCX
31
308
134

Mô tả:

Một trong những công việc quan trọng đầu tiên khi Tòa án xem xét, giải quyết vụ việc dân sự nói chung và tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại nói riêng là xác định thẩm quyền xét xử, muốn xác định đúng thì Tòa án phải căn cứ vào đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự, bởi chính nội dung đơn sẽ là cơ sở để xác định thẩm quyền, phạm vi xét xử, giải quyết của Tòa án. Nội dung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự chính là văn bản thể hiện ý chí của họ, Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Căn cứ vào đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự, Tòa án xác định thẩm quyền giải quyết đối với quan hệ pháp luật tranh chấp trên cơ sở vận dụng quy định pháp luật có liên quan để xác định đó có phải là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không hay thuộc thẩm quyền của cơ quan khác, tổ chức khác. Trường hợp thụ lý, giải quyết tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài thì còn phải xác định Tòa án Việt Nam có thẩm quyền không hay là thuộc thẩm quyền của Tòa án nước ngoài. Xác định thẩm quyền là công việc bắt buộc của Tòa án. Cụ thể là xem xét tính hợp pháp của đơn khởi kiện hay đơn yêu cầu cùng các tài liệu, chứng cứ chứng minh để quyết định trả lại đơn hoặc thụ lý vụ việc. Nếu bỏ qua công việc này sẽ ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ việc vì quyết định giải quyết vụ việc của Tòa án chỉ có giá trị pháp lý khi Tòa án giải quyết đúng thẩm quyền. Xác định thẩm quyền của Tòa án là việc làm quan trọng và có tính liên tục, bởi nó được đặt ra không những ở giai đoạn thụ lý vụ án mà còn ở các giai đoạn sau như giai đoạn chuẩn bị xét xử hay xét xử tại phiên tòa. Ngoài ra, tính liên tục còn được thực hiện ở các cấp xét xử trong trường hợp vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án luôn phải kiểm tra lại thẩm quyền giải quyết vụ việc đúng hay chưa. Trong thực tế, do chưa xác định rõ thẩm quyền nên dẫn đến vi phạm, nhiều bản án, quyết định bị kiểm tra phát hiện giải quyết, xét xử sai về thẩm quyền, nếu ngay từ đầu xác định đúng thẩm quyền thì sẽ không gây tốn kém công sức và tiền của của cơ quan nhà nước và của các đương sự... Sau khi xác định được Tòa án giải quyết vụ việc dựa trên hai yếu tố là thẩm quyền theo loại việc và thẩm quyền theo cấp xét xử, Tòa án tiếp tục đối chiếu xem loại việc đó nằm trong trường hợp nào của qui định pháp luật về phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ hay theo sự lựa chọn của nguyên đơn để loại trừ dần các bước trong quá trình xác định thẩm quyền để đưa ra quyết định Tòa án có nhiệm vụ giải quyết vụ việc. I. NHỮNG TRANH CHẤP, YÊU CẦU VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THUỘC THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN 1. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Theo quy định tại Điều 29 BLTTDS thì những tranh chấp sau đây về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: 1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: a) Mua bán hàng hoá; b) Cung ứng dịch vụ; c) Phân phối; d) Đại diện, đại lý; đ) Ký gửi; e) Thuê, cho thuê, thuê mua; g) Xây dựng; h) Tư vấn, kỹ thuật; i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng; n) Bảo hiểm; o) Thăm dò, khai thác. 2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Ngoài ra, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Điều 2 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP thì: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết “các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. 2. Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS, những yêu cầu sau đây về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: 1. Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại. 2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, YÊU CẦU VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI CÓ ĐƯƠNG SỰ HOẶC TÀI SẢN Ở NƯỚC NGOÀI HOẶC CẦN PHẢI ỦY THÁC CHO CƠ QUAN LÃNH SỰ VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI, CHO TÒA ÁN NƯỚC NGOÀI Một trong những công việc quan trọng đầu tiên khi Tòa án xem xét, giải quyết vụ việc dân sự nói chung và tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại nói riêng là xác định thẩm quyền xét xử, muốn xác định đúng thì Tòa án phải căn cứ vào đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự, bởi chính nội dung đơn sẽ là cơ sở để xác định thẩm quyền, phạm vi xét xử, giải quyết của Tòa án. Nội dung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự chính là văn bản thể hiện ý chí của họ, Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Căn cứ vào đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự, Tòa án xác định thẩm quyền giải quyết đối với quan hệ pháp luật tranh chấp trên cơ sở vận dụng quy định pháp luật có liên quan để xác định đó có phải là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không hay thuộc thẩm quyền của cơ quan khác, tổ chức khác. Trường hợp thụ lý, giải quyết tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài thì còn phải xác định Tòa án Việt Nam có thẩm quyền không hay là thuộc thẩm quyền của Tòa án nước ngoài. Xác định thẩm quyền là công việc bắt buộc của Tòa án. Cụ thể là xem xét tính hợp pháp của đơn khởi kiện hay đơn yêu cầu cùng các tài liệu, chứng cứ chứng minh để quyết định trả lại đơn hoặc thụ lý vụ việc. Nếu bỏ qua công việc này sẽ ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ việc vì quyết định giải quyết vụ việc của Tòa án chỉ có giá trị pháp lý khi Tòa án giải quyết đúng thẩm quyền. Xác định thẩm quyền của Tòa án là việc làm quan trọng và có tính liên tục, bởi nó được đặt ra không những ở giai đoạn thụ lý vụ án mà còn ở các giai đoạn sau như giai đoạn chuẩn bị xét xử hay xét xử tại phiên tòa. Ngoài ra, tính liên tục còn được thực hiện ở các cấp xét xử trong trường hợp vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án luôn phải kiểm tra lại thẩm quyền giải quyết vụ việc đúng hay chưa. Trong thực tế, do chưa xác định rõ thẩm quyền nên dẫn đến vi phạm, nhiều bản án, quyết định bị kiểm tra phát hiện giải quyết, xét xử sai về thẩm quyền, nếu ngay từ đầu xác định đúng thẩm quyền thì sẽ không gây tốn kém công sức và tiền của của cơ quan nhà nước và của các đương sự... Sau khi xác định được Tòa án giải quyết vụ việc dựa trên hai yếu tố là thẩm quyền theo loại việc và thẩm quyền theo cấp xét xử, Tòa án tiếp tục đối chiếu xem loại việc đó nằm trong trường hợp nào của qui định pháp luật về phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ hay theo sự lựa chọn của nguyên đơn để loại trừ dần các bước trong quá trình xác định thẩm quyền để đưa ra quyết định Tòa án có nhiệm vụ giải quyết vụ việc. I. NHỮNG TRANH CHẤP, YÊU CẦU VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI THUỘC THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN 1. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Theo quy định tại Điều 29 BLTTDS thì những tranh chấp sau đây về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: 1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: a) Mua bán hàng hoá; b) Cung ứng dịch vụ; c) Phân phối; d) Đại diện, đại lý; đ) Ký gửi; e) Thuê, cho thuê, thuê mua; g) Xây dựng; h) Tư vấn, kỹ thuật; i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng; n) Bảo hiểm; o) Thăm dò, khai thác. 2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Ngoài ra, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Điều 2 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP thì: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết “các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. 2. Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS, những yêu cầu sau đây về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: 1. Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại. 2. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. 3. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài. 4. Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. II. THẨM QUYỀN THEO CẤP TÒA ÁN 1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS. 2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm 2.1. Theo quy định tại Điều 34 BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây: a) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 2 (Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận) và khoản 3 (Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty) Điều 29 của BLTTDS (trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều 33 của BLTTDS); b) Yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 30 của BLTTDS; c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS. 2.2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 33 của BLTTDS mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết. Như vậy, theo quy định tại khoản 3 Điều 33 BLTTDS thì những tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Ngoài ra, Tòa án nhân dân cấp huyện không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 2 và 3 Điều 29 của BLTTDS và không có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về kinh doanh, thương mại được quy định tại Điều 30 BLTTDS. * Về các khái niệm “Đương sự ở nước ngoài”;“tài sản ở nước ngoài” hoặc “cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài”theo quy định tại khoản 3 Điều 33 BLTTDS: - Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Điều 7 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định tại khoản 3 Điều 33 BLTTDS thì: Đương sự ở nước ngoài bao gồm:Đương sự là người nước ngoài không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; Đương sự là người nước ngoài định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;Cơ quan, tổ chức không phân biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự. - Tài sản ở nước ngoài là tài sản được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 ở ngoài biên giới lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự. - Cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài là trường hợp trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự cần phải tiến hành một hoặc một số hoạt động tố tụng dân sự ở nước ngoài mà Tòa án Việt Nam không thể thực hiện được, cần phải yêu cầu cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài thực hiện hoặc đề nghị Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện theo quy định của Luật tương trợ tư pháp Việt Nam; điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. * Một số lưu ý: - Đối với vụ việc dân sự không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS và được hướng dẫn tại khoản Điều 7 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP nêu trênmà Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết mới có sự thay đổi, như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 412 BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó. - Đối với vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 BLTTDS và được hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP nêu trên và được Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết có sự thay đổi không còn đương sự, tài sản ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 412 BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó. III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ - Tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài nghiên cứu: 1) Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài; 2) Địa vị tố tụng của người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài; 3) Địa vị tố tụng của quốc gia nước ngoài và các đại diện lãnh sự và ngoại giao của quốc gia đó; 4) Vấn đề ủy thác tư pháp; và 5) Vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài. - Thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế được nghiên cứu là một bộ phận của tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài, bao gồm: 1) Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài; 2) Vấn đề ủy thác tư pháp; và 3) Vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài. 1. Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế Ở Việt Nam, thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng dân sự được xác định dưới các góc độ là thẩm quyền theo loại vụ việc, thẩm quyền theo cấp Tòa án, thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu. Nếu căn cứ vào các góc độ trên, chúng ta thấy, thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng dân sự là quyền xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự bằng một quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, các văn bản pháp luật chuyên ngành và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Để thực thi các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực Tư pháp quốc tế một cách hiệu quả, thì các quốc gia không thể không trao thẩm quyền cho cho Toà án. Do vậy, các quốc gia cũng phải xây dựng những quy phạm pháp luật tố tụng và tham gia hoặc ký kết các điều ước quốc tế để xác định thẩm quyền của Toà án quốc gia trong việc giải quyết các quan hệ dân sự mang tính quốc tế. Trong trường hợp giữa các quốc gia chưa ký kết hoặc gia nhập Điều ước quốc tế thì có thể xác định thẩm quyền theo nguyên tắc có đi có lại. Và như vậy, thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế không chỉ căn cứ vào pháp luật tố tụng dân sự trong nước mà còn căn cứ vào các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại. Từ những phân tích trên, thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế là quyền năng pháp lý của Toà án quốc gia (quyền lực tư pháp, quyền tài phán của quốc gia) được xác định theo quy định của pháp luật trong nước, trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại; có quyền xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài bằng một quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự quốc gia. 2. Các đặc điểm chính của thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế 2.1. Chủ thể giải quyết các vụ việc trong Tư pháp quốc tế là Toà án của quốc gia có thẩm quyền Dựa trên quan điểm về nguyên tắc chủ quyền quốc gia thì Tòa án nhiều nước đều có thẩm quyền xét xử đối với cùng một vụ việcdo các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan tới nhiều quốc gia khác nhau. Đây là một trong những điểm khác biệt cơ bản so với giải quyết vụ việc dân sự trong nước-chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa án quốc gia cụ thể, tức là chỉ xác định Tòa án cụ thể nào của quốc gia có thẩm quyền. Đối với những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thì điều đầu tiên khi xác định thẩm quyền của Tòa án là xác định Tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền hay còn gọi là thẩm quyền tư pháp thuộc về quốc gia nào. Đây tưởng chừng là một việc đơn giản nhưng thực chất lại rất khó khăn và phức tạp. Việc xác định Tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài phụ thuộc vào luật Tư pháp quốc tế của quốc gia đó. Tư pháp quốc tế các nước quy định thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài tại hai nguồn luật: pháp luật tố tụng dân sự trong nước và điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Việt Nam xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế dựa vào pháp luật tố tụng dân sự trong nước, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại. Nếu như vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh liên quan tới các quốc gia có điều ước quốc tế với nhau về vấn đề xác định thẩm quyền của Tòa án, thì theo nguyên tắc về giá trị ưu tiên áp dụng của điều ước quốc tế so với pháp luật quốc gia, quy tắc xác định thẩm quyền của điều ước quốc tế đó sẽ phải được các nước tuân thủ. Trong trường hợp này, việc xung đột thẩm quyền của Tòa án vẫn có thể phát sinh, cho dù đã có sự thống nhất giữa các quốc gia có liên quan, nếu như tiêu chí để xác định thẩm quyền của Tòa án trong điều ước quốc tế đó để mở khả năng Tòa án nhiều quốc gia đều có quyền thụ lý. Trường hợp xung đột thẩm quyền xét xử kết thúc khi trong điều ước quốc tế các quốc gia xác định tiêu chí cụ thể để giải quyết, ví dụ trong hiệp định tương trợ tư pháp có quy định: Nếu Tòa án của cả hai nước ký kết đều có thẩm quyền cùng thụ lý một vụ kiện có cùng các bên đương sự và cùng một nội dung, thì Tòa án nào thụ lý sau sẽ phải đình chỉ tố tụng và báo cho các bên đương sự biết. Trong trường hợp không có điều ước quốc tế giữa các quốc gia về vấn đề xác định Tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền đối với một vụ việc có yếu tố nước ngoài, thì việc xác định thẩm quyền của Tòa án mỗi nước sẽ phụ thuộc vào quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong nước. Hiện tượng xung đột thẩm quyền của Tòa án có thể xảy ra khi: 1) Pháp luật tố tụng dân sự của các quốc gia có liên quan đưa ra các tiêu chí khác nhau khi xác định thẩm quyền của Tòa án nước mình đối với một vụ việc. 2) Hoặc pháp luật tố tụng các quốc gia có liên quan đều đưa ra cùng một tiêu chí để xác định thẩm quyền của Tòa án quốc gia mình, nhưng do sự không đồng nhất của quan hệ xét trên tiêu chí đó làm xuất hiện xung đột thẩm quyền của Tòa án. Điều này đòi hỏi, trong giải quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài, Tư pháp quốc tế phải định ra tiêu chí nhất định để xác định thẩm quyền của Tòa án một quốc gia nhất định hoặc Tòa án cụ thể của một quốc gia. Như vậy, đặc điểm cơ bản quan trọng nhất khi nghiên cứu thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế chính là giải quyết triệt để vấn đề xung đột thẩm quyền tư pháp của các quốc gia có liên quan đến vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, tức là xác định Tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền. Đây chính là việc xác định chủ thể có thẩm quyền giải quyết thuộc về quốc gia nào hay thẩm quyền tư pháp của quốc gia nào, mà cụ thể là Tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền. 2.2. Căn cứ pháp lý xác định thẩm quyền không chỉ bó hẹp trong luật quốc nội Xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi giải quyết các tranh chấp, yêu cầu; xuất phát từ nguyên tắc được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật, khi bị thiệt hại, có thể bị thiệt hại..., cá nhân, tổ chức thường thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết.... Như vậy, cá nhân, tổ chức được yêu cầu Toà án giải quyết những vấn đề mà pháp luật không cấm và Toà án phải có nghĩa vụ tiếp nhận những yêu cầu của họ. Tuy nhiên, trong thực tế các quốc gia thường có các quy định, theo đó, Tòa án nói riêng (cơ quan nhà nước nói chung) chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, xét về hình thức thể hiện sự hạn chế phạm vi thẩm quyền của Toà án, nhưng xét về bản chất thì Nhà nước hạn chế phạm vi được bảo vệ của người dân. Ví dụ, Điều 29 BLTTDS quy định những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, Điều 30 BLTTDS quy định những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Rõ ràng, với những quy định này, tưởng như là cá nhân, tổ chức có quyền thỏa thuận để chọn Tòa án có thẩm quyền để giải quyết, và thẩm quyền của Tòa án xuất hiện do sự lựa chọn của các đương sự, nhưng pháp luật tố tụng lại chỉ quy định trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu được chọn Tòa án. Như vậy, khi giải quyết một vụ việc dân sự thông thường, Tòa án chỉ áp dụng các quy định pháp luật tố tụng dân sự của quốc gia mình để xác định thẩm quyền. Thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế, giải quyết các vụ việc phát sinh từ các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài trước hết vẫn phải căn cứ vào những nguyên tắc nhất định của các văn bản pháp luật trong nước. Điều này được thể hiện rõ ràng nhất khi xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế là phải căn cứ nguyên tắc chủ quyền quốc gia để xây dựng quy phạm tố tụng - quy phạm thực chất, quy phạm đơn phương. Quy phạm này xác định trong trường hợp cụ thể, Tòa án có thẩm quyền hay không. Tức là chỉ xác định thẩm quyền của Tòa án của chính nước đã xây dựng ra quy phạm đó mà không có quyền xây dựng các quy phạm pháp luật để xác định thẩm quyền của Tòa án của quốc gia khác trong Tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, để tránh các trường hợp xung đột thẩm quyền của Tòa án giữa các quốc gia liên quan, các quốc gia cũng có thể ký kết với nhau những điều ước quốc tế để xác định thẩm quyền của Tòa án của mỗi quốc gia. Đặc điểm này cho phép phân biệt với thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng dân sự thông thường (chỉ căn cứ vào pháp luật trong nước), phân biệt với thẩm quyền củaTòa án trong tố tụng Công pháp quốc tế (chỉ căn cứ vào các điều ước quốc tế do các quốc gia hoặc các chủ thể khác của công pháp quốc tế thỏa thuận chấp nhận hoặc xây dựng nên). 2.3. Có quyền áp dụng tập quán quốc tế và pháp luật nội dung của quốc gia khác Việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến tập quán quốc tế và nhiều hệ thống pháp luật nên pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho phép Tòa án quốc gia được áp dụng tập quán quốc tế và pháp luật nội dung của nước ngoài trong một số trường hợp nhất định. Đây không phải là nghĩa vụ pháp lý của mỗi quốc gia mà thuộc chủ quyền quốc gia. Vì nếu Tòa án chỉ áp dụng pháp luật nội dung của nước mình để điều chỉnh các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài hoặc bằng mọi cách để mở rộng hiệu lực của pháp luật nước mình mà không tính đến trường hợp cụ thể cần áp dụng pháp luật nước ngoài thì đều thủ tiêu đi tính khách quan, tính công bằng, và tất yếu sẽ khó khăn trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân nước ngoài cũng như công dân, pháp nhân nước mình ở nước ngoài. Tuy nhiên, Tòa án quốc gia chỉ áp dụng tập quán quốc tế và pháp luật nội dung của nước ngoài khi được các văn bản pháp luật trong nước quy định hoặc được điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên viện dẫn hoặc được các bên thỏa thuận trong hợp đồng nếu thỏa thuận đó không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước mình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Và tại khoản 3 Điều 759 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì trong trường hợp Bộ luật dân sự, các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp dụng, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Pháp luật nước ngoài cũng được áp dụng trong trường hợp các bên có thoả thuận trong hợp đồng, nếu sự thoả thuận đó không trái với quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không được Bộ luật dân sự, các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên điều chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế, nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi Tòa án quốc gia áp dụng pháp luật nội dung của nước ngoài thì phải tự mình giải thích, xác định nội dung pháp luật nước ngoài cần áp dụng (thông qua việc nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật, thực tiễn xét xử, các tập quán cũng như các công trình khoa học pháp lý của nước hữu quan). Đồng thời, Tòa án phải tự mình thu thập và xác minh các chứng cứ liên quan đến vụ việc. Các bên đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, nhưng việc xác định chứng cứ vẫn là trách nhiệm chính của Tòa án quốc gia. Tuy nhiên, trong trường hợp, Tòa án quốc gia đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà vẫn không xác định được nội dung của pháp luật nước ngoài để áp dụng thì sẽ áp dụng pháp luật nước mình. 2.4. Có quyền công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam Bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài đã được tuyên ở nước nào thì chỉ có hiệu lực thi hành ở lãnh thổ nước đó. Bởi vậy, về nguyên tắc, bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài muốn được thi hành ở nước khác thì phải được Tòa án của nước đó ra quyết định công nhận và cho thi hành. Pháp luật các nước có những quy định khác nhau về vấn đề công nhận và thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia mình. Để các bản án, quyết định của Tòa án các nước, quyết định của Trọng tài nước ngoài đều có thể được thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự và thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế, các nước đã ký kết với nhau những điều ước quốc tế về công nhận và thi hành trên lãnh thổ của nhau bản án, quyết định dân sự của Tòa án, quyết định của Trọng tài nước ngoài; hoặc bản án, quyết định dân sự của Tòa án, quyết định của Trọng tài của nước có áp dụng nguyên tắc có đi có lại với Việt Nam mà không đòi hỏi phải ký kết hoặc tham gia điều ước quốc tế; và, bản án, quyết định dân sự của Tòa án, quyết định của Trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam khi được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành; Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam và không có đơn yêu cầu không công nhận thì đương nhiên được công nhận tại Việt Nam theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Toà án Việt Nam chỉ xem xét việc không công nhận bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam khi có đơn yêu cầu không công nhận. Việc thi hành phải tuân theo các quy định của pháp luật Việt Nam về thi hành án dân sự. Khi đó, bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp luật như quyết định của Tòa án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật. 2.5. Có quyền ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam ra nước ngoài và thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của nước ngoài cho Việt Nam Thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng dân sự thông thường thì chỉ tiến hành những hành vi tố tụng trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình. Thẩm quyền của Tòa án trong Tư pháp quốc tế đòi hỏi nếu không thực hiện một số hành vi tố tụng riêng lẻ như tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu; triệu tập người làm chứng, người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ hoặc các yêu cầu khác ở nước ngoài thì không thể giải quyết được vụ việc. Trong trường hợp đó, Tòa án phải ủy thác cho Tòa án của nước ngoài có liên quan thực hiện giúp một số hành vi tố tụng riêng lẻ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật tương trợ tư pháp của Việt Nam năm 2007 thì “Uỷ thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”. Trong tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam là Tòa án. Như vậy, nếu không có quy định của điều ước quốc tế ràng buộc thì Tòa án của nước có liên quan không có nghĩa vụ thực hiện ủy thác tư pháp. Thông thường, các nước đều quy định những điều kiện ủy thác và thực hiện ủy thác tư pháp đối với những hành vi tố tụng riêng lẻ. Các nước cũng không thể nào buộc Tòa án của nước khác thực hiện ủy thác tư pháp của Tòa án nước mình nếu pháp luật quốc gia của nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà nước liên quan đó là thành viên không quy định hoặc các nước có liên quan không áp dụng nguyên tắc có đi có lại với nhau. Tại Điều 4 của Luật tương trợ tư pháp Việt Nam quy định các nguyên tắc tương trợ tư pháp, theo đó: “Tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế”. Việc thực hiện ủy thác tư pháp phải tuân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự của nước nơi ủy thác tư pháp được thực hiện. Theo khoản 1 Điều 16 Luật tương trợ tư pháp thì chi phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự giữa Việt Nam và nước ngoài do nước yêu cầu chi trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác. IV. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm “Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài” Theo quy định tại khoản 2 Điều 405 BLTTDS thì: “Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các đương sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Theo định nghĩa trên thì một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài khi có một hoặc các yếu tố: 1) Đương sự (có ít nhất một trong các đương sự) trong vụ việc dân sự là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; 2) Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự giữa các đương sự là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài, và 3) Tài sản liên quan đến quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. Theo quy định tại Điều 2 Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, người nước ngoài bao gồm công dân nước ngoài và người không quốc tịch, trong đó, công dân nước ngoài (quốc tịch nước ngoài) là công dân (quốc tịch) của một nước khác không phải là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài; người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Tại Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh. Tại Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam để tìm hiểu thị trường và thực hiện một số hoạt động xúc tiến thương mại mà pháp luật Việt Nam cho phép; và Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập và hoạt động thương mại tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Như vậy, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là những vụ việc có liên quan đến ít nhất hai nước, dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền của ít nhất hai nước khác nhau có liên quan đều có thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự đó. Do đó, trường hợp này, pháp luật Việt Nam không thể quy định cụ thể các loại thẩm quyền của TṬa án theo vụ việc, theo cấp hoặc theo lănh thổ mà tập trung quy định các quy tắc để giải quyết vấn đề xung đột thẩm quyền xét xử giữa Tòa án Việt Nam với Tòa án nước ngoài (hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài) có liên quan đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. 2. Quyền, nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài Theo quy định tại Điều 406 BLTTDS thì “Công dân nước ngoài, người không quốc tịch, cơ quan tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế (sau đây gọi chung là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài)có quyền khởi kiện đến Tòa án Việt Nam để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp. Khi tham gia tố tụng dân sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài có quyền và nghĩa vụ tố tụng như công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam. Nhà nước Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại để hạn chế quyền tố tụng dân sự tương ứng của công dân nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài mà Tòa án của nước đó đã hạn chế đối với công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam”. 3. Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự nói chung (các vụ việc về kinh doanh, thương mại nói riêng) có yếu tố nước ngoài Theo quy định tại khoản 1 Điều 410 BLTTDS thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sựnói chung (các vụ việc về kinh doanh, thương mại nói riêng) được quy định tại các điều từ Điều 25 đến Điều 32 BLTTDS mà các vụ việc dân sự đó có yếu tố nước ngoài, và thẩm quyền của Tòa án các cấp, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được áp dụng theo các quy định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 36 BLTTDS, trừ các trường hợp chương XXXV BLTTDS có quy định khác. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước, đồng thời vẫn bảo vệ được chủ quyền và lợi ích quốc gia, tại khoản 2 Điều 410 BLTTDS quy định các trường hợp Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, cụ thể: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài trong các trường hợp sau đây: a) Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam; b) Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam; … d) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng có ít nhất một trong các đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài; đ) Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam; e) Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà việc thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam; Sau khi đối chiếu quy định tại điểm a khoản 2 Điều 410 với các Điều từ 33 đến Điều 36 BLTTDS thì thấy: Đối với trường hợp bị đơn là tổ chức nước ngoài không có trụ sở chính và Chi nhánh tại Việt Nam nhưng lại có cơ quan quản lý, Văn phòng đại diện tại Việt Nam, việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự loại này có thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam hay không thì đã được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 410 BLTTDS. Tuy nhiên, Điều 410 BLTTDS mới chỉ quy định chung về thẩm quyền của Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài chứ không quy định cụ thể thẩm quyền của Tòa án cụ thể nào của Việt Nam. Để xác định thẩm quyền cụ thể là Tòa án nào có thẩm quyền thì ngay khoản 1 của Điều 410 BLTTDS đã quy định là chúng ta phải căn cứ vào các quy định tại Chương III của Bộ luật tố tụng dân sự, tức là Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự được quy định tại các điều từ Điều 25 đến Điều 32 BLTTDS mà các vụ việc dân sự đó có yếu tố nước ngoài, và thẩm quyền của Tòa án các cấp, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được áp dụng theo các quy định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 36 BLTTDS, trừ trường hợp chương XXXV của Bộ luật tố tụng dân sự có quy định khác. Điểm a khoản 2 Điều 410 của Bộ luật tố tụng dân sự có quy định, Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có Cơ quan quản lý, Chi nhánh, Văn phòng đại diện tại Việt Nam. Ta thấy, quy định này phân biệt rõ khái niệm “trụ sở” với “Cơ quan quản lý, Chi nhánh, Văn phòng đại diện” tại Việt Nam. Để quy định của pháp luật tố tụng được thống nhất, đồng bộ, tránh tình trạng thoạt nhìn qua thì thấy các quy định có vẻ đầy đủ nhưng khi xem xét kỹ thì lại
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan